Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.92 KB, 77 trang )

Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm cuối thế kỉ 20 đầu thế kỉ 21, cả nhân loại đã và đang đợc
chứng kiến diễn biến của quá trình quốc tế hóa nền kinh tế toàn cầu với quy
mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng cao, trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống kinh tế xã hội. Điều đó làm cho nền kinh tế thế giới trở thành một chỉnh
thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, giữa chúng có sự phụ
thuộc lẫn nhau. Nói cách khác, hội nhập quốc tế đã và đang trở thành một xu
thế chủ đạo, tất yếu, không thể đảo ngợc. Trong xu thế ấy, hệ thống tài chính
nói chung và hệ thống ngân hàng thơng mại Việt nam nói riêng không chỉ là
huyết mạch của nền kinh tế quốc dân mà còn mang trong mình vận hội vơn
rộng ra phạm vi khu vực và thế giới. Hội nhập quốc tế đã, đang và sẽ tạo ra cơ
hội thuận lợi cho sự phát triển với phơng châm đi tắt đón đầu nhng cũng đặt
ra không ít khó khăn, thách thức, nhất là khả năng dễ bị tổn thơng, đòi hỏi
mỗi ngân hàng phải tự thân vận động, đổi mới mạnh mẽ để phát triển, vơn lên,
đẩy lùi nguy cơ lạc hậu và tụt hậu ngày càng xa hơn.
Khi tiến hành mở cửa và hội nhập các NHTM Việt nam sẽ phải cạnh
tranh với các ngân hàng nớc ngoài mà không có sự bảo hộ của Nhà nớc. Đây
sẽ là một khó khăn rất lớn cho các ngân hàng Việt Nam khi mà bản thân các
ngân hàng vẫn còn nhiều yếu kém, sức cạnh tranh của các ngân hàng còn thấp
hơn với các ngân hàng nớc ngoài cả về quy mô lẫn tiềm lực. Vì vậy, việc cần
làm lúc này là cải tổ hoạt động và hiện đại hóa hệ thống ngân hàng một cách
toàn diện, triệt để và mạnh mẽ để đáp ứng những đòi hỏi mới của nền kinh tế
hội nhập.
Là một trong 5 Ngân hàng thơng mại Nhà nớc lớn nhất của Việt nam
Ngân hàng Đầu t và Phát triển (BIDV) có quá trình gần 50 năm xây dựng và
phát triển. Tuy nhiên, do thời gian dài hoạt động trong cơ chế bao cấp cho nên
1
cũng nằm trong tình trạng trên. Để đứng vững trên thị trờng, tranh thủ những
thuận lợi của tiến trình hội nhập, nhiệm vụ quan trọng của BIDV là cần phải
có những giải pháp phù hợp và khả thi để nâng cao sức cạnh tranh.


Nâng cao sức cạnh tranh là vấn đề quyết định sự tồn tại và phát triển
của các NHTM Việt nam nói chung và của BIDV nói riêng. Xuất phát từ yêu
cầu bức xúc của hoạt động thực tiễn kinh doanh ngân hàng, em lựa chọn vấn
đề Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng Đầu t và Phát
triển Việt nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
- Hệ thống hoá để làm rõ hơn một số vấn đề về cạnh tranh và nâng
cao năng lực cạnh tranh của NHTM
- Đánh giá thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ngân
hàng Đầu t và Phát triển Việt nam
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân
hàng Đầu t và Phát triển trong tiến trình hội nhập.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng là một vấn đề rất rộng. Trong
phạm vi của một bài khoá luận, do những hạn chế nhất định về thời gian và
kinh nghiệm nghiên cứu, nên đề tài chỉ đề cập đến:
- Những vấn đề liên quan đến năng lực cạnh tranh và việc nâng cao
năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng.
- Lấy thực tế tại ngân hàng Đầu t và Phát triển Việt nam từ năm 1996
làm cơ sở minh chứng
4. Phơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phơng pháp nghiên cứu khoa học nh
- Phơng pháp so sánh
2
- Phơng pháp phân tích
- Phơng pháp điều tra thống kê
- Lý thuyết kinh tế học
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn đợc cấu thành ba chơng:

Chơng I : Hội nhập kinh tế quốc tế Những vấn đề cơ bản về
năng lực cạnh tranh của NHTM
Chơng II : Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngân hàng Đầu
t và Phát triển Việt nam
Chơng III : Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân
hàng Đầu t và Phát triển Việt nam
3
Chơng I
Những vấn đề cơ bản về nâng cao năng lực cạnh
tranh của NHTM
1.1 Tổng quan về năng lực cạnh tranh của các ngân hàng th-
ơng mại trong nền kinh tế thị trờng.
1.1.1 Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Trong các cuộc thảo luận nhằm tìm kiếm thần dợc cho tăng trởng kinh
tế trong những năm gần đây, vấn đề năng lực cạnh tranh đợc đề cập tới và
nhấn mạnh nh là một trong những trụ cột của phát triển kinh tế thơng mại.
Vấn đề này càng trở nên bức thiết hơn khi hội nhập kinh tế ngày càng lan rộng
và mở rộng tới các quốc gia đang và kém phát triển, liệu các công ty lớn mạnh
nớc ngoài sẽ tiếp sức cho nền kinh tế hay bóp nghẹt các công ty trong nớc?
Làm thế nào để các công ty trong nớc với tiềm lực còn hạn chế có thể cạnh
tranh đợc?
Không phải đến bây giờ các nhà kinh tế mới quan tâm tới vấn đề năng
lực cạnh tranh. Ngay từ thế kỷ 18, nhà kinh tế học Adam Smith đã đa ra học
thuyết lợi thế tuyệt đối trong tác phẩm Bản chất về sự giàu có của các quốc gia
để giải thích sự giàu có của các quốc gia. Tiến bộ hơn học thuyết của Adam
Smith, David Ricardo đã xây dựng lý thuyết lợi thế so sánh để lý giải về
những lợi ích trong thơng mại quốc tế đồng thời lý giải vì sao những nớc
không có lợi thế tuyệt đối nhng vẫn có thể phát triển nhờ vào việc khai thác
những lợi thế tơng đối của mình. Nhng những đặc điểm mới của cạnh tranh
quốc tế, đặc biệt là sự phát triển của các hình thức đầu t nớc ngoài cùng sự

hình thành các tập đoàn đa quốc gia với hình thức cạnh tranh không chỉ giới
hạn trong hoạt động xuất nhập khẩu mà còn thông qua các công ty con ở nớc
ngoài, đã làm yếu đi các học thuyết cổ điển về lợi thế so sánh giữa các quốc
gia.
4
Trên cơ sở kế thừa các học thuyết cổ điển, các nhà kinh tế học hiện đại
đã tập trung phân tích và dần hình thành nên một hệ thống khái niệm mới về
lợi thế cạnh tranh, về năng lực cạnh tranh nói chung, năng lực cạnh tranh quốc
tế nói riêng nhằm giải thích những nhân tố thúc đẩy cho sự phát triển của một
quốc gia, cũng nh của một công ty, doanh nghiệp trong môi trờng kinh doanh
quốc tế. Nhiều học thuyết đã ra đời trong giai đoạn này, tiêu biểu trong số đó
là lý thuyết về các nhân tố của quá trình sản xuất của Heckscher và Ohlin.
Heckscher cho rằng lợi thế cạnh tranh của các quốc gia đợc tạo ra trên cơ sở
của những điều kiện tơng đơng về công nghệ, nhng khác nhau về các nguồn
lực đợc gọi là yếu tố sản xuất nh đất đai, lao động, các điều kiện tự nhiên và
vốn. Nh vậy các quốc gia sẽ có lợi thế cạnh tranh dựa trên các yếu tố sản
xuất trong những ngành có sử dụng những nhân tố mà nớc đó d thừa. Quốc gia
đó sẽ xuất khẩu sản phẩm của những ngành có lợi thế về nhân tố sản xuất và
nhập khẩu những mặt hàng mà họ bị bất lợi về nhân tố sản xuất. Lý thuyết này
giải thích lợi ích của thơng mại quốc tế đối với một số ngành đặc biệt là những
ngành phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, những ngành không đòi hỏi cao
về trình độ lao động và công nghệ.
Trong thời gian gần đây, nổi bật nhất trong các học thuyết về năng lực
cạnh tranh là học thuyết của Michael Porter với những nghiên cứu rất toàn
diện về năng lực cạnh tranh của các DN, công ty, ngành sản xuất cũng nh của
một quốc gia. Tuy nhiên, Michael Porter cũng thừa nhận không thể đa ra một
định nghĩa tuyệt đối về khái niệm năng lực cạnh tranh. Theo ông, Để có thể
cạnh tranh thành công, các DN phải có đợc lợi thế cạnh tranh dới hình thức
hoặc là có đợc chi phí sản xuất thấp hơn hoặc là có khả năng khác biệt hoá sản
phẩm để đạt đợc mức giá cao hơn trung bình. Để duy trì lợi thế cạnh tranh,

các DN cần ngày càng đạt đợc những lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có
thể cung cấp những hàng hoá hay dịch vụ có chất lợng cao hơn hoặc sản xuất
có hiệu suất cao hơn
5
M. Porter đã tiếp cận khái niệm khả năng cạnh tranh ở khía cạnh động.
Cạnh tranh là các DN phải luôn thay đổi để có sản phẩm mới, quá trình sản
xuất mới, thị trờng mới, đồng thời ông còn nhấn mạnh cạnh tranh còn bao
gồm cả việc DN có khả năng duy trì và liên tục tăng cờng khả năng cạnh tranh
của mình.
Nh vậy, mặc dù có rất nhiều những lý thuyết về lợi thế cạnh tranh của
các nhà kinh tế nhng chúng ta vẫn cha có một định nghĩa chính xác nào về
năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên tuỳ vào điều kiện hoàn cảnh mà ngời ta đa ra
những chỉ tiêu cụ thể để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành đó. Đối với
các NHTM, khả năng cạnh tranh có thể đợc đánh giá thông qua lý thuyết của
M.Porter và hệ thống đánh giá Ngân hàng thơng mại (CAMEL). Đó là:
- Nguồn vốn của ngân hàng (Capital)
- Chất lợng tài sản có (Asset Quality)
- Khả năng quản lý (Management Ability)
- Khả năng sinh lời (Earnings)
- Khả năng thanh toán (Liquidity)
1.1.2 Một số đặc điểm của hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân
hàng
a. Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thơng mại trong cơ chế thị tr-
ờng Những đặc điểm cơ bản
Thông qua chức năng cơ bản là các trung gian tài chính, các NHTM đã
thâm nhập sâu vào hầu hết các hoạt động kinh tế trong xã hội. Mối quan hệ
hữu cơ và nhạy cảm giữa hệ thống NHTM với nền kinh tế đợc thể hiện mạnh
mẽ, hệ thống NHTM tốt sẽ tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nền kinh
tế, đồng thời sự phát triển của nền kinh tế cũng có tác động quyết định đến
hoạt động và kết quả hoạt động của hệ thống NHTM

Hoạt động kinh doanh của các NHTM có những đặc trng cơ bản sau:
a.1 Là ngành kinh doanh dịch vụ đặc thù phức tạp.
6
Khách hàng giao dịch với NH là nhằm mua hoặc bán một lợi ích
liên quan đến tài chính song không tồn tại dới dạng vật chất, mặc dù hầu hết
các giao dịch NH đều đi kèm với một số lợng tiền nhất định. Ví dụ khách
hàng mang tiền đến gửi tiết kiệm tại ngân hàng, họ không chuyển quyền sở
hữu số tiền đó cho ngân hàng mà chỉ tạm thời uỷ quyền sử dụng số tiền đó
trong một khoảng thời gian nhất định và sau khoảng thời gian đó ngân hàng
phải hoàn trả nguyên vẹn số tiền cho khách hàng cộng thêm một khoản tiền
lãi là tiền mua lợi ích đợc sử dụng số tiền đó trong khoảng thời gian trên.
So sánh với các ngành kinh doanh dịch vụ khác, dịch vụ NH mang tính
phức tạp hơn nhiều do có sự tham gia của nhiều nhân viên, nhiều ban phòng.
Tính phức tạp còn thể hiện ở sự đa dạng và phong phú xét trên cả khía cạnh
loại hình dịch vụ lẫn quy mô của từng dịch vụ. Dịch vụ NH thuộc loại hình
đòi hỏi tri thức cao, hàm lợng công nghệ thông tin và các công nghệ tiên tiến
lớn, trang thiết bị ngày càng hiện đại. Yêu cầu về tính chính xác đòi hỏi rất
cao, sai sót phải đợc hạn chế tới mức thấp nhất do mỗi sai sót có thể gây ra
những thiệt hại rất lớn.
a.2 Là ngành kinh doanh có độ rủi ro cao
Kinh doanh trong cơ chế thị trờng, mọi doanh nghiệp đều hiểu rằng
phải chấp nhận một mức độ rủi ro nhất định. Tuy nhiên, đối với các NHTM,
rủi ro luôn rình rập với mức độ cao xuất phát từ những nguyên nhân sau :
- Rủi ro của các NHTM là cộng hợp từ tất cả các khách hàng.
- Đối tợng kinh doanh của các NHTM là tiền tệ, loại hàng hoá đặc
biệt rất nhạy cảm với các yếu tố rủi ro.
- Tính dễ lây lan rủi ro giữa các NHTM với nhau
a.3 Là ngành kinh doanh chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà n ớc
Xuất phát từ những đặc điểm rủi ro cao trong kinh doanh và những tác
động lớn của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế chính trị xã hội

của mỗi quốc gia, thậm chí là đối với khu vực thế giới, vì vậy tại tất cả các n-
ớc, Nhà nớc đều quản lý hết sức chặt chẽ hoạt động của các NHTM thông qua
7
hệ thống luật pháp. Hệ thống các quy chế quản lý các hoạt động của NHTM
có thể là những điều ớc quốc tế và của luật pháp mỗi quốc gia, bao gồm:
- Nhóm các quy định về thành lập ngân hàng.
- Nhóm các quy định về an toàn hoạt động.
- Nhóm các quy định bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
- Nhóm các quy định liên quan đến thực thi chính sách tiền tệ.
a.4 Là ngành kinh doanh mang tính chất dài hạn và khó chuyển đổi sang lĩnh
vực kinh doanh khác
Mối quan hệ ràng buộc giữa khách hàng với ngân hàng là mối quan hệ
rất đặc biệt vì nó liên quan đến vấn đề tài chính là vấn đề không dễ cởi mở
trong điều kiện bình thờng. Vì vậy, chỉ khi khách hàng và ngân hàng thật sự
tin tởng lẫn nhau thì mối quan hệ mới đợc xác lập. Uy tín của ngân hàng
không thể đợc tạo dựng một cách nhanh chóng mà cần có thời gian.
Tính chất dài hạn còn đợc thể hiện ở các khoản đầu t hoặc các khoản
cam kết của NH mang tính chất dài hạn nh đầu t các dự án, bảo lãnh, mở L/C
trả chậm Chính vì vậy, các NHTM chỉ có thể biết đ ợc chính xác hiệu quả
kinh doanh của mình sau khi các cam kết kết thúc. Khác với các ngành khác,
các NHTM không thể dễ dàng di chuyển sang lĩnh vực kinh doanh khác khi
thấy không có lợi vì các chu trình lu chuyển luôn gối đầu nhau với giá trị và
thời hạn lệch pha nhau.
b. Đặc điểm cơ bản của cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng
Đặc điểm của cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng đợc
quyết định và chi phối bởi đặc điểm hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do
vậy, cạnh tranh ngân hàng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra mạnh mẽ ở các
nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển. Tính chất gay gắt của cạnh tranh ngân
hàng đợc thể hiện ở sự trìu tợng của chất lợng hoạt động ngân hàng hơn là bề

nổi của hình thức bên ngoài nh các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác.
8
Thứ hai, sự phản ứng của các lực lợng cạnh tranh trong lĩnh vực ngân
hàng thờng diễn ra nhanh chóng nhng sự chống đỡ thờng khó khăn hơn. Sản
phẩm dịch vụ ngân hàng không đợc bảo hộ, dễ bị các đối thủ bắt chớc. Việc
cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng thờng nhanh chóng và không bị các rào
cản.
Thứ ba, cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng hết sức phong phú và đa
dạng. Ngân hàng là lĩnh vực có nhiều yếu tố nhạy cảm và có nhiều loại hình tổ
chức kinh doanh tiền tệ hoạt động đan xen trên thị trờng.
Thứ t, quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng phải thực hiện đồng
bộ và chặt chẽ bởi tính chất phức tạp và tầm quan trọng của tiền tệ và hoạt
động ngân hàng trong nền kinh tế, xã hội.
Từ phân tích trên chúng ta có thể thấy cạnh tranh NH nhìn chung là có
mức độ gay gắt, đa dạng, phong phú hơn các ngành kinh doanh khác. Chính vì
vậy, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh cũng trở nên phức tạp hơn và bao
gồm nhiều nội dung.
c. Năng lực cạnh tranh của NHTM
Nh đối với mọi doanh nghiệp khác, năng lực cạnh tranh luôn là phơng
tiện cần thiết để các NHTM đạt đợc mục tiêu kinh doanh của mình trong môi
trờng cạnh tranh. Chính vì vậy, việc duy trì năng lực cạnh tranh cao hơn đối
thủ trở thành nhiệm vụ trọng yếu, có ý nghĩa sống còn đối với các NHTM.
Ngày nay, các NHTM đều hiểu rằng muốn có đủ sức cạnh tranh, các
NHTM phải phát huy tối đa mọi nguồn lực (vô hình và hữu hình) trên cơ sở
thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng một cách u thế hơn so với đối thủ.
Nh vậy, chúng ta có thể khẳng định sức cạnh tranh của một ngân hàng không
thể đánh giá trên một chỉ tiêu duy nhất mà cần đợc cụ thể hoá và đo lờng năng
lực cạnh tranh qua các yếu tố về nguồn lực và môi trờng hoạt động cụ thể.
Các loại hình dịch vụ NH dờng nh rất ít có khả năng thay đổi thờng
xuyên và hầu nh khó có sự khác biệt lớn giữa các NHTM khác nhau đối với

cùng loại sản phẩm dịch vụ. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, các
9
NHTM đã cố gắng tung ra những sản phẩm dịch vụ mới song thực chất chỉ là
sự biến tấu hoặc cải tiến làm tăng tính tiện ích của các dịch vụ đã có. Lợi thế
cạnh tranh do cải tiến trong quá trình cung cấp sản phẩm dịch vụ, thái độ của
nhân viên, trang thiết bị ngân hàng cũng rất dễ dàng bị bắt chớc, sao chép mà
không bị coi là phạm pháp, không bị giới hạn bởi vấn đề bản quyền. Chính vì
vậy, sức cạnh tranh của NHTM chỉ đợc xác lập khi nó có khả năng duy trì lâu
dài những lợi thế.
Thực tế, trong điều kiện hội nhập, môi trờng cạnh tranh trong ngành
ngân hàng đang ngày càng trở nên gay gắt, các đối thủ cạnh tranh cũng ngày
càng trở nên dày dạn và khôn ngoan hơn. Yếu tố may mắn gần nh không còn
tồn tại. Các lợi thế cạnh tranh nếu không đợc tính toán, sử dụng, bảo vệ và
phát triển một cách chủ động thì sẽ nhanh chóng bị đối thủ cạnh tranh vợt lên
và loại bỏ. Chính vì vậy, về lâu dài, sức cạnh tranh của NHTM phải là kết quả
tổng hợp của các hoạt động có ý thức trên thị trờng. Sức cạnh tranh phải thờng
xuyên duy trì và phát triển.
Trong kinh doanh NH, các NHTM đều hiểu rằng khách hàng là lực l-
ợng đa lại lợi nhuận cho ngân hàng. Mục tiêu cuối cùng của cạnh tranh không
phải là sự thất bại của các NHTM khác mà là giữ vững lợng khách hàng đã có
đồng thời thu hút và phát triển khách hàng mới (có thể là khách hàng dịch
chuyển từ các NHTM khác hoặc những khách hàng mới có tiềm năng về nhu
cầu sản phẩm và dịch vụ ngân hàng).
Nh vậy, chúng ta có thể có tạm hiểu nh sau: Năng lực cạnh tranh của
các NHTM là tổng hợp các vấn đề phản ánh khả năng tự duy trì lâu dài một
cách chủ động, có ý chí trên thị trờng, trên cơ sở thiết lập mối quan hệ bền
vững với khách hàng, có khả năng đối phó thành công với sức ép của các lực l-
ợng cạnh tranh nhằm đạt đợc số lợng lợi nhuận nhất định theo mong muốn.
1.2 Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của các NHTM
10

Năng lực cạnh tranh có thể xem là tài sản riêng của mỗi NHTM ,do đó
các yếu tố tạo ra nên năng lực cạnh tranh phải là các yếu tố thuộc môi trờng
bên trong, là các nguồn lực khác nhau mà bản thân mỗi NH đang sở hữu. Để
nâng cao sức mạnh cạnh tranh, các NHTM cần phải tìm hiểu và phát huy các
yếu tố cấu thành nên nó.
Có nhiều cách phân loại các yếu tố nguồn lực trong 1 doanh nghiệp nói
chung cũng nh các NHTM nói riêng, song nhìn chung có thể có hai loại
nguồn lực: nguồn lực hữu hình và nguồn lực vô hình.
- Nguồn lực hữu hình: đợc hiểu là các nguồn lực có thể nhìn thấy và l-
ợng hoá đợc nh các tài sản về đất đai, vốn liếng, trang thiết bị
- Nguồn lực vô hình: đợc hiểu là những nguồn lực không nhìn thấy
trực tiếp và việc đánh giá chủ yếu bằng các phơng pháp định tính, khó định l-
ợng chính xác nh các u thế về sự khác biệt của sản phẩm dịch vụ, trình độ
công nghệ, chất lợng nguồn nhân lực, uy tín, thơng hiệu, năng lực quản trị
điều hành của Ban lãnh đạo và đội ngũ cán bộ chủ chốt.
Năng lực cạnh tranh của NHTM có thể đợc đánh giá thông qua một số
yếu tố quan trọng sau:
1.2.1 Quy mô vốn và năng lực tài chính
Vốn tự có
Vốn tự có của một NHTM đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các
hoạt động thờng nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài.
Vai trò của vốn tự có: Là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản vì
vốn giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban
quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề và đa ngân hàng trở lại trạng
thái hoạt động sinh lợi.
Vốn tự có tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ
về sức mạnh tài chính của ngân hàng.
Vốn tự có cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trởng và phát triển
của các hình thức dịch vụ mới cho những chơng trình và trang thiết bị mới.
11

Vốn còn xem đợc xem xét là một phơng tiện để điều tiết sự tăng trởng,
giúp bảo đảm rằng sự tăng trởng của một ngân hàng có thể đợc duy trì ổn định
lâu dài. Các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trờng tài chính đều đòi hỏi rằng
vốn ngân hàng cần phải đợc phát triển tơng ứng với sự tăng trởng của các danh
mục cho vay và những tài sản rủi ro khác. Một ngân hàng mở rộng quá nhanh
hoạt động huy động vốn và cho vay sẽ nhận đợc những dấu hiệu của thị trờng
yêu cầu kiềm chế tốc độ tăng trởng hoặc cần huy động thêm vốn. Theo tiêu
chuẩn quốc tế quy định ngân hàng không đợc cho vay quá 15% vốn và thặng
d vốn đối với một khách hàng. Đối với các khoản cho vay đợc đảm bảo an
toàn, giới hạn này là 25%.
Vốn tự có của ngân hàng bao gồm: vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn
điều lệ, quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro, lợi nhuận cha chia, giá
trị tài sản tăng thêm do định giá lại tài sản cố định, thu nhập từ các công ty
thành viên.
Hiệp định Basel II về tiêu chuẩn vốn quốc tế áp dụng với các ngân hàng
quy định tỷ lệ vốn tối thiểu:
- Vốn tự có bao gồm vốn loại I và vốn loại II
Vốn loại I (vốn cơ sở core capital) bao gồm giá trị ghi sổ của
cổ phiếu thờng, cổ phiếu u đãi cha đến hạn, lợi nhuận không đủ chia, thu nhập
từ công ty con, tài sản vô hình xác định không tính tới danh tiếng của công ty.
Vốn loại II (vốn bổ sung supplemental capital) bao gồm khoản mục
dự phòng tổn thất từ cho vay và cho thuê, các công cụ vốn nợ thứ cấp, các
khoản nợ cho phép chuyển đổi
- Tổng tài sản theo tỷ lệ rủi ro quy đổi bao gồm: tài sản theo tỷ lệ rủi ro
trong bảng cân đối kế toán và các khoản mục nằm ngoài bảng cân đối kế
toán theo tỷ lệ rủi ro. Các tỷ lệ rủi ro này đợc quy định cho từng hạng mục
Vốn tự có
Tổng tài sản theo tỷ lệ rủi ro quy đổi
8%
12

tài sản. Khi xác định mức độ an toàn vốn của các NHTM ngời ta không
căn cứ vào tổng tài sản của ngân hàng mà căn cứ vào tổng tài sản theo tỷ lệ
rủi ro quy đổi.
Việt nam đã kí thoả thuận thực hiện theo hiệp định Basel, vì vậy để
đánh giá NHTM trong điều kiện hiện nay, chúng ta lấy tiêu chuẩn Basel II về
vốn để làm tiêu chí xác định.
Chất lợng tài sản Có
Chất lợng tài sản Có là chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về
mặt tài chính, khả năng sinh lời, năng lực quản lý và hầu hết rủi ro trong kinh
doanh tiền tệ đều tập trung vào tài sản Có. Tài sản Có của ngân hàng chia làm
2 dạng: Dạng tài sản có không có hệ số rủi ro tín dụng gồm: tiền mặt, tiền gửi
tại NHTW, trái phiếu do Chính phủ phát hành, vàng bạc ; dạng tài sản Có có
hệ số rủi ro đợc chia thành nhiều hệ số phụ thuộc vào danh mục tài sản, ví dụ
0%, 10%, 20%, 50%
Việc đánh giá chất lợng tài sản Có dựa trên việc đánh giá nhóm tài sản
Có, từng loại cho vay, từng loại dịch vụ theo một chuẩn mực nhất định sau đó
tổng hợp lại. Nó đợc phản ánh bằng các chỉ số nh tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản
Có, mức độ lập dự phòng và khả năng thu hồi các khoản nợ xấu, mức tập
trung và đa dạng hoá các danh mục tín dụng, rủi ro tín dụng tiềm ẩn
Khả năng sinh lời
Là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của ngân hàng đồng thời cũng
phản ánh một phần kết quả cạnh tranh của ngân hàng. Khả năng sinh lời đợc
thể hiện ở khía cạnh sau:
- Các hoạt động kinh doanh phải tạo ra thu nhập rủi ro và phải bù đắp
đợc khi có rủi ro.
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn
Tổng d nợ
x 100
13

- Chi phí hoạt động của ngân hàng kể cả những khoản lỗ của năm tr-
ớc.
- Những khoản tổn thất trong năm kế tài chính, đặc biệt là những
khoản tổn thất cho vay.
- Đảm bảo một tỷ lệ tài sản Có sinh lời so với tổng tài sản Có.
- Thu nhập tính theo bình quân tài sản Có cao.
- Chi phí cho vốn huy động thấp.
- Chi phí cho những khoản tổn thất trong năm thấp.
- Chi phí cho sản xuất kinh doanh hợp lý.
Chỉ tiêu sinh lợi có thể đợc phân tích thông qua những chỉ tiêu cụ thể
nh: Giá trị tuyệt đối của lợi nhuận sau thuế, tốc độ tăng trởng lợi nhuận, cơ
cấu của lợi nhuận (cho biết lợi nhuận đợc hình thành từ nguồn nào, từ hoạt
động kinh doanh thông thờng hay từ các khoản thu nhập bất thờng), tỷ suất lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE):
Thu nhập sau thuế
ROE = _____________________ (%)
Vốn chủ sở hữu
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản Có (ROA):

Thu nhập sau thuế
ROA = _____________________ (%)
Tổng tài sản Có
1.2.2 Trình độ công nghệ ngân hàng
Hiểu theo nghĩa rộng, công nghệ cung ứng dịch vụ NH bao gồm kỹ
năng, phơng tiện, cách thức và các kênh phân phối của toàn bộ quá trình cung
ứng các sản phẩm dịch vụ của một NH. Các yếu tố cấu thành và tham gia vào
công nghệ cung ứng sản phẩm dịch vụ bao gồm con ngời, máy móc thiết bị,
cấu trúc tổ chức, quy trình nghiệp vụ, quy chế quản lý.
14
Trong môi trờng cạnh tranh đang ngày càng trở nên gay gắt, công nghệ

cung ứng sản phẩm dịch vụ đang đợc các nhà NH sử dụng nh một thứ vũ khí
lợi hại để tạo nên lợi thế cạnh tranh. Để nâng cao trình độ công nghệ cung ứng
sản phẩm dịch vụ, các NH đã có nhiều giải pháp hiện đại hoá NH, ứng dụng
công nghệ thông tin, tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực, hợp lý hoá các
quy chế quản lý và quy trình nghiệp vụ, cơ cấu lại mô hình tổ chức nhằm tạo
ra những nền tảng cần thiết để có thể phục vụ ngày càng đầy đủ hơn những
nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của khách hàng với những tiện ích có tính khác
biệt cao, phong cách phục vụ và chất lợng sản phẩm dịch vụ đảm bảo yêu cầu,
chi phí hợp lý.
Trong điều kiện hội nhập, các NHTM VN sẽ phải cạnh tranh trực tiếp
với các tổ chức tài chính lớn trên thế giới. Đặc điểm của các NH này là trình
độ phát triển công nghệ cung ứng sản phẩm dịch vụ đã ở giai đoạn công
nghiệp hoá và tự động hoá cao. Điều này giúp làm tăng năng suất lao động,
giảm bớt sự tham gia của con ngời vào quá trình cung ứng dịch vụ, đảm bảo
chất lợng sản phẩm dịch vụ đồng đều, ít sai sót, tiết kiệm chi phí, nâng cao tốc
độ và chất lợng phục vụ khách hàng. Công nghiệp hoá và tự động hoá công
nghệ cung ứng sản phẩm dịch vụ đòi hỏi phải thay đổi cơ bản về tổ chức và
quản trị mô hình ngân hàng sang mô hình ngân hàng hiện đại, đầu t trang thiết
bị máy móc, hoàn thiện những nhân tố kỹ thuật và môi trờng cung ứng, phân
công lao động và chuyên môn hoá cao trong toàn bộ quy trình cung ứng sản
phẩm dịch vụ .
1.2.3 Chất lợng nguồn nhân lực
NH thuộc loại hình kinh doanh dịch vụ, vì vậy có thể nói chất lợng
nhân viên NH loà nhân tố quan trọng và có thể là một trong những yếu tố
quan trọng nhất kiến tạo nên năng lực cạnh tranh của các NHTM. Để làm rõ
hơn vai trò của nguồn nhân lực trong hoạt động NH, chúng ta xem xét một số
đóng góp trong quá trình quản trị điều hành NH và cung ứng sản phẩm dịch
vụ:
15
- Nhân lực quản lý đóng vai trò hoạch định chiến lợc và các chính

sách phát triển của ngân hàng, triển khai các giải pháp và biện pháp thực hiện
chiến lợc và chính sách của ngân hàng, thực hiện quản lý và điều hành các
hoạt động của ngân hàng đúng mục tiêu, đảm bảo phát triển an toàn và bền
vững.
- Các nhân viên nghiệp vụ là những ngời trực tiếp thực hiện các giải
pháp, biện pháp kinh doanh theo đúng định hớng của các NHTM.
- Trong quá trình giao dịch trực tiếp với khách hàng, nhân viên ngân
hàng chính là một hiện hữuchủ yếu của dịch vụ ngân hàng . Vì vậy, với kiến
thức, kinh nghiệm chuyên môn, kỹ năng xử lý công việc, phong cách giao
dịch, các nhân viên ngân hàng có thể làm tăng thêm giá trị của các sản phẩm
dịch vụ
- Bằng việc gây thiện cảm với khách hàng trong qúa trình giao dịch,
các nhân viên NH đã trực tiếp tham gia xúc tiến việc bán các sản phẩm dịch
vụ.
- Đa số các ý tởng cải tiến dịch vụ hoặc cung ứng sản phẩm dịch vụ
đều đợc đề xuất bởi các nhân viên.
- Nhân viên NH là lực lợng chủ yếu chuyển tải những thông tin tín
hiệu từ thị trờng, từ khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh đến các nhà hoạch định
CS NH.
Với tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong việc nâng cao sức cạnh
tranh, các NHTM luôn đặt ra mục tiêu phát triển nguồn nhân lực có tâm và có
tài, đảm bảo các yêu cầu cơ bản trong quá trình hội nhập.
1.2.4 Quản trị chiến lợc kinh doanh và hệ thống kiểm soát
- Trong điều kiện hội nhập, môi trờng cạnh tranh ngày càng trở nên
gay gắt, các NHTM muốn thành công không thể không đổi mới cung cách
quản trị NH theo lối t duy chiến lợc đồng thời kiên định tuân thủ chặt chẽ quá
trình quản trị chiến lợc. Quản trị NH theo lối t duy chiến lợc, NH sẽ luôn ở thế
chủ động, không bị rơi vào tình trạng lúng túng khi môi trờng kinh doanh thay
16
đổi đồng thời có khả năng sử dụng các nguồn lực của NH một cách hiệu quả

nhất.
- Hệ thống kiểm soát NH là một bộ phận không thể thiếu đợc trong
toàn bộ quá trình quản trị chiến lợc vì nó giúp Ban lãnh đạo NH biết đợc
những điểm đợc và những điểm cha đợc của chiến lợc kinh doanh đang lựa
chọn; từ đó tìm cách điều chỉnh, thúc đẩy hoạt động của toàn bộ tổ chức NH
một cách hiệu quả hơn. Một hệ thống kiểm soát hiệu quả là hệ thống có khả
năng cung cấp chính xác, kịp thời cho Ban lãnh đạo mọi thông tin liên quan
đến chất lợng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị và nhân viên trong NH so
với tiến độ thực hiện các mục tiêu chiến lợc kinh doanh. Từ đó đề ra các ph-
ơng pháp điều chỉnh cần thiết.
1.2.5 Hệ thống thông tin
Trong môi trờng kinh doanh luôn biến động không ngừng, cạnh tranh
ngày càng gay gắt, thông tin đã trở thành vấn đề thiết yếu, không thể thiếu đối
với mọi NHTM. Một hệ thống thông tin có chất lợng là hệ thống thông tin có
khả năng phân tích mọi diễn biến bên ngoài cũng nh bên trong doanh nghiệp
một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời.
Đối tợng kinh doanh của các NH là tiền tệ, là loại hàng hoá hết sức đặc
biệt và cực kỳ nhạy cảm trớc những thay đổi của môi trờng kinh doanh , vì vậy
hệ thống thông tin đóng vai trò tiên quyết đến việc thành bại của ngân hàng
trong cạnh tranh .Thông tin thực sự tạo nên khả năng cạnh tranh của NH khi
hội đủ các yêu cầu: đầy đủ, chính xác và kịp thời.
Luồng thông tin bên ngoài NH sẽ cung cấp cho Ban lãnh đạo những
diễn biến thay đổi của môi trờng kinh doanh nh dân số, văn hoá, kinh tế, chính
trị, xã hội, luật pháp, tự nhiên, công nghệ, đối thủ cạnh tranh , nhu cầu khách
hàng từ đó lãnh đạo NH sẽ biết đ ợc các cơ hội kinh doanh cũng nh những
thách thức, đe doạ đối với NH để có kế hoạch phát triển hoạt động kinh doanh
cũng nh biện pháp đối phó với những thách thức.
17
Luồng thông tin bên trong cung cấp cho Ban lãnh đạo biết rõ tình hình
thực hiện các mục tiêu kinh doanh, các điểm mạnh và điểm yếu của các nguồn

lực. Trên cơ sở hai luồng thông tin đó, lãnh đạo NH mới có thể chủ động đề ra
các phơng án huy động các nguồn lực một cách tối u để đối phó với những bất
lợi, giữ vững vị thế cạnh tranh của NH.
1.2.6 Năng lực quản trị điều hành của Ban lãnh đạo NH
Trong môi trờng kinh doanh hết sức năng động, phạm vi hoạt động rộng
lớn nh hiện nay, vai trò của những ngời lãnh đạo đứng đầu mọi tổ chức nói
chung và các NHTM nói riêng là hết sức quan trọng. Ban lãnh đạo giỏi phải
có khả năng nắm nắt kịp thời những biến động của môi trờng, biết định hớng
hoạt động của NHTM phù hợp với xu thế phát triển và biết kết hợp hài hoà,
phát huy tối đa sức mạnh của tất cả các nguồn lực tạo nên năng lực cạnh tranh
mạnh mẽ của một NHTM .
Với t cách là những ngời chịu trách nhiệm đầu tiên và cao nhất về sức
cạnh tranh của ngân hàng, Ban lãnh đạo phải là những đại diện thật sự có tài
năng, năng lực trên nhiều phơng diện, nh: khả năng chuyên môn, khả năng
phán đoán, khả năng tổ chức công việc, khả năng (nghệ thuật) đối nhân xử
thế.
- Khả năng chuyên môn: là khả năng quan trọng nhất, khả năng đầu
tiên mà bất cứ ngời lãnh đạo nào cũng phải có. Khả năng này bao gồm các
kiến thức và kinh nghiệm trong kinh doanh MH. Có đợc khả năng này, ngời
lãnh đạo sẽ dễ dàng hơn trong công tác điều hành vì kiến thức và kinh nghiệm
của ngời lãnh đạo luôn tạo ra đợc vị thế tuyệt đối không chỉ với cấp dới mà
còn cả với đối thủ cạnh tranh .
- Khả năng phán đoán: là khả năng nhìn nhận, hiểu biết, nắm bắt các
yếu tố xung quanh môi trờng hoạt động và cả trong bản thân NH. Ngời lãnh
đạo có thể xác định đợc những yếu tố quan trọng nhất của môi trờng hiện tại
để từ đó phán đoán chính xác những thay đổi trong môi trơng kinh doanh
18
trong tơng lai để hoạch định chính xác chiến lợc phát triển và xây dựng các
chính sách đón cơ hội phù hợp.
- Khả năng tổ chức công việc: là khả năng xác định danh mục, lộ trình

và trọng tâm những công việc phải thực hiện một cách hợp lý, có kế hoạch và
phơng thức triển khai phù hợp, lựa chọn con ngời cụ thể và phân bổ nguồn
nhân lực cũng nh những nguồn lực khác để tạo đủ điều kiện cần thiết triển
khai thực hiện.
- Khả năng (nghệ thuật) đối nhân xử thế: là khả năng giao tiếp, tổ
chức nhân sự trong mối quan hệ không chỉ đôi với các nhân viên cấp dới mà
còn đối với các đồng nghiệp, cấp trên, cơ quan quản lý và với khách hàng.
ngoài ra, nó còn bao gồm những kỹ năng đặc biệt về lãnh đạo, tâm lý, quyết
đoán, thu hút, xử lý xoay chuyển tình thế Xuất phát từ tính trìu t ợng cộng
với tính hiệu quả nhiều khi đến bất ngờ của khả năng này, trong nhiều trờng
hợp khả năng này đã trở thành nghệ thuật ứng xử của nhà lãnh đạo.
1.2.7 Năng lực Marketing
Tuy đợc đề cập cuối cùng nhng Marketing lại đóng vai trò quan trọng
trong việc kiến tạo năng lực cạnh tranh của các NHTM đồng thời trên cả 2 ph-
ơng diện: cải thiện tình hình các nguồn lực nêu trên đồng thời nâng cao khả
năng thể hiện sức mạnh nguồn lực thành sức cạnh tranh trên thị trờng.
Với chức năng thích ứng và chức năng thoả mãn nhu cầu khách hàng,
Marketing đóng góp phần quan trọng để cải thiện và hỗ trợ các nguồn lực của
ngân hàng trở thành những giá trị to lớn vì Marketing các nguồn lực đợc
khách hàng chấp nhận. Qua sử dụng công cụ Marketing nhằm mục đích hớng
toàn bộ hoạt động của ngân hàng thoả mãn tối đa nhu cầu của nhóm khách
hàng đã đợc lựa chọn, các nguồn lực của NH sẽ đợc điều chỉnh và sử dụng
một cách hiệu quả nhất để thoả mãn khách hàng.
Các nguồn lực là tài sản riêng của mỗi ngân hàng và nó rất khác nhau
khi so sánh giữa các NHTM với nhau. Tuy nhiên, khách hàng là lực lợng bên
ngoài, họ không biết đợc nguồn lực bên trong của mỗi ngân hàng. Cơ sở để họ
19
lựa chọn giao dịch với một ngân hàng là các tín hiệu liên quan đến dịch vụ thể
hiện trên thị trờng tỏ ra hơn hẳn các NHTM khác nh dịch vụ có chất lợng tốt
hơn, chi phí hợp lý hơn, tính tiện ích cao hơn và sự tiếp cận dễ dàng hơn. Do

tất cả các hoạt động định hớng theo khách hàng đều thuộc hoạt động nghiệp
vụ Marketing, cho nên công cụ Marketing chính là công cụ nâng cao khả năng
thể hiện các nguồn lực thành năng lực cạnh tranh cụ thể của ngân hàng.
Marketing chính là công cụ hữu hiệu để kết nối các nguồn lực của ngân hàng
phù hợp với thị trờng đồng thời là công cụ hữu hiệu thu hút khách hàng trên
cơ sở biến các nguồn lực của ngân hàng trở thành phơng tiện thoả mãn nhu
cầu của khách hàng. Marketing đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, giúp các
NH tạo nên nét khác biệt của mình so với các NH khác.
1.3 Hội nhập KTQT và các tác động đến năng lực cạnh tranh
của NHTM
1.3.1 Hội nhập quốc tế về ngân hàng.
Hội nhập quốc tế về ngân hàng của một nền kinh tế có thể đợc hiểu là
mức độ mở cửa về hoạt động ngân hàng giữa nền kinh tế đó với các nớc trong
khu vực và trên toàn thế giới. Mức độ mở cửa hội nhập về hoạt động ngân
hàng là mức độ giao dịch về các nghiệp vụ tín dụng, tiền tệ, thanh toán của
một nền kinh tế với thế giới bên ngoài. Độ mở cửa này cũng có thể đợc đo
bằng mức độ tự do hoá khu vực tiền tệ, tín dụng ngân hàng. Nh vậy bản chất
của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng là giao lu về hoạt động của hệ
thống ngân hàng trong nớc với cộng đồng tài chính khu vực và quốc tế, là sự
dỡ bỏ các hàng rào ngăn cách, tạo nên sự tự do hóa các hoạt động ngân hàng
giữa các nớc với thế giới.
(Ngân hàng NHTM Việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
Viêt Management Group)
Hội nhập quốc tế về ngân hàng là một xu thế tất yếu một quá trình toàn
cầu hoá nền kinh tế thế giới. Bởi vì toàn cầu hoá thể hiện rõ nhất ở sự tự do
20
hoá thơng mại và dịch chuyển vốn trên phạm vi rộng lớn. Sự phát triển mạnh
mẽ của thơng mại thế giới là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các dịch
vụ ngân hàng. Tính tất yếu đó thể hiện ở những khía cạnh sau: Trớc xu thế
toàn cầu hoá, các quan hệ xuất nhập hàng hoá dịch vụ, đầu t, chuyển giao

công nghệ giữa các nớc ngày càng tăng thì đòi hỏi các quan hệ về tài chính,
tiền tệ giữa các nớc ngày một nhiều hơn. Các quan hệ quốc tế khó có thể thực
hiện đợc nếu hệ thống tài chính của các quốc gia tách rời nhau. Chỉ trên cơ sở
một nền tài chính, tiền tệ đợc tự do hoá và hội nhập thì mới cho phép mỗi nớc
phát triển quan hệ kinh tế với các nớc khác thuận lợi, các nghiệp vụ, thanh
toán chuyển tiền, chuyển giao tài chính giữa các nớc mới có thể đợc tiến hành
dễ dàng. Bên cạnh đó, khi phát sinh quan hệ trao đổi hàng hoá giữa các nớc là
phát sinh các khoản thu chi bằng tiền của ngời xuất khẩu và ngời nhập khẩu.
Họ phải nhờ ngân hàng thu hộ hoặc chi hộ khoản tiền đó. Thanh toán chuyển
tiền là nghiệp vụ của ngân hàng thơng mại gắn liền với hoạt động thơng mại
thế giới. Nó càng cần thiết trong hoạt động ngày nay, khi các khoản thu chi
quốc tế không còn sử dụng bằng vàng. Hoạt động thơng mại thế giới nảy sinh
hiện tợng nơi thừa vốn, nơi thiếu vốn do đó cần có sự điều hòa hoặc sự tài trợ
của các ngân hàng. Ngân hàng sẽ giúp phân phối các nguồn vốn và sử dụng
vốn trên phạm vi toàn toàn thế giới. Đối với các nớc đang phát triển, khi
nguồn vốn trong nớc còn hạn hẹp, hệ thống tài chính ngân hàng còn ở trình độ
thấp, thì hội nhập tài chính thế giới sẽ giúp các nớc này tiếp cận với thị trờng
vốn quốc tế, tranh thủ đợc vốn nớc ngoài, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nớc
ngoài. Do đó có thể thấy hội nhập tài chính ngân hàng là yêu cầu tất yếu để
phát triển nền kinh tế- xã hội của mỗi nớc.
1.3.2 Các tác động của hội nhập KTQT đến năng lực cạnh tranh của các
NHTM
Trong quá trình hội nhập quốc tế, thì hoạt động của các ngân hàng
không còn bị bó buộc trong phạm vi của một quốc gia mà các ngân hàng sẽ
mở rộng hoạt động không chỉ trong phạm vi khu vực mà cả trên phạm vi toàn
21
cầu. Vì vậy năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng không chỉ bị chi phối
bởi các yếu tố ở trong nớc mà còn chịu sự ảnh hởng của các nhân tố bên
ngoài. Hoạt động của ngân hàng trong quá trình hội nhập sẽ có nhiều thay đổi
để thích nghi với thế giới vì ngân hàng không chỉ phục vụ trong lãnh thổ quốc

gia mà cho tất cả các khách hàng trên thế giới. Các tác động của hội nhập
KTQT trong lĩnh vực ngân hàng đợc thể hiện rõ nét qua những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Năng lực cạnh tranh của các NHTM sẽ chịu sự tác
động mạnh mẽ của các quy luật thị trờng và các luật lệ, tập quán kinh
doanh quốc tế. Một trong những đặc trng nổi bật của hoạt động ngân hàng
trong điều kiện hội nhập đó là hoạt động trong môi trờng tài chính tự do. Khi
hội nhập mọi rào cản ngăn cách bị phá vỡ, các ngân hàng sẽ hoạt động theo
quy luật thị trờng chứ không phải chịu sự chi phối của bất cứ biện pháp quản lí
hành chính nào khác. Lãi suất, tỷ giá, hoạt động tín dụng sẽ do thị trờng quyết
định dựa theo quan hệ cung cầu về tiền tệ, đầu t, thu nhập và điều kiện cụ thể
của nền kinh tế. Hoạt động trong một môi trờng cạnh tranh công bằng, không
có sự phân biệt đối xử bất cứ ai thì đòi hỏi các ngân hàng phải tuân theo đúng
quy luật thị trờng, tức là tuân theo quy luật cung cầu.
Thứ hai: Năng lực cạnh tranh trong điều kiện hoạt động ngân hàng
ngày càng trở nên đa dạng phức tạp và diễn ra trên phạm vi rộng. Khi tham
gia vào hội nhập thì hoạt động của ngân hàng không chỉ bó gọn trong phạm vi
một quốc gia mà là toàn cầu. Các ngân hàng mở rộng các chi nhánh trên toàn
thế giới, điều này dẫn đến hình thành các ngân hàng quốc tế. Trong điều kiện
hội nhập các ngân hàng không chỉ cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho khách
hàng trên một lãnh thổ mà là khách hàng trên toàn cầu Tuy nhiên khi phạm
vi kinh doanh hoạt động mở rộng, cơ cấu tài sản, nguồn vốn của ngân hàng
của khách hàng hàm chứa nhiều yếu tố nớc ngoài, các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng trở nên phức tạp làm cho ngân hàng sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro. Các
ngân hàng có thể bị ảnh hởng hay thua lỗ bởi các chi nhánh của chính ngân
hàng mình. Do đó để tránh các rủi ro từ bên ngoài khi tham gia vào thị trờng
22
thế giới ngân hàng phải có các chính sách đối phó thích hợp nhằm hạn chế
đến mức tối đa các ảnh hởng tiêu cực tới sự ổn định tài chính, tiền tệ nói
chung và an toàn hoạt động ngân hàng nói riêng.
Thứ ba: Năng lực cạnh tranh của ngân hàng trong điều kiện hội nhập

mang tính cạnh tranh quốc tế cao. Hội nhập quốc tế có nghĩa là môi trờng
hoạt động tài chính sẽ đợc thông thoáng và mở cửa cho tất cả tổ chức tài chính
tham gia. Việc mở rộng tham gia của các tổ chức tài chính nớc ngoài trên thị
trờng đã làm cho hoạt động của các ngân hàng mang tính cạnh tranh quốc tế
cao. Bởi vì trong cùng một môi trờng hoạt động, các u đãi nh nhau thì các
ngân hàng buộc phải không ngừng đổi mới và có các chính sách hoạt động
thích hợp để thu hút khách hàng. Một hệ thống tài chính ngân hàng đợc tự do
và hội nhập quốc tế theo một tiến trình không thích hợp, thiếu sự giám sát
thận trọng, các chính sách không đồng bộ có thể gây ra nguy cơ khủng hoảng
hoặc sự hỗn loạn. Trong điều kiện hội nhập sự thâm nhập của các ngân hàng
nớc ngoài quá mức có thể sẽ gây ra những khó khăn cho nền kinh tế. Điều này
thờng thấy ở các quốc gia đang phát triển, nếu mở cửa cho các ngân hàng nớc
ngoài tham gia quá mức sẽ gây ra hiện tợng các ngân hàng lớn của nớc ngoài
chi phối hoạt động của cả hệ thống ngân hàng quốc gia và sự lệ thuộc của nền
kinh tế vào một số ít ngân hàng nớc ngoài. Dới sức ép mạnh mẽ về cạnh tranh
đòi hỏi các ngân hàng phải có những thay đổi cả về tính chất hoạt động, cơ
cấu tổ chức, tiềm lực tài chính cũng nh khả năng cung cấp các dịch vụ trên thị
trờng. Đây là một thách thức lớn đối với hoạt động ngân hàng của các quốc
gia đang phát triển, khi mà tiềm lực tài chính, kinh nghiệm kinh doanh và khả
năng cạnh tranh quốc tế còn hạn chế.
Thứ t: Ngân hàng phải cạnh tranh trong môi trờng công nghệ
hiện đại và sự phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng internet.
Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy những tiến bộ về công nghệ điện tử và mạng
viễn thông, làm thay đổi phơng thức hoạt động và cung cấp dịch vụ của hệ
thống ngân hàng. Sự phát triển của công nghệ hiện đại, với sự hình thành của
23
các mạng giao dịch tài chính và thanh toán toàn cầu đã thúc đẩy sự ra đời các
sản phẩm dịch vụ tài chính mới, hình thành các dịch vụ ngân hàng điện tử (e-
banking), ngân hàng Internet. Mạng máy tính nối liền các thị trờng tài chính
và các ngân hàng trên thế giới thành một thị trờng thống nhất. Các máy tính

tham gia thực hiện các giao dịch hàng tỷ USD tại các ngân hàng và thị trờng
tài chính ở các châu lục khác nhau. Sự phát triển các mạng giao dịch tài chính
quốc tế đã khắc phục các trở ngại về không gian, thời gian và các thủ tục thủ
công, tiết kiệm chi phí, tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính đợc tiến hàng
thuận lợi, nhanh chóng đem lại tiện ích cho nguời tiêu dùng. Trớc những u
điểm của công nghệ thông tin đòi hỏi các ngân hàng phải không ngừng nâng
cao trình độ khoa học kĩ thuật, áp dụng các công nghệ tiên tiến vào hoạt động
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Trong tình hình đó,
các nớc đang phát triển thời gian qua đã rất chú trọng đến việc hiện đại hoá
ngân hàng của mình, tích cực tham gia vào cách mạng giao dịch và thông tin
tài chính toàn cầu. Với chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế
các nớc đều dành vị trí u tiên cho hiện đại hoá hệ thống ngân hàng.
1.4 Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM ở
một số nớc trên thế giới.
1.4.1 Kinh nghiệm của một số nớc
Mỗi quốc gia, trớc tác động của toàn cầu đều phải điều chỉnh, thực thi
những chính sách cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Việt nam là nớc đi
sau vì vậy việc tìm hiểu tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia đi trớc là
điều cần thiết. Trong bài viết này ta tìm hiểu kinh nghiệm của Trung Quốc
quốc gia láng giềng có nhiều điều kiện giống Việt nam; Nhật Bản một
trong những quốc gia công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới; Malaysia
nớc có nền kinh tế đang phát triển trong khối ASEAN với Việt nam là những
nớc để tham khảo kinh nghiệm.
a. Kinh nghiệm của Trung Quốc
24
Sau hơn 27 năm thực hiện công cuộc đổi mới và chính sách mở cửa, hệ
thống ngân hàng Trung Quốc đang đứng trớc sức ép cạnh tranh rất lớn bởi các
cam kết gia nhập WTO đầy đủ vào cuối năm 2006.
Tính đến cuối tháng 6/2004, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng tín
dụng ở Trung Quốc là khoảng 26000 tỷ USD, trong đó các ngân hàng thơng

mại quốc doanh chiếm 60% tổng tài sản và khoảng 80% thị phần cho vay.
Căn cứ vào các cam kết gia nhập WTO, để hoàn thiện các căn cứ pháp
lý cho hoạt động của các NHTM, Trung Quốc đã thực hiện các bớc sau:
Bớc 1: Tìm đối tác chiến lợc đầu t vào NHTM quốc doanh đợc cổ phần
hoá. Tỷ lệ cổ phần tối đa của một nhà đầu t nớc ngoài đợc nắm giữ trong một
ngân hàng của Trung Quốc đợc nâng từ mức 15% lên 20% nhng tổng tỷ lệ cổ
phần tối đa của tất cả các cổ đông nớc ngoài vẫn giữ nguyên không quá 25%.
Trớc đó các NHTM của Trung Quốc cũng đã đợc Chính phủ nớc này cho phép
bán cổ phiếu cho các nhà đầu t tài chính nớc ngoài nh hãng đầu t Newbridge
Capital của Mỹ, ngân hàng Hongkong and Shanghai Banking Corporation
(HSBC) của Anh.
Bớc 2: Tập trung xử lý nợ xấu.
Tháng 8/1998 tỷ lệ nợ xấu của 4 NHTM quốc doanh của Trung Quốc
chiếm 25,5% tổng d nợ cho vay của 4 NHTM này, theo báo cáo của các
NHTM là 13 14%. Giải pháp cơ bản để xử lý nợ xấu là cả 4 NHTM quốc
doanh đều thành lập 4 Công ty quản lý tài sản. Tất cả các khoản nợ xấu của 4
NHTM quốc doanh đợc giao cho 4 công ty này khai thác xử lý và nguồn ngân
sách do Chính phủ Trung Quốc cấp.
Bớc 3: Yêu cầu các NHTM quốc doanh hoạch định ra kế hoạch tự tăng
vốn điều lệ để đạt tỷ lệ an toàn vốn theo thông lệ quốc tế là 8%. Construction
Bank of China có phơng án phát hành số lợng cổ phiếu trị giá 4,8 tỷ USD để
tăng vốn điều lệ, trong đó 1 tỷ USD cổ phiếu đợc phát hành trong tháng
7/2004. Số lợng còn lại sẽ đợc phát hành trong 6 tháng đầu năm 2005.
25

×