Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.76 KB, 116 trang )

Lời cảm ơn!
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, cán bộ khoa
Ngữ Văn Trờng Đại học s phạm Hà Nội 2, Viện Văn học Việt Nam
đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc
biệt, xin cảm ơn Phó giáo s - Tiến sỹ Phan Trọng Thởng - ngời đã tận
tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin gửi tới quý thầy cô trong hội đồng giám khảo lời biết ơn sâu
sắc.
Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Sở GD - ĐT Vĩnh Phúc,
Phòng giáo dục thị xã Phúc Yên, Trờng trung học cơ sở Tiền Châu
nơi tôi công tác đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi đợc học tập và nghiên
cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời biết ơn tới những ngời thân yêu trong gia
đình và bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.
Tác giả
Mục lục
Mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 8
3 Nhiệm vụ nghiên cứu 9
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu 9
5. Phơng pháp nghiên cứu 9
6. Những đóng góp mới của luận văn 10
nội dung 11
Chơng I: Cốt truyện 11
1. 1.Quan niệm về cốt truyện 11
1.1.1. Quan niệm truyền thống 11
1.1.2. Quan niệm hiện đại 13
1.1.3. Quan niệm hậu hiện đại 14
1.2. Cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp 17
1.2.1. Cốt truyện truyền thống 17


1.2.2. Truyện không có cốt truyện 25
1.2.3. Cốt truyện huyền ảo 41
Chơng II: Kết cấu 56
2.1. Khái niệm kết cấu 56
2.2.Các bình diện và cấp độ kết cấu 58
2.3. Kết cấu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp 59
2.3.1. Kết cấu đơn tuyến 60
2.3.2.Kết cấu truyện lồng trong truyện 67
2.3.3. Kết cấu theo mạch phát triển tâm lý 78
Chơng iii: Ngôn ngữ 82
3.1.Ngôn ngữ mang nhãn quan hiện thực đời thờng 83
3.2.Sử dụng đan xen các lớp từ vựng thuộc nhiều phong cách 90
3.3.Ngôn ngữ tăng cờng tính tốc độ, thông tin, câu văn ngắn ngủi, dồn
dập 95
3.4. Yếu tố thơ 99
Kết luận 107

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt thập niên 60 của thế kỉ XX thuật ngữ hậu hiện đại
(postmordernity) đợc giới văn nghệ sĩ châu Âu rất quan tâm nh:
Rauschenberg, Cage, Burroughgs, Bathelme Họ dùng khái niệm này để chỉ
khuynh hớng nghệ thuật muốn vợt qua những phạm vi, giới hạn của chủ nghĩa
hiện đại. Khuynh hớng nghệ thuật này từng bớc tạo ảnh hởng rộng lớn trên
nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Còn ở Việt Nam trong những năm gần đây thì
giới văn nghệ sĩ mới hay đề cập đến thuật ngữ này. Và nghiễm nhiên nó trở
thành mốt đối với một nhóm nhỏ các văn nghệ sĩ. Làn sóng hậu hiện đại đã
làm trỗi dậy hàng loạt cây bút tài năng muốn bứt phá, vợt lên trên hết thảy để
tự khẳng định mình nh một nhu cầu bức thiết không thể thiếu đợc. Có thể kể
ra đây những tên tuổi đáng chú ý nh Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,

Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phơng, Thuận,
Võ Thị Hảo, Nguyễn Ngọc T Họ đã làm m a làm gió trên văn đàn bấy lâu
nay. Trong số đó, có lẽ ngời ta ấn tợng nhất với cái tên Nguyễn Huy Thiệp.
Ông là một cây bút hết sức tài năng và đầy sức hấp dẫn, một hiện tợng mới lạ
trong văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Sự xuất hiện của ông (tôi xin mợn
cách nói của hai nhà phê bình Hoài Thanh - Hoài Chân trong cuốn Thi nhân
Việt Nam khi nói tới sự xuất hiện của phong trào Thơ mới) giống nh một
cơn gió lạ đã phá tan bức thành trì văn chơng cũ kĩ của ta từ 1986 trở về trớc.
Với phong cách hoàn toàn mới lạ, mới lạ từ nội dung đến hình thức, Nguyễn
Huy Thiệp khiến chúng ta phải ngỡ ngàng. Thật không ngờ, ngay sau những
truyện ngắn đầu tiên nh: Tớng về hu, Con gái thủy thần, Muối của rừng,
Những ngọn gió Hua Tát, và đặc biệt là bộ ba truyện ngắn giả lịch sử Kiếm
sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết xuất hiện thì giới phê bình văn học cả trong và
ngoài nớc đều xôn xao, ngời khen, khen hết ý, ngời chê, chê không tiếc lời.
Song, dù khen chê nh thế nào thì ngời ta vẫn phải thừa nhận tài năng
sáng chói của Nguyễn Huy Thiệp. Ta có quyền tự hào về ông. Bởi lẽ trong văn
học Việt Nam hiếm có nhà văn nào mà tác phẩm lại đợc dịch ra nhiều thứ
tiếng đến nh thế. Theo nguồn t liệu thống kê của Lu Hà thì truyện ngắn của
ông đã đợc dịch ra tiếng Anh, Pháp, ý, Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Indônêsia [21]. Những thành công vang dội đó đã l u danh
Nguyễn Huy Thiệp tronng hai giải thởng văn học cao quý: giải thởng Premio
Nonino của ý và Huân chơng văn học nghệ thuật Pháp ( 2007). Tuy không có
duyên với các giải thởng văn học Việt Nam nhng các sáng tác của ông lại đợc
giới điện ảnh chú ý. Truyện ngắn Tớng về hu đã đợc chuyển thể thành phim,
và gần đây nhất, truyện ngắn Sang sông cũng đang đợc các nghệ sĩ dàn dựng
trên sân khấu. Điều đó đã minh chứng rằng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
có một ma lực ghê gớm.
Chính những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp đã tạo ra một bớc đột
phá làm ta thay đổi hẳn nhịp rung cảm của ta. Quan niệm thẩm mĩ trong văn
chơng từ khi có truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp nay đã khác. Sự thật - cái

Chân không còn đợc xem xét dới góc độ nh ảnh thật từ cuộc sống mà nó đợc
khúc xạ qua lăng kính chủ quan của ngời nghệ sĩ dới nhiều dáng vẻ. Nó khiến
ta hoài nghi vào tất cả những gì có sẵn, ổn định. Nó khuyến khích chúng ta
chấp nhận những cái khác biệt. Nó thừa nhận cái bất toàn của thế giới, không
có gì là hoàn hảo tuyệt đối. Nó cho rằng cuộc sống này là bất an, bất trắc. Nó
vận động, đổ vỡ, hỗn độn, gây hoang mang, bất tín nơi ngời đọc Tóm lại, tất
cả những gì mà trớc kia ngời ta coi là khuôn thớc mẫu mực, là thành trì
vững chãi thì nay đã bị phá tan hoang. Ngời đọc không thể đọc theo cách đọc
cũ, cảm nhận theo lối cũ. Bởi lẽ quan niệm của ngời cầm bút nay đã khác.
Ngay cả ngôn ngữ cũng tỏ ra bất ổn. Có lẽ chính vì những lý do này mà dẫn
đến những thái độ, những tình cảm trái ngợc nhau nơi ngời đọc về các sáng
tác của Nguyễn Huy Thiệp. Thế nên, trên văn đàn Việt Nam cha bao giờ mà
số lợng các bài nghiên cứu, phê bình lại nhiều hơn cả số lợng các sáng
tác( Nguyễn Huy Thiệp sáng tác khoảng trên 50 truyện ngắn nhng theo
nguồn thống kê của Phạm Xuân Nguyên thì có khoảng trên 70 bài nghiên cứu,
phê bình về tác phẩm của ông). D luận quan tâm đến sáng tác của ông rất
nhiều. Mỗi ngời có một cách đọc, cách hiểu khác nhau. Ai đúng? Ai sai? Điều
này đến giờ còn cha ngã ngũ. Thế là từ phơng diện tác phẩm văn học, sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp đã giúp lý luận phê bình văn học n ớc nhà tiến lên
một bớc mới, tiếp cận một lý thuyết văn học quan trọng của nhân loại cuối thế
kỉ XX: lý thuyết đọc [34, tr.6].
Việc chọn đề tài Nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp vì thế
theo chúng tôi rất có ý nghĩa, đặc biệt là trên phơng diện minh định giá trị
nghệ thuật tự sự mà ông để lại trong nền văn học nớc nhà.
Với t cách là một nhân vật văn học nổi tiếng, Nguyễn Huy Thiệp luôn
là nơi khơi nguồn cảm hứng phê bình, nghiên cứu nơi bạn đọc yêu thích văn
chơng. Ngời ta bàn bạc ở nhiều khía cạnh, nhiều phơng diện và trên nhiều ph-
ơng tiện khác nhau: sách, báo, tạp chí, các trang web Nói nh vậy để thấy
rằng khi chọn đề tài này chúng tôi sẽ gặp rất nhiều thuận lợi và cũng vấp phải
không ít những khó khăn. Khó khăn là ở chỗ mảnh đất này đã có quá nhiều

ngời khai phá. Cho nên luận văn phải có hớng khai thác làm sao để tránh khỏi
tình trạng Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi! . Tuy nhiên, với sự phát triển của
chuyên ngành lý luận văn học trên thế giới thì vấn đề này thực sự không đáng
lo ngại. Bởi lẽ theo Roman Ingardern thì văn bản văn học nh là sản phẩm sơ
lợc với những chỗ trống và những sự việc cha xác định, giống nh một bộ x-
ơng. Thông qua sự cụ thể hóa (đọc) mà những chỗ trống trong tác phẩm đợc
bù đắp, bộ xơng đợc đắp thêm da thịt [11, tr.9]. Và Cùng một tác phẩm nh -
ng có nhiều cách đọc khác nhau, đó là sự cụ thể hóa ( ). Tính chất của sự cụ
thể hóa này phụ thuộc vào trình độ của ngời đọc sự cụ thể hóa này ở mỗi
ngời mỗi vẻ, không ai giống ai[10, tr.25]. Nh thế có nghĩa là Tác phẩm văn
học nh là quá trình [11]. Quá trình ngời đọc đến với sáng tác của Nguyễn
Huy Thiệp và quá trình những sáng tác này đến với bạn đọc sẽ luôn luôn vận
động.
Tháng 8 năm 2000, Phạm Xuân Nguyên đã tập hợp tất cả những bài
nghiên cứu, phê bình của bạn đọc trong và ngoài nớc in thành cuốn Đi tìm
Nguyễn Huy Thiệp. Khách quan mà nói thì đây là cuốn sách gây đợc ấn t-
ợng vì nó là cảm quan, cái nhìn của rất nhiều cây bút nghiên cứu, phê bình nổi
tiếng trong và ngoài nớc nh: Hoàng Ngọc Hiến, Đặng Anh Đào, Đỗ Đức Hiểu,
Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân và Greg Lockhart, Evelip Pieller
Trong tổng số 54 bài viết thì phần lớn nội dung tập trung vào một số truyện
ngắn nổi tiếng nhất của Nguyễn Huy Thiệp nh: Tớng về hu, Con gái thủy
thần, Những ngọn gió Hua Tát và đặc biệt là bộ ba truyện ngắn lịch sử:
Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết Tuy nhiên, chính cuốn sách này đã mở đ -
ờng cho chúng tôi bớc vào thế giới bí ẩn của các truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp:
Trên phơng diện ngôn ngữ nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,
rất nhiều ý kiến đánh giá cao đóng góp mới mẻ của ông cho kỹ thuật tự sự nớc
nhà:
- Khi bàn về tính nghệ thuật trong Tớng về hu, Trần Đạo giãi bày:
Đọc Tớng về hu, lần thứ ba vẫn thấy khó chịu ( ). Rồi cứ băn khoăn, không

sao ngủ đợc. Đủ thấy giá trị của truyện ngắn này là ở lối hành văn [ 34,
tr.42]. Ông chỉ ra thành công của tác phẩm này là việc tác giả dùng nhiều thủ
pháp nghệ thuật đặc biệt: Trong truyện có nhiều lời phát biểu nhng hầu nh
không có đối thoại. Chỉ có những lời tuyên bố song song đơn độc ( ). Kỹ
thuật trình bày cũng đợc vận dụng để bóp nghẹt đối thoại, không tách rời
những lời đối thoại, không xuống hàng, kéo gạch để làm nổi bật sự hiện diện
của các đối tợng với lời kể [ 34, tr.45]. Đó là điểm đặc sắc của ngôn ngữ đối
thoại không chỉ trong Tớng về hu mà còn xuất hiện trong rất nhiều truyện
ngắn khác của Nguyễn Huy Thiệp.
- Còn Nguyễn Thị Hơng trong bài viết của mình đã liệt kê: Truyện T-
ớng về hu chỉ khoảng 600 câu nhng bị xé lẻ đến 15 chơng khúc và trong mỗi
chơng khúc lại còn tiếp tục bị xé vụn ( ). Số l ợng lời thoại trong Tớng về hu
chiếm 1/3 truyện ( ) Nguyễn Huy Thiệp đi ng ợc truyền thống, để câu kể và
câu thoại lẫn nhau [ 34, tr.52- 53].
- Tác giả Diệp Minh Tuyền lại ấn tợng với truyện Nguyễn Huy Thiệp ở
cách nhà văn sử dụng ngôn ngữ: Ngôn ngữ Nguyễn Huy Thiệp là thứ ngôn
ngữ Việt Nam chính xác, trong sáng, tinh tế, giàu hình tợng, đầy cá tính. Nó
có nhiều lớp từ khác nhau: một lớp từ dân dã, đồng quê mà không quê mùa,
một lớp từ đầy tính thị dân của Hà Nội đơng đại, một lớp từ khác nữa lại
phảng phất không khí cổ xa. ở Nguyễn Huy Thiệp tính cách nào thì ngôn ngữ
ấy [ 34, tr.401- 402].
- Sự cách tân đầy tinh tế và biến hóa lạ thờng trong ngôn ngữ văn xuôi
Nguyễn Huy Thiệp đã để lại ấn tợng mạnh mẽ tronng lòng một độc giả nớc
ngoài. Có thể nói, đến Nguyễn Huy Thiệp, ngôn ngữ văn chơng không còn bị
gò bó trong khuôn khổ của cái đẹp trong nghệ thuật nữa mà nó phải toát ra từ
chính cuộc sống, từ nhu cầu giãi bày tâm sự và thể hiện thế giới quan của ngời
nghệ sĩ. Nó phải biến hóa, năng động. Vì thế nhà nghiên cứu văn học Nga
T.N.Philimônova đã dành trọn tâm huyết của mình để nghiên cứu Thơ trong
văn Nguyễn Huy Thiệp.
Bên cạnh đó còn có rất nhiều ý kiến khác phê bình cách sử dụng ngôn

từ nghệ thuật trong các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn thô tục, suồng sã.
Song dù khen chê thế nào thì những lời bình, những nghiên cứu phát hiện sự
độc đáo, đặc sắc trong ngôn ngữ văn chơng Nguyễn Huy Thiệp của các bạn
đọc trong và ngoài nớc đã tạo tiền đề vững chắc để chúng tôi xây dựng nội
dung của chơng Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp.
Bàn về cốt truyện và kết cấu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng
đã có vô vàn ý kiến khác nhau. Đây là những yếu tố cơ bản trong một văn bản
tự sự. Và từ những ý kiến này, chúng tôi có tham vọng xây dựng một cách
nhìn đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn nữa về nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp. Nội dung này sẽ đợc thể hiện trong hai chơng cốt truyện và kết
cấu trong tuyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Xin dẫn ra đây một vài lời bàn luận
tiêu biểu:
- Khảo sát mời truyện ngắn trong Những ngọn gió Hua Tát
T.N.Philimônova đã có nhứng lời nhận xét hết sức tỉ mỉ và đích đáng Chỉ có
ba trong số mời truyện ngắn của nhà văn có kết thúc có hậu: Tiệc xòe hoa
vui nhất, Chiếc tù và bị bỏ quên và Nàng Sinh. Các truyền thuyết đó thờng
khởi đầu bằng một sự bất an nào đó và kết thúc bằng sự may mắn, kết thúc có
hậu. Trong tất cả các truyện còn lại, sự may mắn lại trở thành tai họa đối với
các nhân vật, thờng là dẫn đến cái chết [34, tr.67].
Nhà nghiên cứu Thái Hòa lại có một cái nhìn ở phơng diện khác. Ông
phát hiện thấy Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp có một cách tổ chức
riêng, không truyện nào giống truyện nào. Ông quy ra hai loại chi tiết Thiệp
thơng sử dụng là ảo và thực, và một loại trung gian: nửa ảo, nửa thực: Trong
truyện Nguyễn Huy Thiệp cái thực luôn đi kèm cái ảo, tạo ra sự đối lập: thực
đến rợn ngời và ảo đến bàng hoàng kinh dị (Tâm hồn mẹ, Chảy đi sông ơi,
Con gái thủy thần, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết). Cấu trúc nghệ thuật
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp dựa trên hai mảng thực và ảo, theo tỷ lệ
phân phối không đồng đều, xen kẽ nhau, chuyển hóa đột ngột, bất ngờ, nhiều
ý nghĩa [34, tr.95 - 96].

- Bàn về cái ma lực trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên
cứu văn học Đông La có một phát hiện khá thú vị. Trong bài viết của mình,
ông đã chỉ ra trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp Kết cấu giống nh kết cấu
của tiểu thuyết, nó lỏng lẻo nh chính cái lỏng lẻo của cuộc sống. Chúng phản
ảnh đợc cái không khí của thời đại này: sôi động, nhiều thông tin, đồng hiện
đan xen nhau [34, tr.138].
Hai nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Mai và Trơng Hồng Quang xem xét
kết cấu của Vàng lửa và tìm ra ba mệnh đề trong mạch kể của ngời kể
chuyện từ đó tìm ra ba cách kết thúc cho truyện. Còn có rất nhiều ý kiến khác
quan tâm về kết cấu, kết thúc của bộ ba truyện ngắn lịch sử Kiếm sắc, Vàng
lửa, Phẩm tiết
Khi nghiên cứu Cấu tứ tự sự của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ,
Thạc sỹ Nguyễn Văn Tùng tổng kết thấy có ba kiểu cấu tứ quen thuộc trong
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, đó là:
1.Tội ác và trừng phạt.
2. Những con ngời từng săn đuổi bao điều phù du.
3. Con ngời với tâm trạng Sao tôi cứ nh lạc loài.
Và khi kết thúc chuyên luận, tác giả đa ra lời bàn để ngời đọc cùng suy
ngẫm: Việc tìm hiểu cấu tứ tự sự của truyện ngắn nói riêng và thể loại tự sự
nói chung có thể mở ra cho ngời đọc một hớng tiếp cận t tởng nghệ thuật của
nhà văn, tạo một cơ sở chắc chắn giúp ngời nghiên cứu định giá khá chính
xác về giá trị của tác phẩm, đóng góp của nhà văn đối với nền văn học .
Chúng tôi thiết nghĩ đây đây cũng là một gợi ý khá thú vị để bạn đọc cùng đi
vào khám phá thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Cha hết, chúng tôi còn muốn kể đến một số luận văn thạc sĩ khai thác
đề tài từ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Đó là:
- Nguyễn Huy Thiệp - Từ ý thức tự vấn đến những cách tân nghệ
thuật quan trọng( Nguyễn Hoàng Diệu Thủy).
- Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp( Nguyễn Thị Thu
Hiền).

- Tìm hiểu nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Việt
Nam đơng đại (Qua truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy
Thiệp) (Vũ Đình Phùng).
- Một số phơng diện đặc sắc trong nghệ thuật kết cấu truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp (Lê Thị Phợng).
Mỗi luận văn khai thác truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trên một số
phơng diện, cụ thể họ đã dành một số chơng lớn để bàn đến kết cấu, cốt
truyện, ngôn ngữ, giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp những vấn đề
mà chúng tôi sẽ bàn luận kĩ lỡng trong đề tài Nghệ thuật truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp.
Mặc dù xuất hiện trên văn đàn Việt Nam từ những năm 80 của thế kỷ
XX, nhng đến nay, trải qua mấy chục năm vật đổi sao dời, thế mà hiện tợng
Nguyễn Huy Thiệp vẫn còn mới, lạ và đầy hấp dẫn. Đã biết bao dòng ngời đã
bị cuốn phăng theo cơn gió lạ ấy để đi tìm một hằng số đích thực. Thế nhng,
trớ trêu thay, điều đó vẫn còn là một ẩn số! Dẫu biết rằng đờng đi đã mòn, lại
trăm ngả rẽ nên hành lộ nan, đâu là ngả rẽ vào trái tim Thiệp? Dẫu biết rằng
trên đầu ta là một chân lý: Kì thực trên mặt đất làm gì có đờng, ngời ta đi mãi
thì thành đờng thôi(Lỗ Tấn). Và cũng phải Đành lòng vậy. Cầm lòng vậy ,
chúng ta vẫn phải chuẩn bị hành trang để tiếp tục hành trình Đi tìm Nguyễn
Huy Thiệp. Chúng ta sẽ đi tìm Nguyễn Huy Thiệp trên con đờng riêng chứ
không phải đi theo những lối rẽ và bớc chân cũ.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn với đề tài trên, bản thân chúng tôi không có
tham vọng bàn đến những vấn đề quá rộng lớn, mà chỉ dừng ở mức độ nhất
định, phạm vi nhất định trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp thạc sĩ:
- Xác định những nét đặc trng và đặc sắc trong nghệ thuật viết truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
- Tìm hiểu nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp từ góc nhìn
của lí thuyết tự sự học: cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ.
- Xác định xem trình độ tổ chức văn bản nghệ thuật và cách thức lựa

chọn, thể hiện ngôn ngữ của tác giả có gì đặc biệt, mới mẻ.
- Xác định xem các sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã
cống hiến những gì về phơng diện nghệ thuật sáng tác và sự tiếp nhận văn bản
nghệ thuật.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tập trung khai thác, nghiên cứu xem những sáng tác truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp có những nét đặc trng, đặc sắc nào về nghệ thuật tổ chức
cốt truyện, tổ chức kết cấu và phơng thức sử dụng ngôn ngữ đặc sắc làm nên
phong cách Nguyễn Huy Thiệp. Trên cơ sở đó để thấy đợc những đóng góp
lớn lao, mới mẻ của Nguyễn Huy Thiệp cho nền văn học nớc nhà.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tợng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên
các khía cạnh cơ bản nhất sau: cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp in trong Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Nhà xuất
bản Hội nhà văn - 2005).
5. Phơng pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn này chúng tôi sẽ vận dụng một số phơng pháp
nghiên cứu cơ bản sau:
5.1. Phơng pháp phân tích tổng hợp.
5.2. Phơng pháp cấu trúc hệ thống.
5.3. Phơng pháp phân loại, thống kê.
5.4. Phơng pháp so sánh.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Nghiên cứu nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không phải là
một điều mới mẻ, xa lạ gì với nhiều thế hệ bạn đọc. Trên cơ sở kế thừa những
thành tựu trớc đây, luận văn có một hớng tiếp cận một cách khái quát truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên các phơng diện nghệ thuật: cốt truyện, kết cấu

và ngôn ngữ nghệ thuật. Cụ thể:
- Xác định xem trong cách thức xây dựng cốt truyện, tổ chức kết cấu,
Nguyễn Huy Thiệp đã kế thừa và phát huy phơng thức xây dựng cốt truyện và
kết cấu truyền thống nh thế nào, đồng thời ông đã có những cách tân, sáng tạo
gì mới mẻ.
- Phát hiện những đặc sắc trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của
Nguyễn Huy Thiệp. Chỉ ra cái mới mẻ, táo bạo trong cách nhà văn này khai
thác vốn ngôn ngữ chung của dân tộc để biến thành vốn ngôn từ riêng làm nên
phong cách của chính ông.
Qua những hớng nghiên cứu đó, chúng tôi muốn chỉ ra cống hiến nghệ
thuật lớn lao của Nguyễn Huy Thiệp cho sự phát triển của truyện ngắn hiện
đại nói chung và phơng diện cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ nghệ thuật nói
riêng.
nội dung
Chơng I: Cốt truyện
1. 1. Quan niệm về cốt truyện
Cốt truyện là một thành phần rất quan trọng đối với thể loại tự sự và
kịch. Nó là yếu tố đặc trng của hai thể loại văn học này. Có nhà nghiên cứu đã
cho rằng cốt truyện là cửa ải gian khó của nhà văn, nó là nguyên nhân chung
dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm. Nếu nh nhân vật,
chủ đề, bối cảnh, đối thoại tuôn trào từ trong đầu nhà văn một cách nhẹ nhàng
thì cốt truyện lại là nơi khiến dòng chữ bị tắc ngẽn. Vì thế, các nhà văn khi
cầm bút luôn có ý thức sáng tạo, làm mới cốt truyện để có thể bộc lộ một cách
hiệu quả nhất quan niệm của mình về cuộc sống, về con ngời để lôi cuốn ngời
đọc. Chính điều này đã chi phối quan niệm của nhà văn về cốt truyện. Và nh
thế, cốt truyện có cả một quá trình lịch sử lâu dài mà tiến trình của nó ta có
thể tạm coi từ thời cổ đại cho đến ngày nay.
1.1.1. Quan niệm truyền thống
Ngời ta thờng nhắc tới quan niệm khởi nguyên từ thời cổ đại mà Arixtôt
đề xớng về cốt truyện. Trong công trình Nghệ thuật thi ca nổi tiếng của

mình ông cho rằng: Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện, xung đột hoặc sự
phát triển các sự kiện ấy theo trình tự tự nhiện của thời gian [1, tr. 32]. Ông
còn cho rằng cốt truyện là cơ sở, là linh hồn của bi kịch, sau đó mới đến các
tính cách. Bi kịch bắt chớc hành động, và vì vậy nó phải bắt chớc những con
ngời đang hành động ( ) Nhà thơ phải là ng ời sáng tạo cốt truyện hơn là ng-
ời sáng tạo cách luật, sở dĩ anh ta là nhà thơ vì anh ta biết bắt chớc lại là
hành động [1, tr.59]. Ông chia cốt truyện ra làm ba phần: đầu, giữa, kết.
Phần đầu giới thiệu hành động chính theo cách nào đó để ngời đọc háo hức
chờ đợi diễn biến tiếp theo. Phần giữa kết thúc sự kiện trớc đó và gợi dẫn sự
kiện tiếp theo. Phần kết tiếp nối những gì đã xảy ra, không gợi dẫn điều sắp
đến và tạo ra cái kết nhằm thỏa mãn nhu cầu khám phá nghệ thuật của ngời
đọc. Quan niệm của Arixtôt về cốt truyện tuy còn sơ lợc nhng đó lại là những
tiền đề đặt nền móng cho các nhà nghiện cứu sau này xây dựng lý thuyết cốt
truyện.
Thực vậy, các nhà văn Nga nh: E.Dobin, Vikoginov, M.Gorki,
A.N.Veselovsky đã có những công trình nghiên cứu về vấn đề này. Tôi xin
dẫn ra đây quan niệm tiêu biểu nhất của nhà văn M.Gorki. Theo ông: Cốt
truyện là một hệ thống các quan hệ qua lại của các nhân vật, là thiện cảm và
ác cảm của một tính cách nào đó (M.Gorki Trò truyện với các bạn trẻ).
Tuy nhiên định nghĩa này cha vạch rõ đợc bản chát của cốt truyện. Bởi lẽ,
Trong nhiều tác phẩm tự sự và kịch, các nhân vật đợc miêu tả bên ngoài đợc
hình thành tính cách của chúng [20, tr.37]. Tại sao lại khẳng định nh vậy?
Pospêlov cắt nghĩa: Định nghĩa của Gorki chủ yếu chỉ vận dụng đợc cho các
cốt văn học thuộc thời kỳ nở rộ của chủ nghĩa hiện thực [30, tr.37]. Chính vì
thế, sau này ngời ta ghi nhận và chú ý hơn tới định nghĩa của
B.V.Tomashevsky. Ông cho rằng các sự kiện và các mối liên hệ nội tại của
chúng đợc coi là nòng cốt của truyện: Tổng thể các sự kiện trong mối liên hệ
qua lại nội tại của chúng, ta gọi là cốt truyện (Fabula), sự sắp xếp các sự kiện
đợc xây dựng một cách nghệ thuật trong tác phẩm thì gọi là truyện (Fiuzhet).
Còn có rất nhiều quan niệm khác nhau về cốt truyện. Tựu chung lại

theo quan niệm truyền thống, các nhà nghiên cứu văn học cho rằng cốt truyện
có vai trò vô cùng quan trọng, không thể thiếu của một tác phẩm tự sự. Họ
định dạng cốt truyện gồm năm thành phần cơ bản sau: mở đầu, thắt nút, phát
triển, cao trào và kết thúc, tuy nhiên năm thành phần này cũng linh động
không bắt buộc phải có đủ hoặc triển khai theo đúng trình tự. Trên cơ sở này,
các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học thế kỷ XX tiếp tục phát triển và
có cái nhìn đầy đủ hơn về cốt truyện.
1.1.2. Quan niệm hiện đại
Nh trên đã trình bày, các nhà lý luận văn học hiện đại trên tinh thần
tiếp thu những giá trị truyền thống vẫn duy trì quan niệm cốt truyện đã từng lu
hành thông dụng trớc kia. Khi thiết lập cốt truyện, các nhà văn bao giờ cũng
quan tâm đến các yếu tố trong cấu trúc tác phẩm. Có lẽ vì thế mà trong cấu
trúc cốt truyện, ngời ta vẫn nhận thấy một điều là các thành phần của cốt
truyện đợc sắp xếp một cách chặt chẽ. Đành rằng, trong quan niệm của nhà
văn thì thứ tự cũng nh số lợng các yếu tố của cốt truyện vẫn có thể biến đổi
linh hoạt. Trong tâm thức của họ, sáng tác truyện chính là sáng tác cốt truyện,
ngời đọc cũng là ngời thởng thức cốt truyện. Nhà văn cha thể sáng tác đợc nếu
nh cha chuẩn bị kĩ lỡng cho mình một cốt truyện hoàn hảo. Theo họ, quá trình
xây dựng một cốt truyện là một quá trình lao động phức tạp và gian khổ.
Timofeev có nhận xét về quá trình xây dựng cốt truyện của Tônxtôi nh sau:
Tất cả các cốt truyện của Tônxtôi đều đợc thai nghén nhiều năm và
mỗi cốt truyện đều có lai lịch phức tạp và một số phận riêng của nó. Tônxtôi
lo lắng về các cốt truyện, giận dỗi với chúng nh với ngời sống vậy, đôi khi
ông chán , mệt mỏi về chúng vì sự vật lộn với tài liệu và ngôn từ để không
ngừng hòan thiện từng cốt truyện, từng tác phẩm. Tronng đầu óc thiên tài của
ông, trong các phòng thí nghiệm tuyệt vời ấy, bao giờ cũng có những cốt
truyện luôn luôn sống và vật chọi với nhau, làm cho ông phải lần lợt chú ý
đến chúng lúc nhiều hơn, lúc ít hơn.
ở ta, hơn một lần nhà văn Tô Hoài đã đa ra ý kiến bàn về cốt truyện.
Theo ông, một sáng tác mà ta có thể thêm vào hoặc bớt ra bao nhiêu cũng đ-

ợc là một sáng tác hỏng. Vì không thể kiểm tra chặt chẽ đợc khi vị trí của
nhân vật đã phải rút xuống hàng dới của cốt truyện, chỉ có nhân vật mới kiểm
tra đợc cốt truyện, nhân vật mới có quyền phân phối ý chính, ý phụ.
Nh vậy, theo quan niệm chung của thời hiện đại, nhà văn của ta cũng
nh các nhà văn trên thế giới luôn quan tâm đến cốt truyện. Theo họ, trong quá
trình xây dựng cốt truyện nhà văn phải luôn nỗ lực không ngừng để xây dựng
đợc những cốt truyện chân thực và hấp dẫn, đồng thời thể hiện đợc chiều sâu
tâm lý của nhân vật. Ngay cả những bậc thầy truyện ngắn hiện đại trên thế
giới nh Anton Chekhov, G. Môpatxăng, O.Henry cũng không thoát khỏi sự
trói buộc của những quan niệm truyền thống ấy. Mặc dầu ta thấy họ đã cố
gắng rất nhiều để lu lại cho đời những viên ngọc sáng đầy tính nghệ thuật. Nh
O. Henry chẳng hạn. Trong các truyện ngắn của mình, ta thấy ông có một thủ
thuật, hay nói đúng hơn là sáng tạo nghệ thuật, đó là kiểu kết thúc truyện đảo
ngợc tình thế hai lần khiến ngời đọc phải bàng hoàng, sửng sốt vì kết truyện
không theo hành trình cuộc đời của nhân vật nh ngời ta hằng phán đoán. Thế
nhng cốt truyện của ông vẫn hết sức chặt chẽ, ta không thể thêm, bớt hay thay
đổi vị trí các phần trong truyện đợc. Bởi lẽ nội dung câu chuyện sẽ bị thay đổi
rất nhiều. Dụng ý nghệ thuật của tác giả không đợc thể hiện, dẫn tới hậu quả
là tác phẩm mất hẳn đi tính nghệ thuật.
Tóm lại, đối với nhà văn hiện đại thì cốt truyện vẫn là một thành phần
tự sự không thể thiếu vắng. Nhà văn thành công là nhà văn sáng tạo đợc những
cốt truyện độc đáo. Trong tác phẩm của họ, kiểu nhân vật hành động, nhân vật
tính cách là chủ yếu và phục tùng cho cốt truyện.
1.1.3. Quan niệm hậu hiện đại
Có thể nói từ nửa sau thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của khoa học
kỹ thuật, triết học hậu hiện đại đã đem lại cho con ngời những cái nhìn hoàn
toàn khác lạ về thế giới. Trong lĩnh vực văn chơng, sự thay đổi các giá trị cũng
diễn ra vô cùng mạnh mẽ. Vai trò của cốt truyện không còn tối thiết quan
trọng nữa. ở bầu trời văn học phơng Tây đã diễn ra những cuộc tấn công ào ạt
vào cốt truyện. Nhiều ngời theo các trào lu văn học phi hiện thực cho rằng

việc xây dựng cốt truyện của các tác phẩm nghệ thuật là một trong những trở
ngại cơ bản đối với sự phát triển nghệ thuật mới. Nhà văn Pháp nổi tiếng
Malro đã tuyên bố rằng: Muốn cho nghệ thuật hiện đại ra đời thì cốt truyện
cần phải mất đi bởi vì sẽ xuất hiện một cốt truyện mới- sự hiện diện của ngời
nghệ sĩ trong tác phẩm [ 31, tr.181]. Bạn đọc yêu thích và quan tâm đến văn
chơng đều biết rằng những kiểu và những dạng kết cấu cốt truyện, cũng nh tỷ
trọng cốt truyện trong tác phẩm nghệ thuật biến đổi theo tiến trình của thời
gian, chúng không đồng đều nhau trong những giai đoạn khác nhau của lịch
sử văn học, trong những trào lu văn học khác nhau.
Mặc dầu phát triển muộn màng hơn so với tiến trình văn học thế giới
nhng giới nghiên cứu văn học Việt Nam cũng đã có những sự quan tâm thích
đáng về vấn đề này. Hòa nhập vào dòng chảy chung của lý luận văn học thế
giới, lý luận văn học Việt Nam trong những năm gần đây với những bớc
chuyển mình đáng kinh ngạc đã nở rộ mùa nghiên cứu văn chơng hậu hiện
đại. Trong một bài viết của mình, Đông La đã chỉ ra rằng: Nhà văn hậu hiện
đại gắng hết sức đập nát bốn yếu tố của tiểu thuyết là cốt truyện, nhân vật,
cảnh trí và đề tài, cốt truyện bị nghiền nhỏ thành những biến cố và hoàn
cảnh, nhân vật bị phân tán thành một bó những khát vọng, cảnh trí chỉ mô tả
sơ sài. Họ không thích sự liền mạch và kết thúc có hậu trong cốt truyện truyền
thống, mà a chuộng một phơng thức đa kết, bằng cách ban cho cốt truyện rất
nhiều hệ quả có thể có đợc [28]. Qua đây ta thấy dờng nh cốt truyện đã bị
hạ bệ, bị đẩy xuống hàng thứ yếu, thậm chí có quan niệm còn cho rằng nó
chẳng có vai trò gì trong tác phẩm tự sự (?). Không cần phải hoài nghi, ta hãy
chú ý tới một số sáng tác của các nhà văn Việt Nam thời kỳ đổi mới sẽ thấy rõ
hơn vấn đề này. Ta có thể nhắc tới các tiểu thuyết: Thiên thần sám hối,
Lão Khổ của Tạ Duy Anh, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Thoạt kỳ
thủy của Nguyễn Bình Phơng , các truyện ngắn của Y Ban, Nguyễn Ngọc
T, Đỗ Hoàng Diệu và đặc biệt là trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Trong đó loại truyện không có cốt truyện chiếm u thế quan trọng làm nên
phong cách nghệ thuật riêng cho mỗi nhà văn. Điều đó khiến chúng ta phải

thừa nhận rằng, trong lĩnh vực tự sự, đặc biệt là truyện ngắn hậu hiện đại, cốt
truyện đã bị biến dạng, phân rã rất nhiều.
Lê Huy Bắc trong bài viết Các kiểu truyện ngắn hậu hiện đại đã
tổng kết: Chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học ra đời từ những năm 1950,
là khuynh hớng tiếp nối chủ nghĩa hiện đại, gắn với sự bùng nổ của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ thông tin, đợc thể hiện ở cả ba phơng diện
thơ, kịch, văn xuôi với các đặc điểm chính: huyền ảo, lắp ghép, mảnh vỡ, cực
hạn, độ căng; hạn chế tối đa vai trò của ngời kể chuyện, không quan tâm đến
cốt truyện, kịch, văn xuôi mang nhiều đặc điểm của thơ[44, tr.520].
Nh thế từ truyền thống đến hiện đại và hậu hiện đại đã có một khoảng
cách vô cùng lớn, đờng biên, ranh giới trong quan niệm cốt truyện đơng nhiên
đã đợc xác lập rõ ràng, dứt khoát. Nếu nh nhà văn sáng tác truyện theo tinh
thần truyền thống thì cốt truyện đối với họ là yếu tố cần quan tâm đầu tiên, là
yếu tố tiên quyết, quyết định sự sáng tạo nghệ thuật của họ, thì trái lại, nhà
văn theo tinh thần hậu hiện đại lại rất ít quan tâm đến cốt truyện. Họ cố ý
phân mảnh, nghiền nát, thậm chí triệt tiêu cốt truyện. Bởi lẽ, theo các nhà
nghiên cứu thì chủ nghĩa hậu hiện đại là sự sụp đổ của cái đơn nhất và cái toàn
trị để nhờng chỗ cho những phần mảnh và những yếu tố ngoại biên, là sự
khủng hoảng của tính nhất quán và là sự nở rộ của những dị biệt, là sự thoái vị
của truyền thống và sự thăng hoa của tính đa tạp.
Nằm trong nguồn mạch chung của văn học hậu hiện đại thế giới, văn
chơng của Nguyễn Huy Thiệp cũng bị cuốn theo dòng chảy mạnh mẽ và phức
tạp ấy. Mặc dù không phải là ngời khơi nguồn cho văn học hậu hiện đại ở nớc
ta, nhng trong mắt nhiều nhà nghiên cứu, Nguyễn Huy Thiệp là kết tinh, là
đỉnh cao của sự đổi mới trong văn học. Nghiên cứu cốt truyện trong truyện
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp vì thế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nó cho ta thấy bớc chuyển mình, sự thay da đổi thịt của nền văn học nớc nhà,
đồng thời nó đem lại cho ta một cái nhìn toàn diện, khách quan, khoa học và
biện chứng về những chặng đờng phát triển của văn học nớc nhà. Bởi lẽ, vạn
vật đều tồn tại trong vòng luân hồi của quy luật phủ định của phủ định, cái

mới ra đời là một tất yếu lịch sử, nó sẽ phủ định cái cũ nhng trên tinh thần kế
thừa cái cũ. Cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp vừa có những
cách tân đột phá táo bạo, vừa có có sự tiếp nối nguồn mạch truyền thống. Nội
dung chủ yếu của chơng này sẽ tập trung làm sáng tỏ điều đó .
1.2. Cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Khi cầm bút, Nguyễn Huy Thiệp đã ý thức rất sâu sắc và nghiêm túc về
công việc của mình. Trong bài tiểu luận Thời của tiểu thuyết (1) ông đã
mạnh dạn phát biểu: Truyện ngắn là một thể loại viết dễ nhng rất khó
thành( ) Trong quan niệm sáng tác của tôi, một mặt tôi vẫn coi truyện ngắn
nh tác phẩm (viết với ý thức cổ điển) nh ng một mặt khác tôi vẫn chỉ coi nó
nh là bài tập văn chơng mà thôi. Hai điều này vừa mâu thuẫn vừa không mâu
thuẫn [51, tr.225]. Khảo sát các truyện ngắn của ông, chúng tôi nhận có các
kiểu cốt truyện sau:
1.2.1. Cốt truyện truyền thống
Những truyện đợc xây dựng theo mô hình này chiếm một vị trí khá
quan trọng trong các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp ( Chiếm khoảng 1/3
tổng số truyện ngắn của ông). Tuy là ngời muốn bứt phá ra khỏi trật tự của cái
cũ thông thờng, muốn khuynnh đảo những giá trị truyền thống nhng trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ngời ta lại nhận thấy những tác phẩm đợc xây
dựng theo mô hình này lại là những tác phẩm u tú, có giá trị nghệ thuật đặc
sắc và chứa đựng tinh thần nhân sinh cao cả nh các truyện: Những ngọn gió
Hua Tát, Muối của rừng, Cún, Huyền thoại phố phờng, Phẩm tiết, Kiếm
sắc, Thổ cẩm, Truyện tình kể trong đêm ma, Giọt máuở loạt truyện
này, ta thấy cốt truyện chính là phơng tiện cơ bản để nhà văn khắc họa nhân
vật và tái hiện các xung đột xã hội. Bởi lẽ, cũng giống nh bất kì nhà văn nào,
khi cầm bút Nguyễn Huy Thiệp luôn có ý thức làm mới cốt truyện để có thể
bộc lộ một cách hiệu quả nhất quan niệm của mình về cuộc sống, về con ngời
và để lôi cuốn ngời đọc. Trong một lần trò chuyện với độc giả, nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp đã dốc bầu tâm sự: Viết văn phải có mẹo. Tôi rất có ý
thức viết bằng nhiều kiểu khác nhau. Cũng có truyện chỉ là một lát cắt của

cuộc sống nh Sang sông chẳng hạn - từ bờ bên này sang bờ bên kia là hết
truyện, nhng cũng có truyện kéo dài theo chiều dọc của nó, ví dụ T ớng về h-
u , kể từ khi ông Thuấn về h u đến khi ông chết, hoặc cũng có truyện kéo dài
cả thế kỷ nh Giọt máu hoặc có những chuyện vu vơ nh ng thực ra nó rất có ý
nghĩa về số phận con ngời, về đạo nói chung nh truyện Chuyện ông Móng ,
Chú Hoạt tôi , hoặc có những truyện mang tính liên hoàn nh Những ngọn
gió Hua Tát {36}. Có lẽ xuất phát từ quan niệm này mà khi sáng tác các yếu
tố trong cốt truyện của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hết sức năng động.
Năng động trong việc sử dụng các thành phần của cốt truyện cũng nh kết cấu
của cốt truyện.
Khảo sát mời câu chuyện nhỏ trong Những ngọn gió Hua Tát, ta
thấy, mặc dù sử dụng mô hình và chất liệu dân gian nhng yếu tố năng động,
phá phách trong con ngời nghệ sĩ tài hoa này vẫn đợc bộc lộ hết sức rõ nét. Có
thể nói, toàn bộ mời câu chuyện nhỏ làm thành một câu chuyện lớn. Các câu
chuyện này liên kết với nhau bởi mối liên hệ giữa các nhân vật chính và phụ
trong đó. Chẳng hạn trởng bản Hà Văn Nó trong Tiệc xòe hoa vui nhất và
Chiếc tù và bị bỏ quên, các con của ông trong hai câu chuyện này; ông già
Pành trong Đất quên và Sạ - cong trai ông trong truyện Sạ. Việc sắp xếp
thứ tự các truyện cũng đầy dụng ý nghệ thuật, ta có thể tổng kết đợc nh sau:
Số thứ tự Tên truyện Kết thúc
1
Trái tim hổ
Không có hậu
2
Con thú lớn nhất
Không có hậu
3
Nàng Bua
Không có hậu
4

Tiệc xòe hoa vui nhất
Có hậu
5
Sói trả thù
Không có hậu
6
Đất quên
Không có hậu
7
Chiếc tù và bị bỏ quên
Có hậu
8
Sạ
Không có hậu
9
Nạn dịch
Không có hậu
10
Nàng Sinh
Có hậu
Nhìn vào bảng thống kê ta thấy rất rõ kết cấu tổng thể của câu chuyện
lớn này đợc mở đầu bằng một truyện có kết cục có hậu và kết thúc bằng một
truyện có kết cục không có hậu. Nếu phân tích kỹ lỡng hơn ta lại thấy có sự
đan xen giữ các truyện có kết thúc không có hậu và các truyện có kết thúc có
hậu theo tỷ lệ: 3:1:2:1:2:1. Các câu chuyện có kết thúc có hậu thì gần gũi với
các truyện cổ tích. Điều này đã đợc T.N.Philimonova phát hiện ra và phân tích
khá lý thú: Nếu xuất phát từ lý thuyết của Propp thì trong các truyền thuyết
cổ tích này về mặt kết cấu, sau tình huống tai họa/ thiếu hụt ban đầu không
qua lớp cấu trúc đầu tiên - một thử thách sơ bộ - mà lập tức bắt đầu ngay thử
thách chính trong đó ngời giúp đỡ thần kỳ hoặc một vật kỳ diệu (tù và, hòn đá

thần) giúp cho các nhân vật. Chỉ trong ba truyện này có sự hiện diện của yếu
tố cổ tích hoang đờng. Trong những truyện còn lại có thể xảy ra những
chuyện kỳ lạ, bất thờng nhng hoàn toàn thực tế [34,tr.71]. Đây cũng là một
điểm cách tân trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Nguyễn Huy Thiệp.
Một điều dễ nhận thấy là cốt truyện trong các truyện ngắn này chủ yếu
đợc xây dựng trên cơ sở các hành động. Hành động của các nhân vật trong các
cốt truyện này đợc nhà văn miêu tả không cầu kỳ, chi tiết nhng môi trờng và
hoàn cảnh để nhân vật và hành động lại đợc xây dựng rất phù hợp nhằm làm
nổi bật ý nghĩa t tởng của câu chuyện. Ngay trong phần đầu giới thiệu các câu
chuyện, tác giả đã tạo đợc một không khí huyền thoại hết sức đẹp, thơ mộng
gợi trí tởng tợng kỳ diệu và sự mò nơi độc giả:
Thung lũng Hua Tát ít nắng. ở đây quanh năm cứ lung bung một thứ
sơng mù bàng bạc nên nhìn ngời và vật chỉ nhìn thấy những nét nhòa nhòa đại
thể mà thôi. Đây là thứ không khí huyền thoại.
ở Hua Tát, những chuyện cổ nh những bông hoa dại, màu vàng nhạt,
bé nh khuy áo, điểm đâu có quanh rào trong các ngõ nhỏ. Đàn ông ngậm hoa
này trong miệng uống rợu không bao giờ say. Nó cũng giống nh những viên
đá cuội trắng, có gân đỏ, mảnh nh sợi chỉ nằm kín đáo nơi lòng suối. Phụ nữ
thích những viện sỏi này. Họ nhặt nó về ủ trong áo lót đủ một trăm ngày. Khi
làm đệm cho chồng, họ giấu viên sỏi ấy vào trong. Có lời nguyền rằng, ngời
chồng nằm trên đệm ấy sẽ không bao giờ mơ tởng đến những phụ nữ khác.
Hua Tát là một bản nhỏ cô đơn. Ngời dân ở đây sống giản dị, chất
phác. Công việc nơng dẫy nhọc nhằn vất vả. Cả việc săn bắt cũng thế. Tuy
nhiên, ngời dân ở đây lại rất rộng lòng mến khách.
Đến Hua Tát, khách sẽ đợc mời ngồi bên bếp lửa, uống sừng rợu cần
với xeo thịt rừng sấy khô.
Nếu khách là ngời công minh, chính trực, chủ nhà sẽ mời khách nghe
một câu chuyện cổ. Có thể những câu chuyện cổ ấy nói nhiều đến nỗi đau khổ
con ngời, nhng chính hiểu rõ những đau khổ ấy mà ở trong ta nảy nở ra sự
sáng suốt đạo đức, lòng cao thợng, tính ngời.

Những ngời sống trong chuyện cổ bây giờ đều không còn nữa. ở Hua
Tát, họ đã biến thành đất bụi và tro than cả. Tuy vậy, linh hồn của họ vẫn bay
thấp thoáng trên các khau cút nhà sàn.
Nh những ngọn gió .
Tất cả các nhân vật và các sự kiện trong các câu chuyện này dờng nh có
thực và đợc bao bọc trong cái vỏ cổ tích, huyền thoại. Các nhân vật và các sự
kiện xảy ra với các nhân vật này đều đợc xây dựng trên các mô típ cổ tích điển
hình, và cũng giống nh trong truyện cổ tích, trong các truyện ấy, vai trò của
các yếu tố h cấu hoang đờng tham gia trực tiếp vào việc quyết định số phận
nhân vật chính.
Dụng công của Nguyễn Huy Thiệp trong mời truyện ngắn này là ông
muốn truyền một thông điệp đến độc giả: Những kết thúc có hậu chỉ có trong
các câu chuyện cổ tích, còn cuộc đời thực thì không có chỗ cho sự hiện diện
của điều đó. Bởi lẽ, cuộc đời đầy rẫy những chông gai. Sự thực cuộc đời này
đáng buồn lắm. Ngời ta không phải cứ ở hiền thì gặp lành, ở ác thì gặp
ác. Nghĩa là quy luật nhân quả không còn đúng trong mọi trờng hợp nữa.
Chàng Khó tốt bụng định săn hổ lấy trái tim cứu Pùa nhng lại bị kẻ khác cớp
công và giết, ông già Pành sống sâu nặng ân tình thế nhng lại bị ngời đời mỉa
mai và lãng quên, Nàng Bua cởi mở với tất cả mọi ngời, khi đào đợc hũ vàng
đã chia phần cho rất nhiều ngời thế nhng kết cục nàng lại chết vv Nguyễn
Huy Thiệp đã gieo rắc vào tâm thức bạn đọc những hoài nghi về các giá trị
hiện tồn, kích thích nhu cầu tự vấn ở họ để từ đó họ sống thực hơn, có ý nghĩa
hơn. Đó chính là tinh thần nhân văn cao cả mà truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp mang lại. Nguyễn Huy Thiệp muốn khuyên con ngời ta không nên sống
quá ảo tởng mà phải nhìn thẳng vào thực tế. Cũng nh Vũ Trọng Phụng từng
phát biểu quan niệm nghệ thuật của mình: Các ông cứ muốn tiểu thuyết phải
là tiểu thuyết. Còn tôi, tôi muốn tiểu thuyết phải là sự thực ở đời. Có lẽ bạn
đọc sẽ thấy thú vị hơn khi chiêm nghiệm câu danh ngôn này: Cuộc đời là
một phân số, tử số là cuộc đời thực, mẫu số là phần mơ mộng. Nếu tử số càng
lớn, mẫu số càng nhỏ thì giá trị của phân số đó càng lớn. Ngợc lại nếu tử số

càng nhỏ, mẫu số càng lớn thì ohan số đó càng nhỏ.
Điểm qua một số truyện ngắn khác của Nguyễn Huy Thiệp nh: Huyền
thoại phố phờng, Phẩm tiết, Kiếm sắc, Thổ cẩm, Muối của rừng Ta thấy
ở nhà văn này, việc xây dựng cốt truyện truyền thống gồm năm thành phần đ-
ợc tuân thủ tơng đối chặt chẽ. Để tiện theo dõi, chúng tôi xin nhắc qua một số
kiến thức cơ bản về lý thuyết các thành phần của cốt truyện:
- Phần mở đầu: giới thiệu về lai lịch, hoàn cảnh sống của các nhân vật.
ở phần này, mâu thuẫn cha xuất hiện mà chủ yếu ở trạng thái tĩnh. Chức năng
của phần này là thuyết minh cho những hành động sau đó.
- Phần khai đoạn (thắt nút): đó là khởi điểm sự vận động của mọi mâu
thuẫn và xung đột, qua đó nhân vật bớc đầu bộc lộ bản chất của chúng. Phần
này tuy chiếm một dung lợng nhỏ nhng nó lại đánh dấu điểm khởi đầu của
một quan hệ tất yếu phát triển.
- Phần phát triển: đóng vai trò là trung tâm của cốt truyện thờng chiếm
một dung lợng tơng đối lớn trong tác phẩm. Nó mang một lợng thông tin quan
trọng gồm những cảnh ngộ, sự kiện và biến cố khác nhau, có tác dụng đa kịch
tính lên cao. Tính cách của nhân vật dần đợc bộc lộ rõ nét.
- Phần đỉnh điểm (cao trào): Triển khai sự phát triển của hành động,
tính cách lên đến giai đoạn cao trào nhất, căng thẳng nhất trong quá trình vận
động đỉnh điểm có ý nghĩa quyết định đối với số phận nhân vật bởi tình thế
cam go và khó giải quyết. Chức năng của cao trào không chỉ là mài sắc các
vấn đề của tác phẩm mà nó còn đa đến sự chấm dứt của sự phát triển tính cách
của nhân vật nhân vật đợc bộc lộ rõ rệt, t duy nghệ thuật và ý nghĩa sâu xa của
tác phẩm cũng toát ra từ đây.
- Phần kết thúc (mở nút): Phần này thờng đứng ở vị trí cuối cùng trong
tác phẩm và là sự giải quyết cụ thể một mâu thuẫn. Mở nút chấm dứt quá trình
vận động và giải quyết các mói xung đột, mâu thuẫn hoặc hé mở cho ngời đọc
thấy khả năng giải quyết các xung đột ấy. Mở nút đóng vai trò quan trọng
trong các tác phẩm có xung đột truyện khép kín trong không gian và thời gian
trong các trờng hợp ấy sự mở nút sẽ thu hút chú ý của ngời đọc.

Thực vậy, không chỉ đơn thuần bó hẹp trong các truyện ngắn xây dựng
trên mô hình truyền thống mà ở nhiều truyện ngắn khác nữa của Nguyễn Huy
Thiệp, phần mở đầu thờng đi theo lối mòn truyền thống. Sau đây là một số
phần giới thiệu xuất xứ lai lịch của nhân vật:

×