Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

ĐỐI THOẠI CÙNG BẠN ĐỌC VỀ KHÁI NIỆM "VĂN HÓA" VÀ CẤU TRÚC VĂN HÓA pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.52 KB, 6 trang )

ĐỐI THOẠI CÙNG BẠN ĐỌC VỀ KHÁI NIỆM "VĂN HÓA"
VÀ CẤU TRÚC VĂN HÓA

GS.VS.TSKH.Trần Ngọc Thêm
Bộ môn Văn hóa học
Trường ĐH KHXH & NV, Đại học Quốc gia
Tp.HCM

Trích từ PHỤ LỤC cuốn Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam (Trần
Ngọc Thêm, NXB Tp. HCM, bản in lần 3, 2001)


Cuốn "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam" (in lần đầu năm 1996) là sự
mở rộng của công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Tính hệ thống của
văn hóa Việt Nam" (nghiệm thu năm 1994, Bằng khen của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT về công trình NCKH xuất sắc 5 năm 1991-1995) và cuốn "Cơ sở
văn hóa Việt Nam" dày 500 trang do Trường Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí
Minh xuất bản chính thức lần đầu năm 1995. Mặc dù khi đó sách mới chỉ
lưu hành nội bộ với số lượng xuất bản không nhiều, song sau khi ra mắt,
"Cơ sở văn hóa Việt Nam" đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của dư
luận bạn đọc. Một Hội thảo đã được tổ chức tại Trung tâm Quốc học.
Nhiều báo và tạp chí trong nước và của Việt kiều ở nước ngoài đã đăng tải
các bài giới thiệu, nhận xét, thảo luận.
Bên cạnh nhiều ý kiến, bài viết đánh giá cao công trình này và những
góp ý đúng đắn, chân thành mà chúng tôi rất trân trọng tiếp thu, cũng có
một số bài viết chứa những nhận xét không thỏa đáng do không hiểu rõ,
không cùng điểm xuất phát, hoặc đơn giản là do chưa đọc kỹ. Nhận thấy
một số băn khoăn thắc mắc trong những bài này có thể cũng là băn khoăn
thắc mắc chung của bạn đọc "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam" nên
chúng tôi đã đưa vào phần "Đối thoại cùng bạn đọc" này mà nội dung chủ
yếu được soạn theo bài trả lời phỏng vấn của chúng tôi với phóng viên


Công Bình nhan đề "Trò chuyện với tác giả Cơ sở văn hóa Việt Nam" đã
đăng trên Báo "Văn nghệ", số 32-1996 và một bài khác đã gửi cho báo
"Văn nghệ" sau đó, nhưng chưa được tòa soạn công bố.
"Đối thoại cùng bạn đọc" hy vọng góp phần làm sáng tỏ thêm về
phương pháp tiếp cận và nội dung những vấn đề đã trình bày trong sách
"Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam".
***
- Có ý kiến phê bình định nghĩa văn hóa trong Cơ sở văn hóa Việt Nam và
Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam là chưa đề cập hay đề cập chưa đúng mức
đến các đặc trưng như tính chủ động, tính nhân đạo, và các chức năng như
chức năng nhận thức và tái tạo thông tin, chức năng định hướng, chức năng
tái tạo thế giới của văn hóa?
Một khái niệm khoa học thường có nhiều đặc trưng và chức năng mà một định
nghĩa, do yêu cầu diễn đạt ngắn gọn, thường không bao giờ có thể bao quát hết
được. Bởi vậy mà trong thực tiễn khoa học xưa nay, đối với một khái niệm, người
ta có thể kể ra đủ mọi thứ "tính" khác nhau và định nghĩa nó theo nhiều cách khác
nhau (chính vì vậy mà những khái niệm khoa học quan trọng thường bao giờ cũng
có nhiều cách định nghĩa khác nhau), do đó không dễ gì kết luận rằng chỉ có định
nghĩa này mới đúng, còn những định nghĩa khác là sai cả; phải nêu những đặc
trưng, chức năng này mới đúng, còn nêu những đặc trưng, chức năng khác là sai
cả. Theo lôgic nghiên cứu khoa học, để đưa ra một định nghĩa có sức thuyết phục,
cần phải lựa chọn được trong số các "tính" có thể có, đâu là những đặc trưng cơ
bản. Đặc trưng cơ bản là những nét riêng biệt và tiêu biểu, cần và đủ để phân biệt
khái niệm (sự vật) ấy với những khái niệm (sự vật) khác.
Về khái niệm "văn hóa", hiện có rất nhiều định nghĩa. Vào năm 1952, hai nhà
nhân học người Mỹ là A. Kroeber và C. Kluckhohn đã viết một cuốn sách chuyên
bàn về các định nghĩa văn hóa nhan đề: Văn hóa - tổng luận phê phán các quan
niệm và định nghĩa (Culture: a critical review of concepts and definitions), trong
đó đã dẫn ra và phân tích 164 định nghĩa về văn hóa. Trong lần xuất bản thứ hai
của cuốn sách này, số định nghĩa văn hóa đã tăng lên đến trên 200. Còn hiện nay

thì số lượng định nghĩa về văn hóa khó mà biết chính xác được: có người bảo là
400, có người nói là 500, lại có người quả quyết rằng chúng lên đến con số nghìn
Các định nghĩa văn hóa hiện có tuy rất phong phú và đa dạng, nhưng tựu trung
lại, chúng không nằm ngoài hai loại: định nghĩa miêu tả và định nghĩa nêu đặc
trưng. Định nghĩa miêu tả liệt kê các thành tố của văn hóa, còn các định nghĩa nêu
đặc trưng thì có thể quy về ba khuynh hướng lớn: Khuynh hướng thứ nhất coi văn
hóa là những kết quả (sản phẩm) nhất định. Đó có thể là những giá trị, những
truyền thống, những nếp sống, những chuẩn mực, những tư tưởng, những thiết chế
xã hội, những biểu trưng, ký hiệu, những thông tin mà một cộng đồng đã sáng
tạo, kế thừa và tích lũy. Khuynh hướng thứ hai xem văn hóa như những quá trình.
Đó có thể là những hoạt động sáng tạo, những công nghệ, những quy trình, những
phương thức tồn tại, sinh sống và phát triển, cách thức thích ứng với môi trường,
phương thức ứng xử của con người Khuynh hướng thứ ba xem văn hóa như
những quan hệ, những cấu trúc giữa các giá trị, giữa con người với đồng loại và
muôn loài.
Tất cả các khuynh hướng định nghĩa khác nhau ấy đều có hạt nhân hợp lý của
mình, sự khác biệt giữa chúng chủ yếu là do các tác giả đã quá nhấn mạnh vào
khía cạnh này hay khía cạnh khác của khái niệm mà thôi. Tuy nhiên, sau khi so
sánh, rà soát thì, theo chúng tôi, bốn đặc trưng sau chính là những đặc trưng cần
và đủ để phân biệt văn hóa với những khái niệm, hiện tượng có liên quan: a) tính
hệ thống cần để phân biệt văn hóa như một hệ thống giá trị với quan niệm sai lầm
coi văn hóa như một tập hợp (phức hợp) của những tri thức rời rạc từ nhiều lĩnh
vực; b) tính giá trị cần để phân biệt văn hóa như cái có giá trị với cái phi văn hóa;
c) tính nhân sinh cần để phân biệt văn hóa như cái nhân tạo với các giá trị tự
nhiên; d) tính lịch sử cần để phân biệt văn hóa như cái được tích lũy lâu đời với
văn minh như cái chỉ trình độ phát triển ở một thời điểm nhất định. Định nghĩa văn
hóa của chúng tôi chính là sự tổng hợp của bốn đặc trưng cơ bản đó. Liên quan tới
bốn đặc trưng cơ bản này là bốn chức năng cơ bản: tổ chức xã hội, điều chỉnh xã
hội, giáo dục và giao tiếp.
Các đặc trưng / chức năng khác thường chỉ là hệ quả của chúng hoặc đã được

bao hàm trong chúng: Tính chủ động đã bao hàm trong chức năng tổ chức xã hội
(không chủ động thì làm sao mà tổ chức được); tính nhân đạo là hệ quả của tính
nhân sinh (nói văn hóa mang chất người, do con người, vì con người là nói rằng
văn hóa mang tính nhân đạo rồi); chức năng định hướng các chuẩn mực là hệ quả
của chức năng điều chỉnh xã hội (đã được chúng tôi nói đến ở trang 23 của sách
Cơ sở văn hóa Việt Nam bản in năm 1995 hoặc §1.1.2 sách Tìm về bản sắc văn
hóa Việt Nam); chức năng nhận thức và thông tin đã hàm chứa trong chức năng
giáo dục (nói A giáo dục B nghĩa là A thông tin nhận thức của mình cho B để B có
được nhận thức như thế); chức năng tái tạo thế giới liên quan đến chức năng nhận
thức (cho ta một cái nhìn về thế giới), do vậy liên quan đến chức năng giáo dục và
chức năng điều chỉnh xã hội (tạo ra một thế giới mới)
- Có người còn đòi hỏi định nghĩa văn hóa phải nhấn mạnh đến "cách
thức sáng tạo và sử dụng các giá trị" vì chúng là những "giá trị đặc biệt,
mang ý nghĩa định tính và đóng vai trò thước đo về trình độ phát triển của
văn hóa"?
- Hiển nhiên, hoạt động là mắt xích nằm giữa con người với tự nhiên và xã
hội: hoạt động tạo ra văn hóa, và bản thân hoạt động, phương thức hoạt động,
công nghệ hoạt động của con người cũng là văn hóa. Không phải ngẫu nhiên mà
có trường phái định nghĩa văn hóa như hoạt động. Song, theo chúng tôi, nhiệm vụ
của định nghĩa văn hóa là để nhận diện và phân biệt văn hóa với vô văn hóa, văn
hóa với tự nhiên, v.v., chứ đâu phải để phân biệt trình độ cao với trình độ thấp?
Vả lại nếu quá nhấn mạnh đến khía cạnh này thì khái niệm văn hóa chủ yếu sẽ
chứa đựng các tri thức kỹ thuật - công nghệ, mà đó là đối tượng quan tâm của văn
minh chứ không còn là văn hóa nữa. Đối với chúng tôi, hoạt động sáng tạo và sử
dụng các giá trị nằm trong khái niệm giá trị đó là một loại giá trị văn hóa phi vật
thể.
- Về cấu trúc văn hóa, tại sao "tín ngưỡng" được xếp vào tiểu hệ "tổ chức
đời sống cá nhân", còn "Phật giáo" lại được xếp vào tiểu hệ "ứng xử với môi
trường xã hội"?
- Đây là một thắc mắc hoàn toàn có lý. Tuy nhiên, về mặt phương pháp luận

khoa học, người ta đều biết rằng cùng một đối tượng phân loại có thể được xem
xét theo nhiều hướng, nhiều tiêu chí khác nhau. Do vậy, việc xếp đối tượng đó vào
nhóm phân loại nào phải căn cứ vào việc tiêu chí nào là chính, và phải đảm bảo
yêu cầu sao cho việc phân loại không thiếu (phải bao quát hết đối tượng), không
thừa (không chồng chéo lên nhau). Tín ngưỡng và tôn giáo tuy xét về bản chất thì
cùng loại, nhưng xét về nguồn gốc và diễn biến của từng trường hợp cụ thể thì có
thể lại rất khác nhau. Ai cũng biết rằng ở Việt Nam thì Phật giáo, Đạo giáo, Kitô
giáo đều là những tôn giáo không phát sinh từ các tín ngưỡng dân tộc mà có
nguồn gốc ngoại lai, là sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa với các dân tộc
khác. Mối liên hệ của chúng với các dân tộc và các nền văn hóa phát sinh ra chúng
lớn hơn nhiều, quan trọng hơn nhiều so với mối liên hệ của chúng với các tín
ngưỡng dân tộc. Chính vì vậy mà trong hệ thống của mình, chúng tôi đã xếp tín
ngưỡng vào tiểu hệ "tổ chức đời sống cá nhân" (vì liên quan đến đời sống riêng
mỗi người), còn Phật giáo và các tôn giáo khác được xếp vào tiểu hệ "ứng xử với
môi trường xã hội".

×