QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
Phan Công Khanh
Cùng với kinh tế và chính trị, văn hoá là yếu tố định hình cho một
chế độ nguyên thuỷ. Tên gọi cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ,
phong kiến hay TBCN, ngoài hàm nghĩa về phương thức sản xuất và chế
độ chính trị còn ẩn chứa những thông điệp văn hóa. Sự liên kết trên bình
diện dân tộc đã định hình thế giới từ thời cổ xưa, thực chất là liên kết
trên bình diện văn hóa: những cộng đồng có nền sản xuất cùng một
trình độ, có chung ngôn ngữ, chung những đặc điểm đời sống vật chất và
tinh thần thì liên kết trong một dân tộc.
Văn hóa tồn tại và vận động trong không gian dân tộc. Không có văn hóa
chung thì các cộng đồng thiếu điểm tựa tinh thần để liên kết thành dân tộc. Nhưng
không có dân tộc thì cũng không có văn hóa vì thiếu đi cái chủ thể để liên kết
những giá trị sáng tạo chung. Cá nhân, giai cấp, khu vực, nhân loại… chỉ là những
chủ thể "yếu" nếu không có vai trò của chủ thể dân tộc. Như vậy, dân tộc - ở
phương diện lịch đại và chế độ xã hội - ở phương diện đồng đại, là không gian tồn
tại của văn hóa. Trong phạm vi dân tộc, văn hoá là những yếu tố đã định hình, ổn
định "neo giữ" những giá trị chung. Trên bình diện chế độ xã hội, văn hóa là kết
quả của sự tương tác giữa các giá trị trong những quan hệ sống. Trên cả hai
phương diện, văn hoá vừa mang tính ổn định vừa mang tính vận động, vừa là cái
phần tĩnh của dân tộc vừa là cái phần động của xã hội, vừa là kết quả của tích luỹ
và kế thừa vừa là kết quả của sáng tạo và giao lưu, vừa là cái truyền thống vừa là
cái hiện đại, vừa là cái bảo tồn vừa là cái phát triển. Ai đó đã nói: văn hóa là cái
còn lại sau khi tất cả đã quên đi, là cái còn thiếu sau khi đã biết tất cả. Cái còn lại
là cái ổn định, cái còn thiếu là cái đang vận động. Cái ổn định và cái vận động
tương tác và chuyển hóa cho nhau.
Quan niệm trên đặt ra yêu cầu về quản lý phát triển văn hóa. Quản lý phát
triển văn hoá là một bộ phận của quản lí phát triển xã hội. Đây một yêu cầu có tính
khách quan của đời sống. Quản lí văn hóa (theo nghĩa hẹp) là quản lí cái phần tĩnh,
bề nổi còn quản lí phát triển văn hóa là quản lí cái phần động, phần chìm, cái phần
nảy sinh, tương tác trong sự vận động của đời sống văn hoá. Nếu xem xét văn hóa
là tổng thể những giá trị mà con người đã sáng tạo và tích luỹ trong quá trình hoạt
động thực tiễn nhằm cải biến tự nhiên, xã hội và bản thân thì quản lí phát triển văn
hoá mới là chức năng đích thực của quản lí văn hoá (theo nghĩa rộng).
Quản lí văn hóa về thực chất là sự tác động vào quá trình hình thành và vận
động của hệ giá trị theo những mục tiêu định sẵn. Hệ giá trị vốn ổn định nhưng
vẫn có sự chuyển đổi dưới tác động của không gian, thời gian và chủ thể. Nói cách
khác, văn hóa luôn vận động và biến đổi, nên quản lí văn hóa chính là quản lí cái
phần động, biến đổi ấy: quản lí phát triển văn hoá. Thiếu quản lí phát triển văn hóa
sẽ không thể dự báo và định hình chính sách; hoạt động của bộ máy nhà nước trên
lĩnh vực này sẽ bị động, không phát huy đầy đủ tác động của văn hóa đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội. Quản lí phát triển văn hoá kém hiệu quả sẽ ảnh hưởng
đến sự phát triển bền vững.
Xã hội chúng ta hiện nay thuộc loại hình "chuyển biến xã hội" (social
transformation). Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tác động của xu thế
toàn cầu hoá, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đưa đến sự chuyển đổi sâu sắc
của hệ giá trị. Những giá trị mới đang hình thành đan xen với những giá trị cũ,
những giá trị tốt đẹp đang phát huy ảnh hưởng tích cực bên cạnh cái phản giá trị
đang tác động tiêu cực đến đời sống. Thế giới "phẳng" đã dần tạo nên một không
gian đa văn hóa tác động nhiều chiều vào nền văn hóa dân tộc với tất cả sự phức
tạp của nó. Bên cạnh những thành tựu, những mặt hạn chế trong xây dựng và phát
triển văn hoá đang bộc lộ. Trên bình diện vĩ mô, xung đột giữa cái kinh tế và cái
văn hóa đang hiện ra dần: tham nhũng tràn lan, ô nhiễm môi sinh đến mức báo
động, phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, ma tuý và mại dâm phát triển
v.v… Ở bình diện vi mô, trong từng lĩnh vực xã hội, cái xấu đang bùng nổ. Chưa
bao giờ chúng ta nói nhiều và nói đúng về vai trò của văn hoá như hiện nay nhưng
cũng chưa bao giờ văn hóa cộng đồng lại bộc lộ những yếu kém, sa sút như hiện
nay. Đạo đức học đường, y tế xuống cấp. Con đánh mẹ, người giữ trẻ đánh đập trẻ,
thầy giáo thì mua trinh / cưỡng hiếp / làm tiền học trò, sinh viên tạt axit thầy giáo,
cán bộ nhũng nhiễu người dân, người tham quan lễ hội hoa thì cướp hoa, bóng đá
chuyên nghiệp trở nên "xấu xí", hiện tượng buôn thần bán thánh diễn ra nhan nhản
ở các lễ hội v.v… Có điều gì đó bất ổn trong trạng thái đạo đức, lối sống của xã
hội. "Cơ chế" kinh tế của xã hội đang hồi bùng phát nên "chiếc áo" văn hóa bỗng
trở nên chật chội không che kín được và làm đẹp được cho nó.
Đồng hành với phát triển là phản phát triển. Nếu như suy thoái là sự đi
xuống, suy yếu, sự vận động ngược chiều với phát triển thì thuật ngữ phản phát
triển (còn được gọi là "phát triển xấu") nhằm để chỉ những xung lực kìm hãm hoặc
làm chệch hướng quá trình phát triển. Phản phát triển có khi mang gương mặt của
cái cấp tiến, của cái mới nhưng lại chưa đựng mầm mống của suy thoái. Có thể dễ
dàng nhận ra sự suy thoái nhưng với phản phát triển thì không đơn giản. Vì vậy,
nếu nhìn quản lí văn hóa ở trạng thái tĩnh, sẽ khó nhận ra sự tồn tại của phản phát
triển. Vì sao mức sống nâng lên mà chất lượng sống thì suy giảm? Vì sao học
thêm - dạy thêm tràn lan, các phương tiện thông tin ngày càng phát triển nhưng
trình độ của học sinh ngày càng kém đi? Vì sao chúng ta mong muốn có những
trường đại học tầm cỡ khu vực nhưng lại có vụ "đẻ non" trường đại học từ cơ quan
quản lí nhà nước về giáo dục - đào tạo? Vì sao chúng ta đặt vấn đề xây dựng một
"xã hội văn hóa cao", "lối sống có văn hóa" từ những năm 60 của thế kỉ trước mà
hơn nửa thế kỉ rồi vẫn còn là một xã hội văn hóa chưa cao? Cái phản giá trị đang
ẩn mình trong gương mặt của cái giá trị và gây ra ngộ nhận. Để nhận diện và giải
quyết vấn đề, cần phải đặt chúng vào trong quá trình phát triển.
Văn hóa như một cơ thể sống. Nhìn từ góc độ hoạt động, có thể xem văn
hóa là quá trình sản xuất, bảo quản, phân phối và tiêu dùng giá trị. Các công đoạn
này thống nhất với nhau trong một chỉnh thể hữu cơ, một yếu tố khập khiễng sẽ
đưa đến tình trạng khập khiễng của toàn hệ thống; các giá trị văn hoá bị "tắc
nghẽn" trên chu trình vận hành của nó. Không có sản xuất thì không có tiêu dùng
và ngược lại. Bảo quản và phân phối kết nối sản xuất với tiêu dùng. Tiêu dùng
hoàn tất mục tiêu của sản xuất. Nếu chỉ nhìn văn hoá ở trạng thái tĩnh, nghĩa là
mới nhìn vào sản xuất và bảo quản, đó chỉ mới là một nửa của đời sống văn hóa; ở
đó, giá trị văn hóa mới chỉ đi một nửa hành trình chức năng của mình, chỉ mới
thấy văn hoá là sản phẩm của con người. Thiếu phân phối và tiêu dùng, khát vọng
chân - thiện - mỹ của con người được cố định hoá trong các sản phẩm văn hóa và
chỉ tồn tại ở thế khả năng, nghĩa là chỉ là những khát vọng. Phân phối và tiêu dùng
sẽ hiện thực hóa các giá trị văn hoá, đặt chúng vào sự vận hành của đời sống, đảm
bảo lưu thông văn hoá thông suốt, đảm bảo quá trình phát triển văn hoá. Phân phối
và tiêu dùng mới là nơi chân - thiện - mĩ vận động và phát huy tác dụng. Không có
phân phối và tiêu dùng, sản xuất và bảo quản tự mình sẽ đình trệ. Đây là điều mà
C.Mác từng viết trong Lời nói đầu Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị:
"không có tiêu dùng thì cũng chẳng có sản xuất, vì trong trường hợp đó, sản xuất
sẽ không có mục đích", "Chỉ có trong tiêu dùng, sản phẩm mới thực sự trở thành
sản phẩm". Chú ý đến phân phối và tiêu dùng nghĩa là đã đặt văn hoá vào vai trò
chủ thể: văn hoá sáng tạo ra con người, con người là sản phẩm của văn hóa.
"Trong sản xuất, con người được khách thể hóa, trong tiêu dùng thì đồ vật được
vật thể hóa". Văn hoá, theo cách hiểu của người Trung Hoa (biến đổi để đẹp) hay
của phương Tây (cultus: chăm sóc, vun trồng) đều hàm nghĩa sự tác động. Không
có tiêu dùng nghĩa là không có tác động. Tính tích cực của văn hóa nằm ở tiêu
dùng. Số phận của văn hóa nằm ở tiêu dùng chứ không phải ở sản xuất như C.Mác
từng nói về vai trò của thực tiễn: "Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lí, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư
duy của mình".
Trong quản lí văn học nghệ thuật, nếu không chú ý đến phân phối và tiêu
dùng sẽ không thể lí giải được sự vận động của đời sống nghệ thuật. Chính ở khâu
tiếp nhận của công chúng, đời sống nghệ thuật mới thật sự vận hành, tác phẩm
mới đến được đích của nó, mới có đời sống tích cực. Từ giữa thế kỉ trước, các nhà
nghiên cứu thuộc trường phái Konstanz (Cộng hoà Liên bang Đức) đã quan niệm
tác phẩm văn học là kết quả của hai quá trình: sản xuất và tiêu thụ tác phẩm văn
học là: văn bản + sự tiếp nhận của công chúng. Sự phát triển của dòng âm nhạc
với ca từ dễ dãi chắc chắn có một lí do từ phía thị trường, từ phía công chúng. Sự
ồn ào của thứ văn chương khai thác bản năng tính dục của nhân vật nữ (người
Trung Quốc gọi là văn chương linh hoạt), không thể không có lí do từ sự ồn ào
tung hứng của các cây bút phê bình và công chúng. Từ thực tế này, quản lí văn học
nghệ thuật không chỉ chú ý đến hoạt động sáng tác mà còn phải quan tâm tác động
đến cả công chúng và sự tiếp nhận của họ với mọi chiều cạnh phức tạp của đời
sống: quản lí cái phần động của văn học nghệ thuật, quản lí sự phát triển của văn
hóa nghệ thuật. Nhận thức này sẽ khắc phục việc xem xét nghệ thuật chỉ dưới hình
thức khách thể, trực quan, mà cần xem xét nghệ thuật như một hoạt động chủ quan,
thực tiễn của con người, như ý kiến của C.Mác về chủ nghĩa duy vật Phoi-ơ-bách:
"Khuyết điểm chủ yếu từ trước đến nay, của mọi chủ nghĩa duy vật (kể cả chủ
nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bách) là sự vật, hiện thực, cái có thể cảm giác được, chỉ
được nhận dươí hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được
nhận thức như là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn; không được nhận
thức về mặt chủ quan.
Bảo tồn là giữ gìn, là đặt các giá trị văn hóa vào thế ổn định. Tuy nhiên, bảo
quản không hoàn toàn là cái phần tĩnh của văn hóa. Vấn đề là bảo quản như thế
nào. Trong bảo quản đã hàm chứa sự tiếp nhận, sự vận động thông qua cách thức
bảo quản. Xin nêu vài còn số tính đến tháng 4/2009: 1/3 số diện tích lịch sử và văn
hoá ở Tp. Hồ Chí Minh bị xâm hại, Hà Nội có 300 di tích bị lấn chiếm, Hà Tây
(nay đã sáp nhập vào Hà Nội) để mất đến 298 cổ vật ở 40 di tích , tỉnh Phú Thọ
mất 33 cổ vật ở 4 di tích… Trong khi đó, cơ quan quản lý nhà nước về di tích chỉ
biết về một số những vụ việc sau khi đọc báo! Không còn di tích, truyền thống dân
tộc không còn thể xác nương tựa, phải sống vật vờ trong kí ức cộng đồng và trong
sự bàng quan của giới trẻ.
Ngày nay, sự lên ngôi của văn học mạng đang đặt trách nhiệm của các nhà
quản lí trước nhiều thách thức hơn. Thế giới mạng là thế giới ảo, trong đó, những
mối quan hệ trở nên lung linh; cái xấu, cái giá ẩn mình, len lỏi và chực chờ khắp
không gian mạng. Không gian mạng khiến cá nhân cảm thấy như vượt ra khỏi sự
kiểm soát của pháp luật, thậm chí của đạo đức. Trong điều kiện ấy, cái phản giá trị
vận hành bình đẳng với cái gái trị một cách tự do, ít sự kiểm soát nhất. Cái xấu có
thể liên kết nhau tạo thành một mặt trận. Không gian tồn tại của chúng là ảo nhưng
tác động thì không ảo chút nào. Văn học mạng là ví dụ rõ nhất về cái phần động
của văn hóa.
Chúng ta đang nói nhiều về phát triển bền vững. Thuật ngữ phát triển bền
vững là kết quả của sự nhận thức về những nghịch lí trong phát triển: sự không
tương thích giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, công nghiệp hoá và bảo
vệ môi sinh v.v… Phát triển văn hóa cũng có những nghịch lí nội tại trong các cặp
đối xứng: kế thừa và giao lưu, truyền thống và hiện đại, bảo tồn và phát huy, giữ
gìn bản sắc và hội nhập quốc tế v.v… Bảo tồn một khu rừng trong điều kiện luật
pháp không nghiêm như hiện nay đã khó, bảo tồn một giá trị văn hoá trước vô vàn
những tác động phi dân tộc lại càng khó hơn. Lấy tiếng Việt làm ví dụ. Tiếng mẹ
đẻ đang gặp nhiều thử thách, có tờ báo gọi là "cưỡng bức". Tình hình có thể đã
diễn ra khi văn hóa Việt Nam tiếp xúc với văn hóa Hán đầu công nguyên, với văn
minh Pháp đầu thế kỷ XX. Trong bối cảnh hiện nay, những phương tiện thông tin
hiện đại đã khiến vấn đề phức tạp hơn nhiều. Thứ tiếng Việt nửa ta nửa Tây trở
thành ngôn ngữ giao tiếp của các cộng đồng mạng, của sáng tác âm nhạc và văn
học. Đối với lớp trẻ, tiếng Việt như bộ đồng phục của người nhà quê, nghèo nàn,
tội nghiệp; nó không đủ từ vựng để chuyển tải sự lịch lãm và sang trọng của giới
"sành điệu". Toàn cầu hoá khiến không gian văn hoá dân tộc trở thành chiếc ao
làng tù đọng. Nước ngoài trở thành một giá trị định hướng. Học ở nước ngoài, làm
cho nước ngoài, hưởng lương nước ngoài, đi nước ngoài, tên nước ngoài v.v… và
cả nói tiếng nước ngoài. Mốt lấy chồng nước ngoài thay cho sự kì thị của nhiều
năm trước đây. Một số ca sĩ "chêm" tiếng nước vào nghệ danh. Bài hát tiếng Việt
cũng có chữ nước ngoài. Hiện nay, ngày càng nhiều du học sinh Việt Nam chọn
Mỹ và các nước châu Âu làm điểm đến. Rồi sẽ đến lúc chuyển giao trách nhiệm và
quyền lực lãnh đạo đất nước từ thế hệ học tập ở Liên Xô và các nước Đông Âu
vào tay thế hệ học tập ở Mỹ và các nước Tây Âu. Sự chuyển giao về văn hóa có
thể sẽ là khởi điểm cho chuyển giao chính trị. Những trường học quốc tế mở ra
cho lứa tuổi dưới 18 chắc chắn không tạo ra mô hình nhân cách như chúng ta
mong muốn và lộ trình phát triển của mô hình nhân cách ấy thật khó hình dung.
Nhiều người coi việc trẻ em du học hay học ở các trường quốc tế (cũng là một
kiểu du học tại chỗ) như một thứ tị nạn: tị nạn giáo dục, tị nạn văn hóa! Cách nói
này có thể là sự tố cáo tính chất đày ải học sinh của chương trình giáo dục phổ
thông hiện nay, cũng có thể phản ánh sự xung đột dữ dội về mô hình nhân cách
của nền giáo dục nước ta và giáo dục của các nước, dĩ nhiên là các nước tư bản.
Thay đổi nội dung giáo dục đưa đến thay đổi sản phẩm của giáo dục, thay đổi sản
phẩm giáo dục là mầm mống của việc thay đổi một chế độ xã hội. Xâm lăng quân
sự thì bị lên án và chống trả nhưng xâm lăng kinh tế và văn hóa lại tạo ra sự
ngưỡng mộ và bắt chước. Như vậy, giao lưu văn hóa, hiện đại hoá, phát huy di sản,
hội nhập quốc tế là để phát triển nhưng cũng giống như công nghiệp hóa, chúng có
thể huỷ hoại những cánh rừng văn hoá nguyên sinh hàng nghìn đời nay của dân
tộc, tạo ra những sa mạc mênh mông của sự mất gốc, lai căng. Như vậy, phát triển
văn hoá cũng phải đảm bảo tính bền vững. Phát triển văn hóa bền vững là sự phát
triển cân đối giữa kế thừa và giao lưu, truyền thống và hiện đại, bảo tồn và phát
huy, giữ gìn bản sắc và hội nhập quốc tế. Nếu thế hệ cha ông đối xử bất công với
di sản quá khứ thì người trả giá là thế hệ con cháu. Bền vững nghĩa là hướng tới
tương lai, hành động cho tương lai. Hướng tới tương lai nên không thể nhìn sự vật,
hiện tượng trong trạng thái tĩnh.
Văn hoá có tính lan toả. Phản văn hoá cũng vậy. Lí thuyết ô kính vỡ cho
thấy điều này, nó phản ánh tính động của văn hóa. Nếu một ô cửa kính vỡ mà
không được sửa kịp thời, mọi người sẽ thấy đấy là bình thường và đó là mầm
mống của những ô kính vỡ tiếp theo. Điều này dường như tuyệt đối đúng với
chuyện đổ rác, phóng uế, họp chợ chiếm lòng lề đường, tham nhũng, xâm hại di
tích và rất nhiều tiêu cực khác. Một mẩu rác không được dọn kịp thời có thể biến
thành đống rác. Thật lạ lùng khi nhiều hành vi phản văn hoá giống nhau nảy sinh
mang tính dây chuyền mặc dù công luận đang lên án gắt gao: hàng loạt vụ làm
nhục học sinh đến mức các em bị sang chấn tâm lí xảy ra liên tiếp.
Như vậy, xây dựng và phát triển văn hoá, kế thừa truyền thống và giao lưu
quốc tế, giữ gìn bẳn sắc dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại v.v… tất cả
đều vận hành trong một hệ thống động và mở, trong một không gian đa bản sắc.
Quản lí văn hoá thực chất là quản lí phát triển văn hóa, giải quyết quan hệ của các
cặp tương tác: cái kinh tế và cái văn hóa, phát triển và phản phát triển, giá trị và
phản giá trị, truyền thống và hiện đại, sản xuất và tiêu dùng văn hóa, v.v… Quản lí
phát triển văn hóa là nhìn văn hóa trong trạng thái động, lấy đời sống văn hoá
cùng với sự vận hành của giá trị văn hóa là đối tượng quản lí, hướng đến mục tiêu
cao nhất là phát triển con người. Quản lí phát triển văn hóa yếu kém sẽ đưa đến
những phức tạp cho việc quản lí phát triển xã hội nói chung. Chệch hướng trong
phát triển văn hóa nhiều hệ luỵ hơn, khó khắc phục hơn và thời gian khắc phục lâu
hơn chệch hướng phát triển kinh tế. Ở nước ta, đô thị hóa đang bùng phát, nếu chỉ
đặt vấn đề quản lí đô thị chứ không phải là quản lí phát triển đô thị, chúng ta sẽ
còn phải chạy đuổi theo việc giải quyết những hệ luỵ của phát triển đô thị.
Quản lý phát triển xã hội nói chung và phát triển văn hóa nói riêng đã được
chú trọng ngay ở các nước trong khu vực cách đây 3-4 thập kỷ. Philippines có Bộ
Dịch vụ và Phát triển xã hội. Singapore có Bộ Phát triển cộng đồng, du lịch và
thanh niên. Singapore nổi tiếng như một thành phố đẹp và trật tự là vì vào thập kỷ
1970 họ đã mời chuyên gia phát triển cộng đồng từ Israel đến tập huấn cho cán bộ
phát triển đô thị từ khu phố trở lên về phương pháp giáo dục và tổ chức người dân
để họ tự ý thức và tự quản. Ở Việt Nam, quản lí phát triển văn hóa không phải là
điều mới nhưng đặt vấn đề một cách trực tiếp và trở thành ý thức trong các cơ
quan quản lí nhà nước về văn hoá thì dường như chưa thật rõ. Quản lí phát triển
văn hóa là một cách thức quản lí phát triển xã hội - một hướng nghiên cứu cần
được quan tâm.