Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

TRIẾT HỌC LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.65 KB, 14 trang )

TRIẾT HỌC LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
Ioanna Kucuradi
Chủ tịch Hội nhân quyền Thổ Nhĩ Kỳ,
Nguyên Chủ tịch Liên đoàn quốc tế các Hội triết
học
Từ góc độ triết học, bài viết đưa ra và luận giải một số vấn đề về phát triển
văn hóa nhằm làm sáng tỏ vấn đề tại sao Liên hợp quốc ra tuyên bố về
Thập niên phát triển văn hóa. Những vấn đề mà bài viết đưa ra và luận giải
là: Khái niệm phát triển, nhất là vấn đề phát triển trong chính sách của các
quốc gia thuộc Liên hợp quốc, những nội dung của "phát triển văn hóa",
tính dân tộc và tính toàn cầu trong các quan niệm về "phát triển văn hóa",
phát triển văn hóa và các chính sách văn hóa. Trong đó, đáng chú ý là
những luận giải của bài viết về các nghĩa của khái niệm "văn hóa".
Bài viết này đưa ra một số vấn đề liên quan đến triết học, được thể hiện ra
qua những nỗ lực thỏa mãn nhu cầu khiến cho Liên hợp quốc phải ra tuyên bố về
Thập niên thế giới phát triển văn hóa
(1)
. Đây là những vấn đề đang tác động trực
tiếp tới thực tiễn.
Khi đặt ra những vấn đề như vậy để các triết gia thế giới giải đáp, bài viết
này mong muốn giúp cho tập sách đã dự định hình thành trên một chỉnh thể và do
vậy, góp phần cống hiến từ góc độ triết học để thực hiện các ý định đã được tuyên
bố về Thập niên này .
Tại sao Liên hợp quốc ra tuyên bố về Thập niên văn hóa này?
Chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời trong các văn kiện của UNESCO được dự
thảo từ đầu thập niên 80 của thế kỷ XX. Khi xem xét những văn kiện sớm của
UNESCO liên quan đến vấn đề Thập niên văn hóa này, chúng ta thấy có đoạn:
"Khái niệm thống trị tư duy kinh tế quốc tế trong những thập niên vừa qua là khái
niệm phát triển, nhưng phát triển bị quy giản một cách căn bản thành các phương
diện kinh tế của sự phát triển, do vậy hình thành nên sự phân biệt đáng phải bàn
luận giữa các nước công nghiệp hóa và các nước đang phát triển, theo các thuật


ngữ kinh tế. Và điều tất yếu diễn ra sau đó là "trong thực tế hiện nay phát triển
không mang ý nghĩa thực, trừ phi nó cho phép các cá nhân và các dân tộc được
sống tốt hơn, trong một sự hài hòa tuyệt đối với những khát vọng tinh thần và đạo
đức của họ và tạo khả năng để nở rộ tất cả mọi sáng tạo của họ. Còn sự thật là phát
triển kinh tế là một đòi hỏi có tính quyết định, đó cũng là điều cần thiết để kinh tế
có mục đích và sự cố kết, mà điều đó chỉ có thể tìm thấy thông qua văn hóa ".
Thông qua cái gì để kinh tế có thể "tìm" được sự cố kết của nó một cách rõ ràng?
Hay, phát triển văn hóa có thể là cái gì khi diễn ra cùng với phát triển kinh tế?
Trong toàn cảnh thế giới trước những năm 80 của thế kỷ XX, liên quan tới
chủ đề của chúng ta, có lẽ rất hữu ích, như là những bước đi đầu tiên, khi đề cập
tới vấn đề này.
Thực tế là, tư tưởng về sự phát triển đã đặt ra một mục tiêu chính cho các
chính sách quốc gia thuộc thành viên của Liên hợp quốc trong những năm 50 của
thế kỷ XX, nhưng được hiểu thuần tuý là phát triển kinh tế. Điều đó không chỉ tỏ
ra thiếu đầy đủ, mà còn tạo ra những điều ngoài mong đợi của chính nó. Tuy nhiên,
về mặt niên đại, lần đầu tiên, dường như đây là vấn đề duy nhất trong những lập
luận chính được nêu ra trong nghị sự quốc tế đòi hỏi về phát triển văn hóa liên tục
cho tới cuối những năm 70 của thế kỷ XX.
Nếu đi ngược lại quá khứ trước đó, cho tới tận lúc bắt đầu thành lập Liên
hợp quốc, chúng ta sẽ thấy rằng, tư tưởng về phát triển của những năm 50 của thế
kỷ XX là do các nước công nghiệp hóa nêu ra, thuộc về văn minh "phương Tây"
và sự tin tưởng vào "tiến bộ". Với các nước có hai đặc trưng - công nghiệp hóa và
phần trăm thu nhập tính theo đầu người, quyết định tiêu chuẩn thuộc về.nhóm "đã
phát triển". Các nước "đã phát triển" này trở thành mô hình cho các nước khác trên
thế giới noi theo. Không nghi ngờ gì nữa, hai tiêu chuẩn trên của các nước phát
triển không cùng nghĩa. Do vậy, một cách sơ bộ, phát triển kinh tế đã tạo nên mục
tiêu chính của các chính sách quốc gia ở hầu hết các nước trên thế giới, mặc dù
mục tiêu đó được hiểu là công nghiệp hóa và nâng cao thu nhập tính theo đầu
người ở các nước được gọi là các nước đang phát triển và là nâng cao vô hạn sản
xuất công nghiệp ở các nước được gọi là các nước phát triển.

Sản xuất công nghiệp vô hạn đi liền với hậu quả phân cực chính trị trong
các nước "phát triển", rồi lại tự dẫn tới bế tắc khi sản sinh ra những kết quả không
mong muốn của riêng nó, đó là sự cạn kiệt không thể hồi phục lại của các nguồn
tài nguyên thiên nhiên, sự ô nhiễm và những hậu quả tương tự, đã tạo nên một bộ
phận của cái gọi là các vấn đề thế giới hay các vấn đề toàn cẩu hôm nay. Những
hậu quả này, ngược với ý định và những vọng, từ việc coi phát triển như là mục
tiêu chính đối với các chính sách xã hội, đã đi đến chỗ khiến cho người phương
Tây bắt đầu cảm thấy muốn đưa ra "một chiều kích văn hóa của sự phát triển", hay
"một quan niệm mới về phát triển". Do vậy, đòi hỏi đối với "phát triển văn hoá" đã
được giới thiệu trong các diễn đàn tranh luận có liên quan.
Điều quan trọng ở đây là không được đánh mất sự thật rằng, ý tưởng đưa ra
một chiều kích văn hóa của sự phát triển như một con đường khả thi để phá tan sự
bế tắc này, để tìm cho ra cội nguồn của nó theo nhu cầu mà thế giới công nghiệp
hóa (phương Tây) cảm thấy.
Vẫn còn một lý do quan trọng khác góp phần đưa ra vấn đề phát triển văn
hóa trên các tranh luận quốc tế, mặc dù điều đó dường như không có nghĩa là
nguồn gốc chính của nó. Đó là, lúc đó, rất nhiều nước thuộc thế giới thứ ba, vừa
giành được độc lập không lâu đã bắt đầu nổi dậy chống lại thực dân hóa ý thức và
tham gia vào phong trào "phát triển văn hóa", mặc dù họ mới nêu ra trên diễn đàn
này câu hỏi về phát triển "bản sắc văn hóa". Mặt khác, vấn đề "văn hóa" được đặt
ra trong mối liên hệ với vấn đề về sự phát triển đã dẫn tới việc giải thích cho sự
thất bại của các chính sách phát triển được thực hiện ở các nước đó bằng "viện trợ
nước ngoài", giống như sự thất bại vì không tính đến văn hóa hay các giá trị văn
hóa đang phổ biến ở các nước thuộc thế giới thứ ba. Như là hệ quả của sự giải
thích này, khái niệm sự phát triển bản địa - tức là chính sách về sự phát triển có
chú ý tới văn hóa hay các giá trị văn hóa đang phổ biến ở các nước này - đã được
nêu ra.
Do vậy, trong những năm đầu của thập niên 80 của thế kỷ XX, chúng ta
thấy vấn đề văn hóa và đòi hỏi "phát triển văn hóa" được đem ra diễn đàn của
cộng đồng quốc tế theo hai phương diện khác nhau và cũng vì hai nhu cầu khác

nhau. Các đòi hỏi về phát triển văn hóa có yêu cầu cùng một thứ không? Đây là
một vấn đề cốt yếu, vì nó quan hệ trực tiếp tới thực tiễn. Vấn đề đó cốt yếu tới
mức nào, có thể xem xét từ những cái diễn ra sau đó trong những năm 80 không?
Đó là vấn đề tại sao việc khảo sát từ tầm nhìn triết học một cách kỹ lưỡng
thuật ngữ "phát triển văn hóa" chú ý vào vấn đề được thể hiện trong các bản thảo
văn kiện khác nhau liên quan tới Thập niên thế giới phát triển văn hóa, cũng như
tới những gì có liên quan mà đến nay, còn chưa rõ nghĩa, đồng thời, với tầm nhìn
của một tư tưởng hợp lý có trí tuệ vượt trước về phát triển văn hóa đang tỏ ra là tất
yếu đã chứng tỏ rằng, chúng ta mong sẽ tránh được việc phát triển văn hóa gây ra
hậu quả riêng của nó, như là chuyện đã xảy ra đối với phát triển.
Khái niệm "phát triển văn hoá"
Tư tưởng "phát triển văn hóa" được đưa ra như một quan niệm mới về phát
triển. Thực ra, hiện giờ, điều gì đang mong đợi, để phát triển hay bị phát triển? Và
điều đó có nghĩa gì đối với sự phát triển? Ngay khi đặt ra câu hỏi này, chúng ta sẽ
thấy một điểm khởi đầu khả thi cho nghiên cứu kỹ lưỡng, cho việc gắn kết với vấn
đề của chúng ta là các văn kiện liên quan tới "phát triển văn hoá", giống như lập
trường khả thi kiểu Ácsimét (Archimedean), nhằm khái niệm hóa ý tưởng phát
triển văn hóa theo cách tư tưởng hợp lý có trí tuệ, người thông báo về "sự phát
triển" đó.
Khi đọc các văn kiện có liên quan, tâm niệm với thắc mắc của người thông
báo về sự phát triển có liên quan tới "phát triển văn hóa", chúng ta sẽ thấy được sự
khác biệt và những câu hỏi không phải là không thể nhất trí. Có một sự nhầm lẫn
liên quan tới thuật ngữ "văn hóa" thể hiện qua sự thật này - một sự nhầm lẫn chắc
chắn gây tác động, đã ảnh hưởng tới các nỗ lực tổ chức để lên kế hoạch cho các
hoạt động của Thập niên phát triển văn hoá. Xin nêu ra một ví dụ về sự nhầm lẫn
này trong những văn kiện kể trên. Ở văn kiện này, trong bơn mục tiêu dự định cho
Thập niên được đề cập tới, có một định nghĩa về "văn hoá" là "tất cả các đặc trưng
rõ ràng - tinh thần và vật chất, trí tuệ và tình cảm - của một xã hội hay một nhóm
xã hội" (phần 5), và những đoạn phân tích chi tiết hơn như sau: "Tất cả, cái sống
động đó là văn hoá, tức là nói về con người, có thể được coi là trung tâm của bất

kỳ tiếp cận nào về vấn đề phát triển" (phần 8). Tựu trung lại, định nghĩa đó và sự
giải thích này về "văn hóa" làm cho ta dễ dàng thấy rằng, khái niệm này không chỉ
đúng cùng nghĩa đó, cũng không cùng đối tượng đó. Dù chúng là gì thì chúng ta
cũng không thể xem chúng như nghĩa "truyền thống" hay nghĩa "bổ sung" của nó,
như là nó được cho là vậy.
Khi đọc kỹ lưỡng các văn kiện có liên quan thì có thể, rốt cuộc, chúng ta
cũng phân biệt được hai nghĩa chính của "văn hóa". Nghĩa đầu tiên của "văn hóa",
tức là nghĩa truyền thống, để chỉ cái có thể chuyển thành ngôn ngữ như là "tổng
thể của các hoạt động của con người được coi là đem đến cho con người cá nhân
khả năng để trau dồi - để hiện thực hóa và "phát triển các tiềm năng con người của
họ
"(2)
. Đây là tư tưởng về văn hóa (cultural animi) đã thấm sâu vào tư duy phương
Tây từ đầu kỷ nguyên của chúng ta cho tới khi các hoạt động của con người tưởng
rằng như vậy, không chỉ khác giữa văn hóa này với văn hóa khác, mà còn bộc lộ
sự thay đổi trong quá trình tiến hóa của một hay của chính một nền văn hóa.
Tuy nhiên, cái "văn hóa" theo nghĩa thứ hai dường như không chỉ những
hoạt động đó. Cách khả thi để tìm ra cái ý nghĩa có thể có của "văn hóa" này là so
sánh cái đặc thù làm nên văn hóa lịch sử của nền văn hóa này với nền văn hóa
khác, chẳng hạn văn hóa Hy Lạp, văn hóa Muslim, văn hóa Châu Âu, văn hóa
Nhật Bản, v.v Khi làm được bước này thì có thể nói "văn hóa" như là "quan niệm
của con người và các quan điểm liên quan tới cái có giá trị, thịnh hành trong một
thời gian dài hoặc ngắn trong một nhóm người, mà giới hạn của họ có thể được
phác hoạ rõ ràng qua quan điểm của họ, và quan điểm đó quy định lối sống của
nhóm người này các cách thể hiện lối sống đó"
(3)
(những thái độ trong cuộc sống
hàng ngày, trong các hoạt động chính trị và xã hội, các thể chế chính trị và xã hội
và các chức năng của chúng, cũng như các tư tưởng hiện đại trong nghệ thuật, văn
học, kiểu cách diễn đạt của ngôn ngữ…). Đây là những quan niệm sống động, tự

nhiên, hoàn toàn vô ý thức mãi cho tới khi chúng trở thành đối tượng nghiên cứu
của khoa học. Đây là một nghĩa của "văn hóa" nhắc chúng ta nhớ tới Volksgeist
của Herderian hay Hegelian
(4)
.
Khi đã đạt được sự phân định về khái niệm như vậy, một cách tự nhiên, sẽ
phải đặt tiếp câu hỏi: cái "văn hoá" nào trong nội dung "phát triển văn hoá" ấy
đáng được phát triển? Và, khi hiểu rõ ảnh hưởng tích cực và tiêu cực qua lại của
chúng, đặc biệt là khi đã có những quan niệm về con người và về cái gì là giá trị,
chúng được lấy ra từ các thành viên của các nhóm đã cho họ khả năng phát triển
một số tiềm năng người của họ, thì liệu có thể trả lời câu hỏi thứ nhất bằng cách
nói giản đơn là "cả hai" được không?
Đó chính là những lý do tại sao tư tưởng về "phát triển văn hoá" đã được khái
niệm hóa một cách triết học. Câu hỏi "thực tế, đòi hỏi nào đối với phát triển văn
hóa có thể được yêu cầu?" vẫn tỏ ra cần một câu trả lời hợp lý, có trí tuệ.
Phát triển văn hóa và câu hỏi về mục đích
Lúc đầu, "phát triển văn hoá" được đặt ra trong sự liên quan với phát triển
kinh tế như là mục tiêu chính của các chính sách quốc gia của các nước công
nghiệp hóa và được hiểu như là vấn đề tăng tối đa sản phẩm công nghiệp, trong
khi đòi hỏi đối với các nước đang phát triển lại là "bản sắc văn hóa riêng" do các
nước thế giới thứ ba đặt ra theo hướng liên quan hoàn toàn khác, cho nhu cầu khác,
đã không được nêu ra nhờ có sự chú ý tới nó cho tới tận bây giờ.
Do vậy, các mục tiêu chính của Thập niên thêm giới phát triển văn hóa đã
được xác định từ đầu thập niên 80 của thế kỷ XX - chẳng hạn, sự "thừa nhận chiều
cạnh văn hóa của phát triển, khẳng định và làm phong phú các bản sắc văn hoá,
mở rộng cơ hội tiếp cận và tham gia vào văn hoá, tăng cường hợp tác quốc tế văn
hóa" phản ánh một nỗ lực dàn xếp những nhu cầu hay những đòi hỏi khác nhau.
Đòi hỏi "phát triển văn hóa" được đặt ra bởi người dân các nước công
nghiệp hóa, thể hiện thành sự phản đối nhằm chống lại phát triển kinh tế như là
mục tiêu chính trong chính sách quốc gia của họ, đó là đòi hỏi để từ bỏ việc chú

trọng sản xuất công nghiệp ngày càng rộng lớn hơn như là mục tiêu của chính nó -
từ bỏ nguyên tắc "càng lớn càng tốt" - và coi tư tưởng phát triển với "nguyên tắc
lấy văn hóa làm tối hậu" như mục đích của chính sách quốc gia. Đó chính là yêu
cầu đưa cho "văn hóa" hay cho các hoạt động của con người cái để tạo ra các cá
nhân với các khả năng để phát triển tiềm năng con người của họ nhờ vào vị trí
trong kế hoạch hóa xã hội.
Đòi hỏi này dường như bắt đầu từ việc nhận ra tiếng vọng trong thập niên
trước. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét những thay đổi đã xảy ra trong thập niên
vừa qua trên khắp thế giới, đặc biệt là ở các nước Đông Âu và thế giới Hồi giáo,
thì một sự tái phát triển triết học (philosophical re-evolution) về hoạt động của con
người đang xuất hiện là cần thiết. Câu hỏi "hoạt động người nào trong các hoạt
động văn hóa cho thấy, chỉ ra trong thực tế, các cá nhân với các khả năng phát
triển tiềm năng con người của họ" đang khẩn thiết đòi hỏi một câu trả lời có trí tuệ.
Yêu cầu vì sự "phát triển văn hóa" mà các nước thế giới thứ ba đặt ra đã thể
hiện sự chống lại "thực dân hóa ý thức" của "phương Tây" hay của "văn hóa
phương Tây". Và, chính nhờ yêu cầu đó mà họ được phép - của người phương Tây
- để phát triển văn hóa của riêng mình, tức là phát triển "bản sắc văn hóa" của họ.
Đòi hỏi này cũng được coi là một mục tiêu của Thập niên thế giới phát triển văn
hóa.
Khuynh hướng gán cho phát triển văn hóa nội dung thứ hai này đã có cơ sở
trong mười năm vừa qua, nhưng vẫn thiếu một sự nghiên cứu kỹ lưỡng về câu hỏi
"bản sắc văn hóa là gì?" và "cái gì có thể phát triển ý nghĩa văn hóa riêng?". Giờ
đây, đầu thập niên 90, vấn đề "bản sắc văn hóa đã trở thành một trong những chủ
đề nóng bỏng ở các nước thế giới thứ ba. Ở các nước có quan hệ với các "nền văn
hóa phương Tây" qua sự thực dân hóa, nhưng hiện giờ đã giành được độc lập, việc
nghiên cứu về bản sắc tỏ ra là một nỗ lực để tìm kiếm văn hóa riêng của họ trước
khi bị thực dân đô hộ. Còn ở các nước tự định hướng theo "phương Tây" bởi ý
nguyện của chính họ, chẳng hạn ở các nước mà phong trào hiện đại hóa phát động
từ những thời kỳ khác nhau và vẫn đang tiếp tục hiện đại hoá, chúng ta lại thấy
những cố gắng khôi phục hay làm sống lại văn hóa của họ, tức là quan niệm về

con người và các quan niệm về cái gì là giá trị, thịnh hành - hay được cho là thịnh
hành - trước khi họ hướng theo hay đương đầu với phương Tây.
Khi đối diện với bối cảnh toàn cầu này, câu hỏi tiếp theo nảy ra trong suy
nghĩ là: liệu có thể nghĩ rằng, một mục tiêu của các chính sách quốc tế và quốc gia,
cái có thể, có lẽ đáp ứng được các nhu cầu khác nhau đã đặt ra trước những đòi hỏi
khác nhau thể hiện bằng phát triển văn hóa không? Đây dường như cũng là câu hỏi
quan trọng, khi không thể thiếu mục tiêu chung đó, khi các cản trở văn hóa thay
thế các cản trở chính trị của thế giới hiện nay đang đột nhiên có xu hướng trở nên
ngày càng không rõ ràng.
Câu hỏi này cũng quan trọng, vì nó đặt ra đúng vấn đề tư tưởng về phát
triển - tồn tại với hay không với "chiều cạnh văn hoá" - như là mục tiêu chính của
các chính sách quốc tế và quốc gia. Cho đến nay, nhu cầu "đưa ra khái niệm mới
về phát triển" đã được thể hiện. Và, các nỗ lực để đưa ra những khái niệm mới như
vậy, trong đó có khái niệm cuối cùng đang được đưa ra là "phát triển bền vững",
cũng đã được thể hiện.
Vẫn còn một điểm nữa gây sự chú ý của chúng ta khi đọc các văn kiện có
liên quan và theo dõi các cuộc tranh luận xung quanh vấn đề phát triển và phát
triển văn hóa - điểm ghi nhận câu hỏi về người chịu đựng sự phát triển. Đó là sự
thiếu hụt mối liên quan trọng yếu giữa phát triển văn hóa và quyền con người.
Trên thực tế, ở đây đó chúng ta thường gặp những cách diễn đạt "quyền văn hóa",
"quyền đối với văn hóa", "quyền đối với phát triển" được đưa ra như là các
quyền của con người, mặc dù chúng vẫn còn chưa được rõ ràng như là "phát triển
văn hóa".
Ý định quan trọng nhất của cộng đồng quốc tế khi tuyên bố Thập niên thêm
giới phát triển văn hóa là nhắc nhở chúng ta về "con người như là mục đích của sự
phát triển", nhìn từ sự sáng tỏ rõ ràng các khái niệm để đưa ra các câu hỏi sau:
Liệu có thể tìm ra không phải một kiểu diễn đạt, mà là một môi liên hệ trọng yếu
giữa những khát vọng đã nêu ra đòi hỏi về phát triển văn hóa - dù theo nghĩa nào -
và nhân quyền?
Các quan niệm về "phát triển văn hóa" - dân tộc và toàn cầu

Đã có nhiều quan niệm khác nhau liên quan đến "phát triển văn hóa" theo
nghĩa "phát triển bản sắc văn hóa riêng". Tuy nhiên, giữa các quan niệm đó cũng
có một số yếu tố chung.
Các nền văn hóa phương Tây và Châu Âu với tư cách các nền văn hóa hiện
đang tạo nên bản "đối chiếu" chung cho tất cả các nền văn hóa khác là cái gì? Vấn
đề này đã được nêu thành câu hỏi khi chúng ta chứng kiến cái gọi là các giới phi -
phương Tây "khủng hoảng bản sắc" xảy ra cùng lúc với sự kiện ở phương Tây
được gọi là "khủng hoảng giá trị". Người phương Tây nghĩ rằng, hiện giờ, họ
không còn biết "giá trị" của họ là cái gì nữa. Trong khi, người ngoài phương Tây
lại nghĩ rằng, không biết thực sự họ là ai, hay nghĩ rằng, thực sự, lúc này họ không
phải là họ. Tuy vậy, tất cả cùng chia sẻ quan điểm cho rằng, "văn hóa" - dù nó như
thế nào hay dù mỗi người coi văn hóa riêng của mình là như thế nào - là "tốt" là
"cốt lõi quan trọng" để khôi phục và phát triển trên đó.
Đây là một số vấn đề đòi hỏi phải có sự bàn luận triết học. Và, một trong
những vấn đề đó là khái niệm bản sắc. Một vấn đề nữa là khái niệm "giá trị".
Bởi vậy, khi "bản sắc văn hoá" được hiểu một cách kỹ lưỡng, có thể trong
trường hợp một cá nhân, thì tri thức của cá nhân đó về quan niệm của con người
và về cái mà người đó cho là giá trị, còn trong trường hợp đối với một nhóm người,
tri thức về quan niệm phổ biến rộng rãi nhất - không còn là duy nhất - về con
người, và về cái được coi là có giá trị tại một thời điểm nhất định trong nhóm đó.
"Bản sắc văn hóa" được thừa nhận ở các nước ngoài phương Tây để truyền đạt
quan niệm về con người và về cái có giá trị đã thịnh hành ở các nước đó trước khi
gặp gỡ với phương Tây.
Hậu quả của nhận thức về "bản sắc" như là "hình tượng tự thân" sẽ như thế
nào? Và, cái gì có thể là hàm ý của sự nhận thức về "bản sắc" như là "tri thức tự
thân"? Và, trong mối liên kết này, những cái gì là "giá trị" mà mỗi nền văn hóa
phải nỗ lực tìm kiếm hay cần khôi phục lại?
Sự nhầm lẫn thể hiện ra trong các cuộc tranh luận có liên quan tới vấn đề
triết học "Cái gì là giá trị?" - một sự nhầm lẫn dường như tạo nên tâm điểm của
vấn đề.

Nếu truy nguyên ý nghĩa của thuật ngữ các "giá trị văn hóa" trong văn cảnh
của các tư liệu khác nhau, chúng ta có thể thấy rằng, thuật ngữ "giá trị" không hề
rõ ràng hơn thuật ngữ "văn hóa". Thậm chí, trong cả các văn cảnh về "các giá trị
riêng", giá trị là để chỉ mọi thứ mà một nhóm - hay một nền văn hóa - coi là có giá
trị. Như vậy, nó chủ yếu chỉ ra "cái tốt" của văn hóa hay "các chuẩn mực văn hóa".
Vấn đề chuẩn mực, đặc biệt là sự chứng minh "có tính khoa học" của chúng
đã làm cho cộng đồng triết học luôn bận rộn trong mười lăm hay hai mươi năm
qua. Ngay cả vấn đề đặc thù tri thức dường như cũng không đủ gây chú ý.
Có phải chuẩn mực và giá trị là một như nó được hoàn toàn thừa nhận trong
các cuộc tranh luận liên quan đến "khám phá" hay "phục hưng" các giá trị văn hóa
riêng hay không?
Câu hỏi này có ý nghĩa quyết định khi xử lý các vấn đề phải đối diện không
chỉ liên quan tới các quan niệm về phát triển văn hóa dân tộc hay các quan niệm
về phát triển văn hóa của nhóm khác, mà còn liên quan tới "phát triển văn hóa toàn
cầu", liên quan tới những quan niệm khác nữa - gần đây nhất là quan niệm về "tích
hợp các giá trị văn hóa".
Theo quan niệm này, cái có thể thống nhất con người là một văn hóa (tinh
thần) toàn cầu. Để tạo ra văn hóa toàn cầu này, chúng ta phải lựa chọn và "tích
hợp" cái gì là "tốt" trong, hoặc "cốt yếu" của mỗi văn hóa.
Có một quan niệm nữa về "phát triển văn hóa toàn cầu" hay một sự chấp
nhận hoàn toàn khác liên quan tới việc tạo ra một văn hóa toàn cầu. Đó là ý kiến
đằng sau các cuộc tranh luận về "đặc trưng riêng và đặc trưng phổ quát của các giá
trị văn hóa" - vấn đề tranh luận cũng khiến cho cộng đồng triết học phải bận bịu
trong mười lăm năm qua và qua đó, làm bộc lộ ra những nhầm lẫn giữa "chuẩn
mực" và "giá trị".
Những nhận xét tương tự như thế này là cần thiết để triết học nỗ lực tìm
kiếm cách thức khái niệm hóa tư tưởng về "phát triển văn hóa toàn cầu" - tức là cố
gắng xác định nó có thể có nghĩa gì và trong bối cảnh thế giới hiện nay, nó có thể
là cái gì, cũng như đi sâu vào các tính chất khách quan của văn hóa mà chúng ta
hy vọng rằng, chúng có thể trở thành "toàn cầu" một khi dường như đã có một văn

hóa toàn cầu đang thịnh hành - đó là "văn hóa phương Tây " trong tình trạng hiện
nay của sự phát triển đang tỏ ra là cái bị tất cả mọi dân tộc trên thế giới chống lại,
dù cho nhu cầu của họ khác nhau như thế nào.
Những sự chống đối khác nhau này đối với cùng một thứ rất có thể là biểu
hiện của một khát vọng giống nhau. Con người phương Tây thể hiện đòi hỏi của
họ trước những người thống trị họ: họ đòi hỏi chính quyền cho phép họ phát triển
các tiềm năng con người của họ. Còn những người ở các nước không phải phương
Tây lại thể hiện đòi hỏi của mình đối với thế giới phương Tây như là một thế giới
hoàn chỉnh: họ mong muốn không còn bị đối xử như là nhà thiên văn học của
Thánh Exupery, hay họ khát khao "chủ nghĩa nhân văn của nhận thức" - như
F.Mao Quesada đã gọi như thế
(5)
. Cả hai đều đòi hỏi một trật tự thế giới sẽ đảm
bảo cho họ khả năng góp phần của mình vào sự hình thành hiện tại và tương lai
của thế giới.
Những yêu cầu đó dường như để tìm một tiếng vọng, một sự bắt chước
trong một phạm vi nào đó. Trả lời họ thế nào đây? Câu hỏi về chính sách văn hóa
đã tạo nên chủ đề của rất nhiều hội nghị quốc tế, khu vực và cấp quốc gia trong
mười năm qua. Kết quả là gì?
Một câu hỏi nữa: nếu phát triển văn hóa được coi là vấn đề của các chính
sách Văn hóa thì sẽ có ý nghĩa gì? và hiện tại, nó có thể được thực hiện được ở các
mức độ khác nhau như thế nào?
Phát triển văn hóa và các chính sách văn hóa
Rõ ràng là, các chính sách văn hóa khác nhau một cách rõ ràng ở các nước
khác nhau và ở các mức độ khác nhau. Song, vẫn có những câu hỏi liên quan đến
các mục tiêu cơ bản của các chính sách văn hóa và các điểm chung khác.
Sau đây là một câu hỏi như vậy. Các chính sách văn hóa được chờ đợi để
lên kế hoạch và phát triển các hoạt động của con người nhằm tạo ra các cá nhân có
khả năng phát triển các tiềm năng con người của họ là cái gì? Hay, các quan niệm
về con người và giá trị tạo cho các nhóm được coi như của chính họ là gì? Mặc dù

có vẻ như thừa, nhưng câu hỏi này chỉ tìm được câu trả lời đúng cho nó khi kết
hợp nó với một số hoạt động được thực hiện bởi các Bộ trưởng văn hóa, chẳng hạn
như đưa ra lời quảng cáo để khích lệ mọi người "hãy khao khát" hay diễn đạt
loanh quanh như "đối thoại văn hóa", "hợp tác đa văn hóa"…
Đây chỉ là một vài ý kiến nhận xét trên cơ sở một số câu hỏi có đề cập tới
"phát triển văn hóa" giữa những câu hỏi khác mà người ta đã nêu ra để cho các
nhà triết học trả lời. Chúng bắt nguồn từ sự đối diện với bối cảnh thế giới hiện tại,
đồng thời xuất phát từ câu hỏi "triết học có thể đóng góp gì cho sự phát triển văn
hóa?"

(1)
Hội nghị UNESCO toàn thể, phiên 22, Paris, 1983, 22C/94.
(2)
Xem: I. Kucuradi. Các văn hóa và văn hóa thế giới. Trong Triết học và văn hóa,
Actes du XVIII. Đại hội Mondial về triết học lần thứ IV, Montreal, 1988, tr. 457 -
460.
(3)
Xem: I. Kucuradi. Sđd., tr. 457 - 460.
(4)
"Das gemeinschaftliche Gerprage".
(5)
Xem: F. Miro Quesada. Nhân quyền ở Mỹ Latinh. Trong: Các cơ sở triết học
của nhân quyền. UNESCO, 1986, tr. 311.

×