Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

VĂN HÓA HỌC NGHỆ THUẬT NHƯ MỘT CHUYÊN NGÀNH CỦA VĂN HÓA HỌC pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.78 KB, 14 trang )

VĂN HÓA HỌC: CULTUROLOGY VÀ CULTURAL STUDIES

Mikhail Epstein
Người dịch: TS. Nguyễn Văn Hiệu
Bài đã đăng trên tạp chí Văn hóa Nghệ thuật - 2007
LTS: Trong khoa học văn hóa, hiện có hai thuật ngữ tiếng Anh đều có
thể dịch ra tiếng Việt là văn hóa học. Đó là culturology và cultural studies.
Tuy vậy, hai thuật ngữ này gắn với hai truyền thống nghiên cứu văn hóa
khác nhau. Đến nay, ở Việt Nam vẫn chưa có công trình bàn về sự khác
biệt giữa hai thuật ngữ này. Vì vậy, chúng tôi xin giới thiệu một phần
trong cuốn Transcultural Experiments: Russian and American Models of
Creative Communication (New York: St. Martin’s Press, 1999) của
Mikhail Epstein (sinh năm 1950) - nhà nghiên cứu văn hóa và văn học
Nga, hiện là giáo sư về Lý luận văn hóa và văn học Nga tại Trường Đại
học Emory, Atlanta, Georgia, Hoa Kỳ. Nhan đề do người dịch đặt.

Bối cảnh lịch sử
Văn hóa học (culturolory) là một chuyên ngành của nền khoa học nhân văn
Nga, có nền móng từ những công trình của Nikolai Danilevski (1822-1885) và
Pavel Florensky (1882-1937), phát triển đến đỉnh cao trong những thập niên 1960-
1980 với những công trình của Mikhail Bakhtin (1895-1975), Aleksei Losev
(1893-1988), Yuri Lotman (1922-1993), Vladimir Bibler (1918-?), Georgy
Gachev (1929-?), và Sergei Averintsev (1937-?). Văn hóa học nghiên cứu tính đa
dạng của các nền văn hóa, những phương thức tương tác và những chức năng của
chúng với tư cách là một siêu ngành (metadiscipline) trong khoa học nhân văn.
Mục đích của ngành học này là bao quát và liên kết sự đa dạng của những hiện
tượng văn hóa vốn được triết học, sử học, xã hội học, phê bình văn học và phê
bình nghệ thuật… nghiên cứu một cách biệt lập.
Cơ sở triết học của văn hóa học có thể được tìm thấy trong truyền thống tri
thức của Đức, đặc biệt là những quan điểm của Goeth, Herder, Windelband,
Simmel, Spengler về văn hóa với tư cách là một hệ thống thống nhất hữu cơ (1).


Theo quan điểm này, văn hóa bao gồm các kiểu loại của hoạt động nhận thức và
sáng tạo, gồm cả chính trị, kinh tế, nghệ thuật, văn học, triết học, và tôn giáo - tín
ngưỡng. Tất cả các lĩnh vực này tìm thấy những cội nguồn của chúng trong trực
giác khởi thủy - hiện tượng nổi bật của một nền văn hóa - và hiện tượng này biến
đổi từ những sự hình thành tộc người có tính lịch sử cụ thể.
Ở Nga, khái niệm về tính hữu cơ của văn hóa có sớm nhất trong công trình
của Nikolai Danilevsky, triết gia Slavơ cuối thế kỷ XIX - người trước Oswald
Spengler nửa thế kỷ. Nikolai Danilevsky đã nêu ra một số loại hình lịch sử - văn
hóa (cultural-historical types), bao gồm cả “loại hình châu Âu” và “loại hình
Slavơ”. Theo Danilevsky, văn hóa là khái niệm rất rộng, bao gồm 4 loại hoạt
động: tín ngưỡng, chính trị, kinh tế - xã hội, và các hoạt động văn hóa hiểu theo
nghĩa hẹp (nghệ thuật, khoa học, và công nghệ) (2). Những đề tài văn hóa học
được thảo luận rộng rãi trong triết học tôn giáo ở Nga trước cách mạng, nơi
Nikolai Berdiaev, Dmitry Merezhkovsky và Paven Florensky nghiên cứu văn hóa
với tư cách là một bình diện bổ sung (complementary aspect) của nghi thức tôn
giáo (cult), coi đó như một sự đáp lại một cách sáng tạo và tự do của con người
đối với hành động sáng tạo của Thượng đế. Theo Berdiaev, “trong đời sống xã hội,
tính ưu việt của tinh thần thuộc về văn hóa. Những mục tiêu của xã hội được hoàn
thiện trong văn hóa chứ không phải trong chính trị và kinh tế”(3).
Khái niệm văn hóa trở thành khái niệm trung tâm đối với nhiều nhà tư tưởng
ở nước Nga thời hậu Stalin như một sự lựa chọn để thay thế khái niệm xã hội nổi
trội trong lý luận Marxist. Khi xã hội bị phân ra thành những giai cấp và những
đảng phái, mỗi thế lực chiến đấu vì sức mạnh và uy quyền, văn hóa có tiềm lực để
liên kết con người và giúp vượt qua những phân chia xã hội, quốc gia và lịch sử.
Từ quan điểm văn hóa học, văn hóa có thể được xác định như một sự cộng cảm có
tính biểu trưng: Một công trình nghệ thuật hoặc một triết thuyết mới nào được đưa
vào hệ thống văn hóa đều làm thay đổi nghĩa của tất cả các thành tố khác, và bằng
con đường này, không chỉ quá khứ tác động đến hiện tại mà hiện tại còn có ảnh
hưởng lớn đối với quá khứ. Mô hình lịch sử với tư cách là một vectơ theo một
hướng duy nhất (unidirectional vector) thống trị lâu dài trong trạng thái tinh thần

Soviet, đã được thử thách bởi khái niệm văn hóa với tư cách là một thể liên tục đa
chiều kích (multidimensional continuum), trên đó những thời đại không phải là
những bước kế tiếp (successive steps) trong tiến trình của nhân loại mà là cùng tồn
tại ngang bằng và có ý nghĩa đối với nhau.
Một thử thách lớn đối với chủ nghĩa Marx trong thập niên 1960 còn đến từ
chủ nghĩa cấu trúc với phương pháp luận cho rằng khái niệm văn hóa có vị trí
hàng đầu trong khoa học nhân văn. Mặc dù cả chủ nghĩa cấu trúc và văn hóa học
có ý thức đối lập với chủ nghĩa Marx chính thống (orthodox Marxism), giữa chúng
có sự khác nhau rất rõ về phương pháp luận. Công cuộc của chủ nghĩa cấu trúc về
căn bản là mang tính khoa học, nó cố gắng giới thiệu chuẩn mực của toán học và
khoa học tự nhiên vào mục tiêu nghiên cứu con người, trong khi văn hóa học, chịu
ảnh hưởng bởi những người theo thuyết Kant mới (neo Kantian) và truyền thống
chú giải học, lại nhấn mạnh rằng khó thể nắm bắt đặc trưng của các hiện tượng
văn hóa bằng những phân tích và tính toán cặn kẽ. Theo những đại diện chính của
các nhà văn hóa học theo hướng này, như Bakhtin và Averintsev, tính bất khả của
khoa học nhân văn trong việc đạt tới sự chính xác nghiêm ngặt là thuận lợi hơn là
phương hại. Vì đối tượng đích thực của khoa học nhân văn là ý chí tự do và hoạt
động tinh thần - những hoạt động vượt khỏi xác định toán học hoặc căn cứ vào
khoa học tự nhiên - khoa học nhân văn đã xây dựng được những phạm trù riêng
một cách chính xác và có cách tiếp cận khoa học đối với văn hóa như một hệ
thống của những mã thông tin (informational codes). Vì vậy, văn hóa học nảy sinh
ở Liên bang Nga (USSR) như một loại lực lượng thứ ba trong sự tranh luận về
phương pháp luận giữa chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa cấu trúc: Văn hóa học từ bỏ
những thành kiến xã hội và ý thức hệ trong cách tiếp cận văn hóa, đồng thời cố
gắng vượt qua những thành kiến khoa học và công nghệ - một dạng của giản hóa
luận (reductionism). Sự hình thành của văn hóa học với tư cách là một ngành
chuyên biệt xuất hiện vào cuối thập niên 1960, khi có cảnh báo về sự cứng nhắc
của chủ nghĩa cấu trúc cũng như khi xuất hiện của những công trình mới của
Bakhtin và những công trình đầu tiên của Averintsev - những công trình hàm chứa
tính chất luận chiến đối với chủ nghĩa duy lý kỹ thuật (technological rationalism).

Trong những ghi chép vào những năm 1970-1971, Bakhtin kiên trì luận điểm cho
rằng “nghiên cứu văn hóa (hoặc một vài lĩnh vực của nó) phải ở cấp độ hệ thống,
và ở cấp độ cao hơn là tính thống nhất hữu cơ (organic unity): hệ thống mở, vận
động, không phân giải (unresolved), không xác định trước, có khả năng chết đi và
tái sinh, tự thấu vượt qua những giới hạn riêng (4).
Sự tiến triển của văn hóa học thời kỳ hậu chủ nghĩa Stalin đã chứng tỏ được
sự hợp lý của nó, đối với cả những truyền thống có tính quốc gia của thuyết phổ
quát (universalism) lẫn với những mô hình đa nguyên, tự do của tư duy. Trong văn
hóa học, “văn hóa” được xem như một khái niệm có tính miêu tả hơn là khái niệm
có tính quy phạm, bản thân thuật ngữ được dùng cả ở số ít lẫn số nhiều. Văn hóa
(culture) với tư cách là một chỉnh thể của những lĩnh vực hoạt động, bao hàm tính
đa dạng của các nền văn hóa (cultures) với tư cách là đa dân tộc và đa kiểu loại
lịch sử, mỗi kiểu loại có nguyên tắc hình thành riêng, không thể giản hóa. Trong
khi văn hóa học quan tâm đến văn hóa với tư cách là cái toàn thể (a whole), nó
cũng đồng thời thừa nhận tính đa dạng của “những cái toàn thể” (wholes) và tạm
phân biệt giữa chúng bằng thuật ngữ giá trị.
Vì vậy, phương pháp luận của nghiên cứu văn hóa học cần thiết phải liên kết
hai qui trình. Trước hết, nó xác định những cơ sở chung của những ngành học
riêng biệt để vượt qua tính đặc thù của bất kỳ lĩnh vực chuyên biệt nào. Mikhail
Bakhtin chẳng hạn, trong những suy ngẫm về nghiên cứu văn học, luôn cho rằng
“văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa và không thể hiểu nó bên
ngoài bối cảnh của văn hóa tổng thể của một thời đại cụ thể… Tập trung vào phạm
vi hẹp là xa lạ với những truyền thống học thuật tốt nhất của chúng ta… Trong sự
nhiệt tình đối với sự xác định giới hạn, chúng ta đã lờ đi những vấn đề về mối
quan hệ liên tục và phụ thuộc lẫn nhau giữa các lĩnh vực đa dạng của văn hóa…,
và chúng ta đã không tính rằng đời sống năng động và mạnh mẽ của văn hóa diễn
ra ngay trên những đường biên của những lĩnh vực riêng của nó chứ không phải ở
những nơi tập trung những đặc trưng riêng của từng lĩnh vực”(5). Qui trình thứ hai
là giả định việc xác định các hiện tượng văn hóa trong tính đặc thù dân tộc và lịch
sử của chúng. Nếu trong một nền văn hóa những lĩnh vực chuyên biệt và đa dạng

được liên kết bởi một trực giác chung, thì tính cá biệt của trực giác này giúp phân
biệt nền văn hóa này với những nền văn hóa khác trên cấp độ toàn cầu. Bình diện
này của văn hóa học được phát triển xuyên suốt với Aleksei Losev trong những
nghiên cứu sâu rộng của ông về mỹ học cổ điển, xác định rằng tính cổ xưa
(antiquity), với tư cách là một hiện tượng văn hóa, giữ được tính đặc thù của nó
trên tất cả các cấp độ phân tích, lý giải. Phân tích những lý thuyết trừu tượng nhất
về phép biện chứng của sự đồng nhất và khác biệt của trường phái Plato và phái
tân Plato, Losev chỉ ra rằng đằng sau những sự trừu tượng này, và “thẩm sâu trong
toàn bộ tính cổ xưa…, tồn tại một trực giác đầy sức mạnh và không thể chối bỏ
được về một cơ chế phổ quát, hoặc một trực giác của toàn bộ hiện thực với tư cách
là một cơ thể sống”(6). Theo Losev, mục đích chính của nghiên cứu văn hóa học
là nhận thức được tính đặc thù của một hiện tượng sẵn có như là một bộ mặt có ý
nghĩa của tồn tại” (vyrazitel’nyi lik bytiia). “Trong sự khám phá một sự kiện văn
hóa cổ xưa có tính cổ điển, tôi không đợi đến khi tôi nhận ra ở nó một phẩm chất
giúp phân biệt nó với những gì không phải cổ điển… “Phong cách” và “thế giới
quan” (style and worldview) phải được thống nhất bằng mọi phương tiện; chúng
phải chiếu ứng lẫn nhau”(7).
Hai bình diện của văn hóa học, “đa dạng” và “thống nhất”, là không thể chia
tách, nhưng chắc chắn là tầm quan trọng của từng bình diện có thể khác nhau
trong những công trình của một nhà nghiên cứu. Văn hóa học Nga, được hình
thành từ thập niên 1960, đã có những đề xuất lớn, sinh động dành cho mỗi bình
diện theo nguyên tắc của Bakhtin và Losev. Cả hai đã đặt cơ sở cho phương pháp
luận này trong những công trình viết rất sớm từ thập niên 1920. Trong khi Bakhtin
nhấn mạnh đến bản chất đối thoại (dialogic nature) của một nền văn hóa trong
những khác biệt nội tại và ngoại biên của nó, thì Losev lại thiên về lý thuyết hóa
tính đồng nhất của văn hóa như một biểu thị đa diện của một trực giác căn bản,
nguyên sơ (8).
Culturology và cultural studies
Cách tốt nhất để giới thiệu văn hóa học Nga với một độc giả Mỹ là so sánh
nó từng điểm một với những gì được biết đến trong thế giới nói tiếng Anh với tư

cách là “cultural studies”(9). Chúng tôi chọn tham khảo trong Introducing
Cultural Studies, trong đó, Ziauddin Sardar và Borin Van Loon đã tóm tắt rất rõ
ràng những xu hướng tiêu biểu của cultural studies. Năm định nghĩa về cultural
studies cũng bộc lộ những tương đồng và đối lập với culturology.
1. “Cultural studies hướng đến việc xác định vấn đề trọng tâm trong phạm vi
của những thực tiễn văn hóa và mối quan hệ của chúng với quyền lực. Mục tiêu
kiên định của nó là vạch ra những mối quan hệ quyền lực và xác định bằng cách
nào những mối quan hệ này ảnh hưởng và định hình những thực tiễn văn hóa”(10).
Culturology hướng đến việc xác định văn hóa với tư cách là nơi những thực
tiễn tồn tại, khả thể, và nó, với tư cách là một tổng thể (whole), giải phóng con
người khỏi những điều kiện tự nhiên và những phụ thuộc vào tự nhiên, gồm cả sự
phụ thuộc của kẻ yếu vào kẻ mạnh - đó mới chính là mối quan hệ của quyền lực.
Văn hóa là tất cả những gì được sáng tạo bởi con người và, đến lượt nó, những thứ
này làm cho con người khác với bản chất tự nhiên cố hữu của họ. Bằng việc đưa ra
một chiều kích tượng trưng đối với những mối quan hệ quyền lực, văn hóa điều
chỉnh những mối quan hệ này nhờ vào việc giải phóng những thông lệ của những
biểu thị, làm xa lạ và dần dà xóa bỏ những nguồn gốc sinh học (chủng tộc, giới
tính). Những thực tiễn văn hóa không thể bị biến thành những mối quan hệ quyền
lực và không nên xem chúng chỉ được định hình và quyết định bởi những quan hệ
đó: Giản hóa luận như vậy chỉ hợp với nền văn hóa chính trị chuyên chế với tư
cách là công cụ của quyền lực.
2. “Cultural studies không chỉ đơn thuần nghiên cứu văn hóa như thể văn hóa
là một thực thể riêng biệt, tách rời với bối cảnh chính trị - xã hội. Mục tiêu của
ngành này là hiểu văn hóa trong toàn bộ những dạng thức phức tạp của nó và phân
tích bối cảnh chính trị - xã hội trong đó nó bộc lộ tự thân”.
Văn hóa tồn tại trong bối cảnh chính trị và xã hội, nhưng bối cảnh này tự nó
chỉ là một diện mạo có tính bộ phận của văn hóa và nó không thể lấn át cái toàn
thể. Tất cả những chiều kích đa tầng của văn hóa - những công trình nghệ thuật,
triết học, những nghi thức và thực hành tín ngưỡng, những giá trị đạo đức, những
mối quan hệ cá nhân, những thực tiễn trao đổi có tính biểu tượng và giao tiếp hàng

ngày - ngăn chặn việc con người bị coi là con vật chính trị (political animals).
Nhiệm vụ của văn hóa học là chỉ ra văn hóa như một hệ thống mở (open totality),
xuyên vượt qua bất kỳ những cấu tạo đơn lẻ nào, gồm cả chính trị. Văn hóa học là
sự nhận thức tự thân của văn hóa (the self awareness of culture); sứ mệnh của nó
không phải là thống trị văn hóa thông qua thể chế quyền lực, như chính trị từng
làm, mà là ý thức tự trị của nó.
3. “Văn hóa trong cultural studies luôn luôn thực hiện hai chức năng: nó vừa
là đối tượng của nghiên cứu, vừa là nơi định vị của hoạt động và phê bình chính trị.
Cultural studies hướng đến cả hai, vừa là một công trình trí tuệ, vừa là công trình
thực dụng”.
Culturology chia sẻ hai chức năng này với cultural studies, nhưng nó xác
định văn hóa không phải như nơi định vị của hoạt động và phê bình chính trị mà là
nơi phi định vị thường trực của những thực tiễn chính trị thông qua viễn cảnh của
những bối cảnh tượng trưng vốn có của chúng. Một thực hành tín ngưỡng hay một
tác phẩm nghệ thuật được giải mã (decode) không phải chỉ để hé lộ một thông điệp
chính trị được mã hóa (encrypt). Những phương án giải mã những hiện tượng
chính trị như là những mã huyền thoại hoặc thẩm mỹ hẳn vẫn thích đáng. Ngay cả
những hoạt động của một đảng phái nhỏ cũng có thể được xem xét qua những lăng
kính của văn hóa học như độ khúc xạ (refraction) hoặc những lời diễn giải
(paraphrase) những mã nghi lễ, những trò chơi ngôn từ, những tác phẩm văn
chương tự sự, hoặc những cổ mẫu tâm lý. Culturology không cho phép bất kỳ mã
đơn nhất hoặc nguyên tắc đơn nhất nào có đặc quyền vượt trội những cái khác và
trở thành những nền tảng phổ quát của sự diễn giải. Culturology không phải là một
“công trình thực dụng” đi cùng với những mô hình khác của những hoạt động văn
hóa; đúng hơn, nó là một ý thức “siêu thực dụng” (metapragmatic), phê phán chủ
nghĩa thực dụng hẹp hòi, phê phán những người theo chủ nghĩa chính trị biệt lập
(isolationist) và/hoặc những đòi hỏi có tính bá chủ của bất kỳ những sự diễn thuyết
hoặc hành động cá biệt nào.
4. “Cultural studies cố gắng vạch rõ và điều hòa sự phân rẽ tri thức để vượt
qua sự phân hóa giữa những dạng thức ngầm ẩn (tri thức thuộc về trực giác dựa

trên những nền văn hóa địa phương) và những dạng thức khách quan (cũng gọi là
phổ quát) của tri thức. Nó cho rằng có sự đồng nhất chung (common identity) và
một quyền lợi chung (common interest) giữa người biết và cái được biết, giữa
người quan sát và cái được quan sát”.
Trong nỗ lực vượt qua sự phân chia của tri thức và những tách biệt từ sự
chuyên môn hóa cao độ, culturology rất gần với cultural studies. Culturology cố
gắng tiếp cận văn hóa bằng những thuật ngữ riêng của nó và cố gắng để tạo lập
một ngôn ngữ chỉnh thể luận (holistic language) để tránh sa vào chính trị luận,
khoa học luận, thẩm mỹ luận, đạo đức luận, hoặc tuyệt đối hóa bất kỳ phương diện
đơn lẻ nào của văn hóa. Đó là lý do tại sao culturology tránh nhấn mạnh đến mặt
chính trị của văn hóa - điều nổi trội trong cultural studies. Nếu các chuyên gia
khác làm việc trong những ngành hoặc lĩnh vực riêng cứ kéo dài một cách vô thức
những quy tắc và cấm kỵ, thì một nhà văn hóa học (culturologist) sẽ làm cho văn
hóa riêng của anh ta thành đối tượng của sự xác định và nhờ đó mà vượt qua được
những hạn chế, vượt qua cái hữu hạn của nó.
5. “Cultural studies quan tâm đến sự đánh giá đạo đức của xã hội hiện đại và
quan tâm đến những phạm vi cơ bản của hoạt động chính trị. Truyền thống của
cultural studies không phải là tri thức tự do về giá trị mà là một ngành can dự vào
sự tái cấu trúc xã hội thông qua sự phê bình chính trị. Vì vậy, cultural studies
hướng đến mục đích hiểu và thay đổi những cấu trúc ưu trội có ở khắp nơi, trừ
những xã hội tư bản công nghiệp”.
Văn hóa học Nga nảy sinh trong một xã hội xã hội chủ nghĩa, đầy tính chính
trị hóa và tính rao truyền đạo đức. Nó tìm kiếm những phương án cơ bản nhất để
không rơi vào sự ràng buộc chính trị hoặc những lời nỉ non đạo đức cho phù hợp
với mã hệ tư tưởng đang thịnh hành nhằm vượt qua những mã đã được thiết lập,
gồm cả mã đạo đức và chính trị (như “chủ nghĩa tập thể”, “chủ nghĩa duy vật”,
“vai trò lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân”, “tính ưu việt của lao động chân
tay”). Văn hóa được xem xét không phải như một công cụ của chính trị (mà theo
quan điểm chính trị, văn hóa thực sự bị xem là nằm dưới chủ nghĩa xã hội) mà như
một chân trời tự do, từ những giới hạn của một nền văn hóa vươn tới những nền

văn hóa khác. Đối với culturology, khoa học đã thực hiện một cuộc đào thoát khỏi
chính trị; nghệ thuật thoát khỏi khoa học; tín ngưỡng - tôn giáo thoát khỏi nghệ
thuật; triết học thoát khỏi tôn giáo; và cuối cùng, văn hóa vượt thoát tất cả những
gì kể trên, năng lực của con người giải thoát chính họ khỏi những sự giam hãm
của những biểu tượng và quy luật tự nhiên.
Cả cultural studies lẫn culturology đều đặt mục tiêu vượt qua giới hạn tri
thức tự do giá trị thuần túy. Vì cultural studies tập trung vào những dạng thức văn
hóa có tính đầu cơ chính trị, hoặc cả với những dạng quyền lực trá hình về văn hóa,
tính mục đích của ngành này về cơ bản là rơi vào tình trạng khủng hoảng và giải
cấu trúc. Đây là đặc điểm chung của khoa học xã hội nhân văn phương Tây hậu
hiện đại, trong đó giải cấu trúc trở thành phương pháp luận cơ bản của nghiên cứu
văn hóa. Culturology, trái lại, đặt trọng tâm vào những tiềm năng cấu trúc của văn
hóa và hướng đến việc mở rộng và tăng cấp những ý nghĩa của mỗi biểu trưng văn
hóa vượt xa ý nghĩa thực dụng tầm thường. Giải cấu trúc, ít ra trong dạng thông
thường của chủ nghĩa cấu trúc hậu hiện đại có tính chất học thuật, hầu như được
hiểu là “sự tháo gỡ” (the undoing), “sự phân ly” (decomposing) và “sự khuấy
động” (desedimenting) của cấu trúc, dù theo ý của Jacques Derrida, nó “không
phải là hoạt động tiêu cực. Đúng hơn đó là sự phá hủy, nó cũng cần thiết để hiểu
bằng cách nào một “tổng thể” (ensemble) được tạo thành và để cuối cùng tái cấu
trúc nó. Tuy nhiên, dạng phủ định xuất hiện và tồn tại dai dẳng không thể xóa
bỏ… Đó là lý do tại sao từ này, ít ra theo nghĩa riêng của nó, chưa bao giờ vừa ý
tôi”(11). Culturology là nghệ thuật của sự giải cấu trúc tích cực một cách dứt
khoát, nó mở ra những khả năng lựa chọn và những khoảng tự do bên trong cũng
như bên ngoài những thực tiễn văn hóa bất kỳ (12).
Culturology nhấn mạnh đến những thực tiễn và những thể chế quyền lực với
không ít tính phê phán so với cultural studies vẫn làm, điều đó được chứng tỏ bởi
thông điệp tự do trước đó và vai trò có tính cách mạng của nó trong hệ thống của
văn hóa chính thống Xô viết. Nhưng culturology không phải là một dạng của chủ
nghĩa chống đối chính trị. Nó không phê phán một nền văn hóa chính trị nhân
danh một nền chính trị tiến bộ và tích cực hơn. Đúng hơn là từ quan điểm văn hóa

là một cái toàn thể, culturology phê phán chính trị, xem chính trị như một dạng
của hô hào, như một mối quan hệ của quyền lực, như một chủ nghĩa thực dụng hẹp
hòi. Culturology không hướng về sự đối lập mà hướng đến sự vượt qua
(transcendence): Làm thế nào để vượt qua một thực tiễn văn hóa hoặc một lý
thuyết có sẵn để sử dụng khả năng biểu trưng phong phú vô tận của văn hóa,
những mã hóa đa tầng và giải mã từng hiện tượng của nhân loại.
Cultural studies và culturology phát triển gần như đồng thời khi có những
yêu cầu về lý thuyết đối với những nền văn hóa tương ứng. Tên gọi “cultural
studies” xuất hiện từ Trung tâm nghiên cứu văn hóa đương đại (Contemporary
Cultural Studies) ở Trường đại học Birmingham thành lập năm 1964. Năm 1972
trung tâm này ấn hành ấn phẩm đầu tiên Working papers in Cultural Studies với
mục đích “đưa nghiên cứu văn hóa lên bản đồ của tri thức”.
Xác định thời điểm xuất hiện của văn hóa học Nga có phần khó hơn. Nó gồm
cả Yuri Lotman và những tác phẩm của trường phái ông về ký hiệu học văn hóa
(cultural semiotics) (giữa thập niên 1960), những chú giải có tính phương pháp
luận của Mikhail Bakhtin (thập niên 1960-1970), chương trình nghiên cứu của
Vladimir Bibler (từ 1967), những ấn phẩm đầu tiên của Geogy Gachev và Sergei
Averintsev (giữa và cuối thập niên 1960).
Còn những nhà sáng lập cultural studies? Phải chăng là Richard Hoggart,
Raymond Williams, Stuart Hall? - những trí thức thuộc tầng lớp lao động được
truyền cảm hứng từ những tư tưởng của phe Cánh tả cũ (old left) và mới (new left)
và chịu ảnh hưởng sâu đậm của chủ nghĩa Marx. Khoảng đầu thập niên 1970, chủ
nghĩa Marx hầu như mất sức chiến đấu về phương diện chính trị ở phương Tây và
rút vào mặt trận văn hóa bình yên hơn để cố gắng biến văn hóa thành một đấu
trường chính trị (political arena). Cultural studies xuất hiện và phát triển, trong
bản chất, như là những nghiên cứu có tính chính trị về văn hóa và thử nghiệm vào
việc chuyển đổi xã hội. Văn hóa xuất hiện đánh dấu một lĩnh vực mở và khả dụng
hơn cho việc thử nghiệm chủ nghĩa xã hội, hơn là kinh tế học hoặc chính trị học
thực dụng.
Ở Nga tình cảnh hoàn toàn đối lập: Trong nhiều năm, nền văn hóa chính

thống hoàn toàn bị chính trị hóa, bị hạ xuống hàng chức năng hệ tư tưởng và tuyên
truyền. Chủ nghĩa Marx Xô viết áp đặt văn hóa như là “thượng tầng kiến trúc thứ
cấp” (secondary superstructure) sau cả quyền lực kinh tế lẫn những quyết định xã
hội. Mục đích chính của văn hóa học Nga (Russian culturology) là giải chính trị
hóa văn hóa, là cứu văn hóa từ bối cảnh thực dụng hẹp hòi, nơi nó bị coi như một
công cụ của quyền lực. Văn hóa đã được thăm dò như là nguồn tài nguyên cuối
cùng của tự do và sáng tạo của nhân loại, vượt qua những giới hạn xã hội và
những quyết định luận lịch sử.
Cái nào trong hai nhánh của “khoa học văn hóa” (cultural science) sẽ có tiềm
lực hơn trong tương lai? Thoạt nhìn, sự đổ vỡ của Chủ nghĩa Marx Xô viết đã xóa
bỏ bối cảnh chuyên chế trong đó văn hóa học Nga xuất hiện. Nhưng phải chăng
chính sự sụp đổ của chế độ chuyên chế đã dẫn đến cuộc tranh luận đầy thiện ý về
cách tiếp cận văn hóa học đối với văn hóa như là một siêu hệ thống (metasystem)
và nó tiếp tục tồn tại và vượt qua những bối cảnh chính trị, ngay cả quyền lực đã
thống trị nước Nga Xô viết trong 70 năm? Cách tiếp cận văn hóa học đối với văn
hóa như là một tổng thể, vừa có thể lại vừa không thể vượt qua tổng thể đó, đã
phản bác một cách thành công những cách tiếp cận chính trị, đạo đức, khoa học
theo hướng hạ thấp văn hóa xuống thành một trong những bộ phận hợp thành của
chính văn hóa. Đó là lý do tại sao culturology trở thành một trong những ngành
chính của khoa học nhân văn ở Nga thời hậu Xô viết, thực tế, nó đi đầu về phương
pháp luận trong nghiên cứu và giảng dạy. Trong nhiều trường đại học, những khoa
thuộc văn hóa học đã thay chỗ cho những khoa trước đây có trách nhiệm đối với
việc giám sát chính trị và được tận dụng trong tất cả các ngành học
khác.
_______________
1. Thuật ngữ culturology (Đức: kulturologie) có lẽ được Wilhelm Ostwald, nhà
văn hóa học nổi tiếng và là người đoạt giải Nobel năm 1915, đưa ra đầu tiên trong
công trình The System of the Science. Về lịch sử vắn tắt của thuật ngữ này, xem
Leslie A. White, The Science of Culture: A Study of Man and Civilization, New
York, Farrar, Straus and Cudahy, 1949, 410-412.

2. N.Ia. Danilevskii, Rosiia I Evropa (1869). Moscow, Kniga, 1991, 471-472.
3. Nikolai Berdiaev, Filosofiia neravenstva, Sobranie sochinenii, 4 volume, Paris,
YMCA-Press, vol.4, 556.
4, 5. Mikhail Bakhtin, Speech Genres and Other Late Essays, ed. Caryl Emerson
and Michael Holquist (Austin: University of Texas Press, 1986), 135.
6. A.F. Losev, Istoriia antichoi estetiki. Poslednie veka, Book 2 (Moscow:
Iskusstvo, 1988), 379.
7. A.F. Losev, Ocherki antichchnogo simvolizma I migologii, vol.1, Moscow,
Izdanie avtora, 1930, 690, 693.
8. Ziauddin Sardar and Borin Van Loon in Introducing Cultual Studies, ed.
9. Richard Appignanesi (New York: Totem Books, 1998): 9. The next four
definitions are cited from the same page.
10. Letter to a Japanese Friend (1983), in A Derrida Reader: Between the Blinds,
ed. Peggy Kamuf (New York: Columbia Univerity Press, 1991), 272.
11. Xem thêm “the methodology of potentiation as “positive deconstruction” trong
chương The Permanence of Newness
12. Mối quan hệ giữa văn hóa học (culturology) và xuyên văn hóa (transculture)
được viết kỹ hơn trong chương “Culture - Culturology - Transculture”, Mikhail
Eptein, After the Future: The Paradox of Postmodernism and Contemporary.

×