Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

NGHIÊN cứu đặc điểm THỰC vật và THÀNH PHẦN hóa học của lá XOÀI TRÒN yên CHÂU, sơn LA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 75 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ NGẦN
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT
& THÀNH PHẦN HÓA HỌC
CỦA LÁ XOÀI TRÒN YÊN CHÂU,
SƠN LA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ
HÀ NỘI-2013
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ NGẦN
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT
& THÀNH PHẦN HÓA HỌC
CỦA LÁ XOÀI TRÒN YÊN CHÂU,
SƠN LA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ
Người hướng dẫn:
TS. Đỗ Quyên
Nơi thựchiện:
Bộ môn Dược Liệu
HÀ NỘI-2013
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thiện khóa luận này, tôi đã nhận được sự ủng hộ và
tạo điều kiện của ban giám hiệu Trường Đại học dược Hà Nội và bộ môn
Dược liệu cùng rất nhiêu bộ môn khác trong trường.
Dầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc của mình đến
TS. Đỗ Quyên là người thầy đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận
này.
Cũng nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS Nguyễn
Quốc Huy đã hướng dẫn tôi nghiên cứu về các đặc điểm hình thái cây xoài


tròn Yên Châu, Sơn La.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô giáo cùng các anh chị kĩ
thuật viên khác tại Bộ môn Dược Liệu, Bộ môn Thực Vật và các bộ môn khác
trong trường đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt qúa trình
học tập và nghiên cứu để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Nguyễn Thị Ngần
MỤC LỤC
DANH MỤC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC ĐỒ THỊ VÀ HÌNH VẼ
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Phiếu giám định tên khoa học và phiếu chứng nhận mã số tiêu bản của
cây xoài tròn Yên Châu, Sơn La.
Phụ lục 2: Pic sắc kí của và phổ hấp thụ tử ngoại của dung dịch mangiferin chuẩn
1ppm
Phụ lục 3: Pic sắc kí của các dung dịch M
1,
M
2
, M
3
, M
4
, M
5
.
Phụ lục 4: Phổ

1
H-NMR và
13
C-NMR của chất M.
DANH MỤC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
DM: dung môi.
DMPM: dung môi pha mẫu.
HPLC: High Performance Liquid Chromatography (Sắc kí lỏng hiệu năng cao).
SKLM: Sắc kí lớp mỏng.
TT: Thuốc thử.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1 : Một số loài thuộc chi Mangifera L. và phân bố tại Việt Nam.
Bảng 3.1: Các vết (R
f
, màu sắc) trên sắc kí đồ của dịch chiết lá xoài tròn khai triển
với hệ dung môi EtOAc-HCOOH-H
2
O [10:1,5:1].
Bảng 3.2: Diện tích pic của dãy dung dịch chuẩn ở các nồng độ khác nhau.
Bảng 3.3: Kết quả định lượng mangiferin trong lá xoài tròn khi chiết bằng dung môi
EtOH 90
o
, 70
o
và 50
o
.
Bảng 3.4: Kết quả định lượng mangiferin trong các mẫu M
4
, M

5.
Bảng 3.5: Giá trị R
f
và màu sắc các vết trên sắc kí đồ của chất M và mangiferin
chuẩn khai triển hệ dung môi ở các điều kiện khác nhau.
Bảng 3.6: Kết quả định tính chất M bẳng phản ứng hóa học.
Bảng 3.7: Phổ
1
H,
13
C-NMR của M và mangiferin.
DANH MỤC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ
Hình 1.1: Acid Gallic và các dẫn chất của nó phân lập từ chi Mangifera L.
Hình 1.2: Công thức cấu tạo của acid ellagic (I) và mangcoumarin (II).
Hình 1.3: Một số hơp chất nhóm flavonoid phân lập từ chi Mangifera L.
Hình1.4: Các hợp chất nhóm xanthon phân phân lập từ chi Mangifera L.
Hình 1.5: Một số hợp chất monoterpen có trong chi Mangifera L.
Hình 1.6: Một số hợp chất sesquiterpen có trong Mangifera L.
Hình 1.7: Cấu trúc một số dẫn chất cycloartan phân lập từ chi Mangifera L.
Hình 1.8: Các hợp chất triterpenoid tetracyclic nhóm damaran được phân lập từ chi
Mangifera L.
Hình 1.9: Khung pregnan, pregnenolon, progesterol.
Hình 1.10: Khung stigmastan và một số dẫn chất stigmastan trong xoài.
Hình 1.11: Công thức của mangiferin.
Hình 3.1:. Hình ảnh cây và hoa xoài tròn Yên Châu-Sơn La.
Hình 3.2: Ảnh chụp các bộ phận của hoa, quả, lá xoài tròn.
Hình 3.3: Vi phẫu gân chính và phiến lá xoài tròn.
Hình 3.4: Một góc của vi phẫu gân chính lá xoài tròn.
Hình 3.5: Vi phẫu phiến lá xoài tròn.
Hình 3.6: Vi phẫu cuống lá xoài tròn.

Hình 3.7: Một góc của vi phẫu cuống lá xoài tròn.
Hình 3.8: Các đặc điểm của bột lá xoài tròn.
Hình 3.9: Hình ảnh sắc kí đồ của dịch chiết dược liệu bằng dung môi ethanol ở ba
nồng độ 50
o
,70
o
, 90
o
, khai triển hệ dung môi EtOAc-HCOOH-H
2
O
[10:1,5:1].
Hình 3.10: Đồ thị đường chuẩn mangiferin.
Hình 3.11: Hình ảnh sắc kí đồ chất M so sánh với mangiferin chuẩn, khai triển hệ
dung môi EtOAc-HCOOH-H
2
O [2:0,3:0,2].
Hình 3.12: Tinh thể chất M.

10
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, thuốc phòng và điều
trị bệnh ngày càng phong phú, bao gồm thuốc có nguồn gốc tự nhiên và tổng hợp.
Trong đó nguồn nguyên liệu tự nhiên là nguồn quan trọng để nghiên cứu phát triển
thuốc mới và sản xuất trong công nghiệp dược đối với thuốc có nguồn gốc thảo
dược.
Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, địa hình đa
dạng rất thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển nhiều loại cây thuốc quý. Cùng
với kinh nghiệm dân gian sử dụng cây thuốc để phòng và chữa bệnh, rất nhiều cây

thuốc quý được sử dụng trong công nghiệp dược làm thuốc.
Một trong những tỉnh miền núi phía Bắc nước ta có sự đa dạng sinh học cao
đó là tỉnh Sơn La. Sơn La là tỉnh miền núi cao nằm ở phía tây bắc Việt Nam, có khí
hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông lạnh khô, mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều. Do địa
hình bị chia cắt sâu và mạnh nên hình thành nhiều tiểu vùng khí hậu, cho phép phát
triển một nền sản xuất nông - lâm nghiệp phong phú. Vùng cao nguyên Mộc Châu
phù hợp với cây trồng và vật nuôi vùng ôn đới. Vùng dọc sông Đà phù hợp với cây
rừng nhiệt đới xanh quanh năm. Trong tổng số diện tích đất sản xuất nông nghiệp
(247.684 ha), diện tích trồng cây ăn quả chiếm gần 10% (24.016 ha). Trong đó, xoài
tròn (Mangifera indica L.) là một đặc sản của tỉnh Sơn La, nổi tiếng trên cả nước.
Tuy nhiên, cho đến nay mới chỉ khai thác quả xoài tròn, còn cành, lá cây xoài tròn
thông qua việc tỉa cành hàng năm đều không được sử dụng. Để có thể làm tăng giá
trị sử dụng nguồn nguyên liệu lớn, lá xoài tròn (Mangifera indica L.) của huyện
Yên Châu, tỉnh Sơn La, góp phần xóa đói, giảm nghèo ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa,
chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm thực vật và thành phần hóa học
của lá Xoài tròn Yên Châu, Sơn La” với 2 mục tiêu chính: một là giám định được
tên khoa học của cây Xoài tròn Yên Châu dựa trên các nghiên cứu về đặc điểm hình
thái và vi học; hai là xác định được sự có mặt và hàm lượng của mangiferin trong lá
xoài.
11
Chương I: TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm thực vật chi Mangifera L.
1.1.1.Vị trí phân loại chi Mangifera L.
Theo hệ thống phân loại của Takhatajan (1987, 2009) [6], [46], họ Đào lộn
hột và chi Mangifera L. có vị trí như sau :
Ngành Ngọc lan (Mangiphylata)
Lớp Ngọc lan (Magnoliopsida)
Phân lớp Hoa hồng (Rosidae)
Liên bộ Cam (Rutanae)
Bộ Cam (Rutales)

Họ Đào lộn hột (Anacardiaceae Lindl. 1830)
Phân họ Anacardioideae (Anacardioideae)
Chi Mangifera (Mangifera Linnaeus, 1753)
1.1.2. Đặc điểm hình thái và phân bố của của chi Mangifera L.
Đặc điểm hình thái chung của chi Mangifera L.: Cây gỗ thường xanh, có
kích thước lớn. Lá đơn mọc so le, có cuống, phiến lá nguyên, dai. Cụm hoa hình
chùy ở ngọn cành. Hoa nhỏ, mẫu 4 hay mẫu 5, tiền khai hoa lợp. Cánh hoa đôi khi
hàn liền ở gốc. Cánh hoa có 1-5 sống nổi bật. 5 nhị hoa rời hoặc dính liền với đĩa
mật, thường có 1 hoặc 2 nhị lớn hơn. Đĩa mật tạo thành từ 5 tuyến riêng biệt ở
ngoài nhị. Bầu nhẵn một ô, 1 noãn, 1 vòi nhụy ở đỉnh bầu. Quả có hột cứng, vỏ quả
giữa có xơ, vỏ quả trong dày, cứng, chắc. Hạt có 1 hoặc đa phôi [28].
Theo Koster mans và Bompard 1993, chi Mangifera L. gồm 69 loài phân bố
chủ yếu ở các vùng nhiệt đới của châu Á như: Ấn Độ, Miến Điện, Sri Lanka, Thái
Lan, Lào, Việt Nam, Campuchia, Nam Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, Papua
New Guinea, Philippin, quần đảo Solomon, một vài loài trong quần đảo Thái Bình
Dương (Hawai)… [37].
1.3.3. Khóa phân loại của chi Mangifera L.
Chi Mangifera Linnaeus, 1753 gồm 69 loài. Hooker (1862) là người đầu tiên
phân chia chi Mangifera L. thành hai phân chi dựa trên đặc điểm và kích thước của
12
đĩa mật. Sau ông, rất nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra hệ thống phân
loại cho chi Mangifera L. với rất nhiều quan điểm khác nhau. Trong đó, hệ thống
của Kostermans và Bompard 1993 là phổ biến nhất. Trong hệ thống này tác giả đã
dựa trên quan điểm của Hooker chia các loài trong chi Mangifera L. thành hai phân
chi: phân chi Lumus (Marchand) Kosterm (có đĩa mật giống cuống hoa hoặc không
có đĩa mật) và phân chi Mangifera (đĩa mật lớn rộng hơn và nằm phía ngoài bầu
nhụy). Sau đó ông dựa vào 14 đặc điểm khác để phân chi tiếp thành các nhóm nhỏ
hơn và các loài. Phân chi Limus có gần 10 loài trong đó có 2 loài M. odorata. và M.
foetida tìm thấy ở Việt Nam. Phân chi Mangifera được phân chia tiếp thành nhóm :
 Nhóm Marcbandora Pierre: nhóm này có một loài duy nhất M. gedebe Miq.

Theo 2 tác giả này đây chính là hai loài M. Camptosperma và M. reba đã
được Phạm Hoàng Hộ mô tả tại Việt Nam.
 Nhóm Euantberae Pierre: nhóm này có 3 loài trong đó có hai loài M.
cochinchinensis và M. caloneura (hay M. dupperreana Pierre) đã được Phạm
Hoàng Hộ mô tả có mặt ở Việt Nam.
 Nhóm Rawa Kosterm: nhóm này có 9 loài trong đó có loài M. minutifolia
có ở Việt Nam.
 Nhóm Mangifera: nhóm này được phân chia tiếp thành 3 phân nhóm nhỏ
hơn:
− Phân nhóm hoa mẫu 4: có 15 loài
− Phân nhóm hoa mẫu 4-5: có 5 loài trong đó có hai loài M. indica và
M. dongnaiensis có mặt ở Việt Nam.
− Phân nhóm hoa mẫu 5: có 15 loài trong đó có các loài M. indica; M.
laurina (hay M. longipes Griff.) và M. Flava có ở Việt Nam.
Loài M. indica có mặt ở cả hai phân nhóm hoa mẫu 4-5 và hoa mẫu 5. Trong
69 loài, ngoài các loài đã được phân loại trên còn có 12 loài không có vị trí phân
loại chính xác vì không có đủ chứng cứ.
Các đặc điểm mà Kostermans và Bompard (1993) dựa vào để phân loại chi
Mangifera L. gồm có:
(1). Hình dạng đĩa hoa.
(2). Số nhị hoa hữu thụ.
13
(3). Hạt có phức tạp không.
(4). Hình dạng của các nhánh thứ cấp trong cụm hoa.
(5). Lông tơ trên chùm hoa.
(6). Hình dạng, số lượng và đặc điểm gân lá.
(7). Hình dạng kích thước cánh hoa.
(8). Hoa mẫu 4 hay mẫu 5 (đây không phải là đặc điểm cố định, thường kết hợp
cả hai loại).
(9). Mạng lưới gân đặc biệt ở mặt dưới của lá.

(10). Hình dạng lá trưởng thành.
(11). Tính nhất quán của lá.
(12). Cây rụng lá hay cây không rụng lá.
(13). Màu sắc hoa.
(14). Màu sắc và độ mịn của quả.
(15). Số lượng kích thước các sợi xơ ở hạt.
Các đặc điểm được xắp xếp theo theo trình tự mức độ quan trọng trong việc
định loài [37].
Theo Thực vật chí Đông Dương, H. Lecomte đã phân loại chi Mangifera L.
gồm 11 loài trong đó có 9 loài có vị trí phân loại rõ ràng và 2 loài M. reba; M.
camptosperma không có vị trí phân loại xác định [62]. Sau đó 2 loài M. reba và M.
camptosperma được hai tác giả Koster mans và Bompard (1993) xếp vào cùng với
loài M. gedebe, loài M. duperreana tương ứng được gọi dưới một tên khác là M.
caloneura [50].
Theo thực vật chí ba nước Campuchia, Lào, Việt Nam (1962) đã liệt kê và
phân loại 12 loài giống như các loài mà Phạm Hoàng Hộ đã mô tả, trong đó xây
dựng khóa phân loại cho 9 loài, một loài chưa được biết đầy đủ là M. minutifolia và
2 loài không tìm thấy là M. macrocarpa Bl., M. odorata Griff [49].
Do đặc trưng về vị trí địa lí và khí hậu nên số lượng các loài thuộc chi
Mangifera tại Trung Quốc không phong phú như tại Thái Lan, Việt Nam và các
nước nhiệt đới, cận nhiệt đới khác. Theo thực vật chí Trung Quốc chi Mangifera L.
14
chỉ có 5 loài là: M. indica, M. siamensis, M. persiciforma, M. laurina và M.
sylvatica [28].
1.3.4. Chi Mangifera L. ở Việt Nam
Theo Phạm Hoàng Hộ, ở Việt Nam có 12 loài thuộc chi Mangifera L. [8].
Tuy nhiên hai loài M. camptosperma Pierre, và M. reba Pierre được Kosterman và
Bompard (1993) xếp vào một loài chung là M. gedebe Miq [37].
Theo Võ Văn Chi và Nguyễn Tiến Bân ở Việt Nam có 11 loài (bảng 1.1) gồm
các loài như Phạm Hoàng Hộ đã mô tả trừ loài M. cassia [1], [6].

Bảng 1.1 : Một số loài thuộc chi Mangifera L. và phân bố tại Việt Nam.
STT Loài Tên thường gọi Phân bố
1 M. indica L. Xoài Trung và Nam bộ
2 M. odorata Griff. Xoài thơm Miền Nam
3 M. cochinchinensis Engel. Xoài nụt Bình Dương, Đồng Nai
4 M. camptosperma Pierre. Xoài bùi
Bình phước, Bình Dương,
Tây Ninh, Tp Hồ Chí Minh
5 M. dongnaiense Pierre. Xoài Đồng Nai
Lâm Đồng, Đà Lạt, Bình
Dương, Đồng Nai
6 M. duperreana Pierre. Quéo
Lâm Đồng, Ninh Thuận,
Tây Ninh, Bình Dương, Tp
Hồ Chí Minh, Kiên Giang
7 M. reba Pierre. Quéo Đồng Nai
8 M. foetida Lour.
Xoài hôi, muỗm,
xoài cà lăm
Quảng Trị và nhiều nơi khác
9 M. flava Evr. Xoài vàng
Quảng Nam, Lâm Đồng,
Ninh Thuận
10 Ma. longipes Griff.
Xoài núi, Xoài
cọng dài
Hà Nam, Ninh Bình, Kon
Tum, Bình Dương
11 M. minutifolia Evr.
Xoài rừng, xoài

lá nhỏ
Khánh Hòa
15
1.2. Thành phần hóa học của chi Mangifera L.
Cho đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu về thành phần hóa học của các loài
thuộc chi Mangifera L. Trong đó loài M. indica L. là loài phổ biến và được nghiên
cứu nhiều nhất. Thành phần hóa học đáng chú ý gồm có: Các hợp chất phenol và
acid benzoic, coumarin, flavonoid, xanthonoid, tinh dầu (monoterpen,
sesquiterpen), steroid, triterpen và vitamin. Đặc biệt mangiferin, một xanthon
glycoside được nghiên cứu nhiều nhất và là thành phần có nhiều hoạt tính sinh học.
1.2.1. Nhóm các hợp chất của phenol và acid benzoic
Các hợp chất thuộc nhóm này gồm có: acid gallic [40], [43], và các dẫn chất
của nó : methyl galate, n-propylga late [43]. Chúng chủ yếu được tìm thấy ở hoa, lá
và vỏ thân của các loài thuộc chi Mangifera L.
Hình 1.1: Acid gallic và các dẫn chất của nó phân lập từ chi Mangifera L.
Ngoài ra còn có các dẫn chất acid benzoic và acid 3,4-dihydroxy benzoic,
propyl benzoate [43], 5-[2(Z)-heptadecyl] resorcinol [24], 5-(12Cis- heptadecencyl)
resorcinol và 5-pentadecyl resorcinol được tìm thấy trong vỏ thân xoài [26].
1.2.2. Coumarin
Hai hợp chất thuộc nhóm coumarin đã được tìm thấy vỏ thân, vỏ rễ của loài
M. indica: acid ellagic (I) [40], mangcoumarin (II) [39].
(I) (II)
Hình 1.2: Công thức cấu tạo của acid ellagic (I) và mangcoumarin (II).
16
1.2.3. Flavonoid
Flavonoid là một trong những thành phần hóa học chính của chi Mangifera
L., chúng được tìm thấy trong lá, quả và hạt của cây. Các flavonoid được tìm thấy
trong các loài của chi Mangifera L. chủ yếu thuộc các nhóm: Anthocyanidin:]7-O-
methylcyanidin 3-O-β -D-galactopyranoside, 7-O- methylcyanidin [25]; Flavan-3-
ol : catechin, epicatechin [43]; Flavonol có quercetin, [16], [30], quercetin 3-O-

diglycosid, quercetin 3-O- galactosid, quercetin 3-O- glucoside, quercetin 3-O-
xyloside, quercetin 3-O- arabinopyranoside, quercetin 3-O- arabinofuranosid,
quercetin 3-O- rhamnoside, kemferol-3- glucoside [16], myrcetin [30]; Biflavon có:
I-4’, II-4’, I-5, I-5, I-7, II-7-hexahydroxy-[I-3’,II-8]-biflavon [34].

Flavan-3-ol Flavonol

Biflavon Anthocyanidin (paeonidin-3-galactoside)
Hình 1.3: Một số chất thuộc nhóm flavonoid phân lập từ Mangifera L.
1.2.4. Xanthon
Đây là nhóm hoạt chất chính trong các loài thuộc chi Mangifera L Cấu trúc
hóa học chung của nhóm là một bộ khung xanthon có gắn nhiều nhóm OH, nhóm
OH có thể được thay bằng liên kết O-glycosid hoặc C-glycosid với 1 phân tử
đường. Các hợp chất thuộc nhóm này gồm có: mangiferin [16], [30], [32], [33],
homomangiferin [32]; euxanthon; 1,3,5,6,7-pentamethoxyxanthon; 1,3,6,7,8-penta
17
hydroxyxanthon [30], mangiferin-6’-O-galate [16]. Trong đó mangiferin là hoạt
chất có hàm lượng khá cao và cũng là chất có nhiều tác dụng sinh học: kháng virut,
đái tháo đường, chống viêm, điều hòa miễn dịch

Công thức chung của các hợp chất xanthon Mangiferin
Hình 1.4: Các hợp chất nhóm xanthon phân lập từ chi Mangifera L.
1.2.5. Tinh dầu và các hợp chất thơm
Các hợp chất monoterpen và sesquitecpen chính là các thành phần tạo nên
mùi thơm đặc trưng chi Mangifera L Các thành phần này chủ yếu được tìm thấy
trong hoa, vỏ quả, một số được tìm thấy ở lá cây.
Monoterpen

Camphren ∆
2

-Caren ∆
3
-Caren α-Pinen

β-Pinen β- Myrecen Carveol

ρ-Cymene ρ-Geranial Linalol
Hình 1.5: Một số hợp chất monoterpen có trong chi Mangifera L.
Các monoterpen tìm thấy trong các loài của chi này chủ yếu thuộc nhóm các
dẫn chất không chứa oxy như: ∆
2
- và


3
-caren, camphren, limonen, β-myrecen, α-
và β-phellandren, α- và β-pinen, β-ocimen, Cis-ocimen caryophylen, α-terpinolen,
18
α- và γ-terpinen, α-thujen,… Ngoài ra, còn có các dẫn chất chứa oxy gồm có: p-
cymen, carveol, ρ-linalol ,…[14], [38], [39], [44], [47].
Theo một nghiên cứu về tinh dầu chiết xuất từ vỏ quả xoài M. indica L. ở
Nigeria, cho thấy hàm lượng các monoterpen cao (83,2%) trong đó thành phần chủ
yếu là: ∆
3
-caren (58,2%), α-pinen (13,0%) [15].
Sesquiterpen
Các hợp chất sesquiterpen đã tìm thấy ở chi Mangifera L. đều là các hợp
chất có cấu tạo hai vòng như: δ-cadinen, α-cubeben, β-caryophyllen, β-bulnesen, β-
elemene, γ-gurjunen, α-guainen, α-humulen, γ-murolene, β-selinen, valenecen,….
hoặc ba vòng như α-copaen [14], [38], [39], [47].


δ-Cadinen β- Caryophyllen α- Guainen

α- Copaene β-Bulnesen Cadalene
Hình 1.6: Một số hợp chất sesquiterpen từ chi Mangifera L.
Các hợp chất khác
Trong thành phần của tinh dầu xoài còn có các hợp chất khác như:
acetaldehyde, 2-hexenal, nonanal, 2-nonenal, ethyl butanolate, hexenol, methyl
hexanooate, methyl beoate, [14, [39], [44], [47].
1.2.6. Triterpen
Cho đến nay đã tìm thấy khoảng 60 hợp chất triterpen từ các loài thuộc chi
Mangifera L. bao gồm các triterpen pentacyclic và triterpen tetracyclic. Các hơp
chất triterpen pentacyclic gồm có các nhóm như: olean, ursan, [17], [20], [22], [36],
fridelan [17], [18], [22], [29], [30]; lupan [19], [35], [36]; hopan [31]; taraxastan
19
[20], [21], [22], [23] và cycloartan [17], [18], [19], [20], [21], [22], [27]. Trong đó
nhóm cycloartan chiếm số lượng lớn nhất. Công thức chung của nhóm bao gồm bộ
khung cycloartan với một nối đôi ở các vị trí khác nhau (vị trí C số 23, 24, 25) trên
mạch nhánh, các nhóm thế gồm có: một nhóm OH hoặc O gắn vào các vị trí C số 3,
một nhóm OH gắn vào một trong các vị trí 22, 24, 25; nguyên tử carbon số 26, 27
có thể bị oxy hóa thành COOH hoặc CHO, CH
2
OH. Các hợp chất này chủ yếu được
tìm thấy ở vỏ cây.

Acid hydroxy mangiferolic. 3β,24,25-Triol-cycloartane.
Hình 1.7: Cấu trúc một số dẫn chất cycloartan phân lập từ chi Mangifera L.
Anjaneyulu và cộng sự đã phân lập được hai hợp chất teriterpen tetracyclic
nhóm damaran là 3β,20(S)-diol-dermar-24-en (III) [17] [19] và 3-oxo-dammar-24-
en-20S,26a-diol (IV) [20] từ một số thứ của loài M. indica L. của Ấn Độ.


Hình 1.8: Các hợp chất triterpenoid tetracyclic nhóm damaran được phân lập
từ M. indica L.
1.2.7. Steroid
Cho đến nay đã tìm thấy khoảng 9 steroid có trong các loài M. indica, M.
persiciformis, M. sylvatica. Các steroid đã được tìm thấy thuộc hai nhóm khung cơ
bản là pregnan và stigmastan.
R
1
R
2
(III) -OH CH
3
(IV) =O CH
2
-OH
20
Nhóm Pregnan: năm 1992, Anjaneyulu và cộng sự đã phân lập được hai hợp
chất pregnenolon và progesteron từ hoa xoài [19].

Khung Pregnan Pregnenolon Progesteron.
Hình 1.9: Khung pregnan, pregnenolon, progesteron.
Nhóm stigmastan gồm có: β-sitosterol [20], [23], [29], [32], stigmasterol,
stigmas-7en-3β-ol [29], daucosterol, 6β-hydroxy stigmast-4-en-3one [23],
mangdesisterol. Trong đó β-sitosterol được tìm thấy trong hầu hết các bộ phận của
cây Xoài. Các hợp chất còn lại chủ yếu được tìm thấy trong hoa, quả và hạt.

Stigmastan β-Sitosterol Stigmasterol
Hình 1.10: Khung stigmastan và một số dẫn chất stigmastan trong xoài.
1.3. Công dụng và ứng dụng của các loài thuộc chi Mangifera L. trong Y học cổ

truyền và Y học hiện đại
1.3.1. Trong lĩnh vực Y học cổ truyền
Xoài thường được trồng để lấy quả ăn, đóng hộp xuất khẩu. Quả xoài ngon,
bổ dưỡng, có tác dụng nhuận tràng lợi tiểu, ra mồ hôi, giải nhiệt, trị bệnh loạn huyết
và loạn óc, tiêu hóa kém [11]. Xoài thái miếng mỏng ngâm rượu vang với đường,
thêm một ít quế thơm hoặc thái miếng sấy khô làm nguồn vitamin C tự nhiên [13].
Vỏ quả xoài dùng để cầm máu, chống xuất huyết, rong kinh, bạch đới, khái
huyết, chảy máu ruột dưới với liều 20-40g/ngày, sắc uống hoặc dùng dưới dạng cao
lỏng, 10g cao lỏng pha vào 120ml nước, cách 1-2h cho uống một thìa cà phê [11],
[13].
21
Hạch quả dùng để trị giun, kiết lỵ, trĩ, xuất huyết với liều 5-10g/ngày, sắc
uống [1]. Nhân xoài sấy khô tán bột được người dân Ấn Độ, Braxin dùng làm thuốc
tảy giun với liều 1,5-2g. Philipin dùng nước sắc nhân xoài để điều trị tiêu chảy [11].
Vỏ thân xoài có thể dùng tươi hoặc dùng khô. Vỏ tươi đem giã vắt lấy nước
dùng như vỏ quả xoài. Vỏ khô dùng dưới dạng thuốc sắc. Ở Campuchia dùng vỏ
thân xoài để chữa thấp khớp (đắp nóng bên ngoài) hoặc rửa để chữa khí hư, bạch
đới ở phụ nữ.
Nhựa vỏ cây xoài màu nâu đen, không mùi, vị đắng hắc, tiếp xúc không khí
thì đặc lại, khi hòa vào nước có thể dùng để bôi ghẻ [11].
Lá xoài được dùng để trị các bệnh đường hô hấp trên như ho, viêm phế quản,
tiêu chảy kiết lỵ, viêm ngứa ngoài da. Liều 20-30g/ngày, sắc uống [13].
1.3.2. Trong Y học hiện đại
Vỏ thân, vỏ cành, lá xoài dùng để chiết xuất dịch chiết toàn phần hoặc chiết
mangiferin tinh khiết làm thuốc. Trên thị trường Cuba hiện có chế phẩm Vimang®
(dịch chiết toàn phần từ vỏ thân, lá xoài) được sử dụng như một thực phẩm chức
năng để hỗ trợ điều trị một số bệnh miễn dịch, dị ứng, chống oxy hóa, hỗ trợ trong
điều trị HIV. Trên thị trường Việt Nam hiện nay cũng có rất nhiều sản phẩm với
thành phần chính là Mangiferin chủ yếu dùng để chữa bệnh do virus herpes như:
Viên nang cứng Mangoherpin 100mg, kem Mangoherpin 5%,… và diệt khuẩn như

dung dịch Manginovim 60ml.
1.4. Các nghiên cứu về chiết xuất và định lượng mangiferin
1.4.1. Tính chất của mangiferin
Mangiferin là một xanthonoid có công thức hóa học là: C
19
H
18
O
11
(M=
442,35), được Wiechowski (1923) phân lập từ vỏ cây Mangifera indica L Iseda
(1957) đã xây dựng cấu trúc mangiferin. Sau đó Ramanahan và Sechadi (1960) đã
nghiên cứu điều chỉnh lại cấu trúc. Cấu trúc được thừa nhận hiện nay là một
glycoside có phần aglycon có bộ khung xanthon với 4 nhóm hydroxyl và một phân
tử glucose đính vào C số 2 .
22
Hình 1.11: Công thức của mangiferin
Mangiferin có dạng tinh thể hình kim, phiến hay vảy mỏng, màu vàng nhạt,
ít tan trong nước, tan trong methanol, ethanol, aceton nóng. Dễ tan hơn trong hỗn
hợp các dung môi trên với nước. Nhiệt độ nóng chảy: 269 – 270
o
C [10], [12].
1.4.2. Một số qui trình chiết xuất mangiferin
Do đặc tính của mangiferin tan được trong methanol, ethanol nóng nên các
qui trình chiết xuất chủ yếu sử dụng hai loại dung môi này làm dung môi chiết xuất.
Để tinh chế mangiferin có khá nhiều phương pháp nhưng phương pháp được sử
dụng nhiều nhất là kết tinh lại nhiều lần trong dung môi thích hợp. Dưới đây là một
số qui trình chiết xuất magiferin từ vỏ và lá xoài.
Phạm Xuân sinh và Phạm Gia Khôi (1991) đã chiết mangiferin từ vỏ và lá
xoài theo qui trình sau: vỏ hoặc lá sau khi làm sạch sấy khô được chiết ba lần với

methanol, đun sôi cách thủy 1-1,5h. Lọc nóng. Gộp dịch chiết lại để nguội đến nhiệt
độ phòng. Flavonoid thô tủa xuống, lọc lấy tủa. Cho tủa vào một lượng methanol,
đun nóng, thêm một lượng than hoạt, hòa cho tan hết tủa. Lọc nóng. Để nguội, lọc
thu lấy tủa có màu vàng đậm hơn. Làm lại vài lần sẽ thu được mangiferin tinh khiết
hơn. Hiệu suất chiết của vỏ thân là 3%, của lá khô là 1,6% [9].
Shashi Kant Singh và cộng sự chiết mangiferin từ vỏ thân của M. Indica L.
bằng ethanol sau đó tách và tinh chế mangiferin bằng phương pháp sắc kí hấp phụ
theo qui trình: dược liệu sau khi loại chất béo bằng cách chiết kiệt với ether dầu hỏa
trong bình Soxhlet (60-80
o
C, 56h) được chiết kiệt với ethanol 95% (56h). Dịch chiết
thu được cô dưới áp xuất giảm thu được bột vô định hình màu vàng. Bột thu được
được hấp phụ lên cột silicagel (60-120mesh), nhồi cột bằng ether dầu hỏa, rửa rải
bằng hỗn hợp dung môi CHCl
3
/MeOH (1:1) thu được mangiferin màu vàng nhạt
dạng vô đinh hình. Kết tinh lại bằng methanol thu được tinh thể mangiferin hình
kim màu vàng nhạt [45].
23
S. Muruganandan và cộng sự cũng chiết mangiferin bằng ethanol theo qui
trình tương tự nhưng tinh chế bằng phương pháp kết tinh. Dịch chiết ethanol thu
được đem cô dưới áp xuất giảm đến cắn, loại chất béo nhiều lần rồi hòa tan vào
ethanol. Để 2 tuần ở nhiệt độ phòng thu được bột màu trắng ở dạng vô định hình.
Kết tinh lại nhiều lần trong hỗn hợp dung môi H
2
O-EtOAc thu được mangiferin tinh
thể màu vàng, hình kim. Độ tinh khiết được xác định bằng HPLC đạt 95,56% [41].
Để đánh giá khả năng chiết xuất của một số dung môi và hàm lượng
mangiferin từ lá của ba thứ xoài thuộc loài M. indica L., Aranya Jutiviboonsuk và
Chanchai Sardsaengjun đã khảo sát ba dung môi methanol, ethanol và acetone 70%

để chiết xuất mangiferin. Ngâm lạnh 100g bột lá mỗi thứ xoài với mỗi dung môi
chiết xuất ở nhiệt độ phòng, sau một tuần rút dịch chiết và thêm dung môi mới, làm
3 lần. Dịch chiết đem lọc, bốc hơi chân không ở 40
o
C đến cắn. Phân tán cắn vào
50ml hỗn hợp dung môi gồm dung môi chiết xuất và nước (tỷ lệ 1:1, tt/tt). Sau đó
chiết với 100ml dichlomethan x 4 lần. Gạn lấy lớp dung môi-nước đem thủy phân
trong bình hồi lưu với acid sulfuric ở pH=3 trong 1h, khuấy trộn liên tục. Làm lạnh
đến nhiệt độ phòng, lắc với 100ml ethylacetat x 3 lần. Gạn lấy lớp ethylacetat đem
bốc hơi ở 40
o
C trong thiết bị bốc hơi chân không. Cắn thu được được hòa tan vào
methanol 70%

và để tủ lạnh qua đêm (4-8
o
C). Lọc, rửa tinh thể, sấy khô. Kết quả
cho thấy sử dụng methanol chiết theo qui trình trên cho khối lượng mangiferin cao
nhất, và sử dụng aceton cho khối lượng mangiferin thấp nhất [33].
1.4.3. Một số phương pháp định lượng Mangiferin
Dựa vào các đặc tính của mangiferin người ta đã nghiên cứu xây dựng nhiều
phương pháp định lượng hoạt chất này như: phương pháp cân, phương pháp tạp
phức, phương pháp đo phổ tử ngoại, phương pháp sắc kí…
1.4.3.1. Phương pháp cân
Cách tiến hành: Cân chính xác khoảng 10,00g dược liệu lá đã làm nhỏ và xác
định độ ẩm. Chiết bằng chloroform trong bình soxhlet tới khi dịch chiết không màu.
Chiết bằng methanol đến khi dịch chiết trong bình soxhlet nhỏ lên giấy lọc không
cho màu vàng khi hơ trên hơi NH
4
OH. Bốc hơi cách thủy tới cắn. Hòa tan cắn bằng

24
hỗn hợp dung môi aceton : nước (1:1), lọc qua giấy lọc. Cất thu hồi dung môi, cô
đến cắn. Hòa cắn vào methanol nóng để 24h, để mangiferin kết tinh. Lọc, rửa tinh
thể, sấy ở 60
o
đến khối lượng không đổi. Cân và tính ra hàm lượng. Đây là một
phương pháp đơn giản, dễ thực hiện nhưng độ chính xác không cao nên hiện nay ít
được sử dụng [12].
1.4.3.2. Phương pháp đo độ hấp thụ
Mangiferin có khả năng hấp thụ ánh sáng tử ngoại, cực đại hấp thụ ở bước
sóng 369nm. Khoảng nồng độ tuyến tính: 0,001-0,01%. Trong khoảng hàm lượng
này, độ hấp thụ tuân theo định luật Lambert-beer tỷ lệ thuận với nồng độ. Do đó có
thể sử dụng phương pháp đo độ hấp thụ tử ngoại để định lượng mangiferin.
Cân chính xác 1,00g dược liệu đã xác định độ ẩm. Chiết với chloroform
trong bình Soxhlet đến khi dịch chiết không màu. Chiết tiếp với methanol cho tới
khi hết mangiferin. Cho dịch chiết methanol vào bình định mức 100ml, tráng bình
chiết 3lần bằng methanol. Thêm methanol đủ thể tích, lắc đều. Hút chính xác 5ml
cho vào bình định mức 100ml thứ 2, bổ sung đủ thể tích. Dung dịch trong bình định
mức 2 đem đo quang ở bước sóng 369nm, đo 3 lần, lấy kết quả trung bình, mẫu
trắng là methanol. Xây dựng đường chuẩn bằng cách chuẩn bị dãy dung dịch có
nồng độ: 0,0075%; 0,0025%; 0,002%; 0,001% trong methanol. Đo quang ở bước
sóng 369nm với mẫu trắng là methanol.
Đo độ hấp thụ là một phương pháp khá đơn giản có thể thực hiện ở nhiều
phòng thí nghiệm và độ chính xác cao nên có thể dùng để kiểm nghiệm dược liệu
[10].
1.4.3.3. Phương pháp sắc kí sử dụng sắc kí lỏng cao áp (HPLC)
Tác giả Bùi Thị Hằng đã nghiên cứu xây dựng phương pháp sắc kí lỏng cao
áp để định lượng mangiferin. Dung dịch mẫu thử được chuẩn bị như sau: cân 1,00g
dược liệu xay nhỏ đã xác định hàm ẩm. Chiết bằng methanol cho đến khi hết
mangiferin trong bình Soxhlet. Cô cạn dịch chiết đến 80ml, chuyển sang bình định

mức 100ml, thêm methanol đến vạch chuẩn. Dung dịch mangiferin chuẩn có nồng
độ 0,02% trong methanol. Điều kiện sắc kí: pha tĩnh: Hitachi gel 3050, pha động:
25
methanol, cột: 2,5 x 500mm, detector tử ngoại ở bước sóng 369nm, tốc độ dòng:
1ml/phút [7].
Jeping Quen đã xây dựng qui trình định lượng mangiferin như sau: Lá xoài
sau khi làm nhỏ sấy khô, được chiết với methanol 40% trong bình nón, cân và ghi
lại khối lượng của bình. Lắc nhẹ, ngâm 30 phút, siêu âm 40 phút ở nhiệt độ phòng.
Làm lạnh và thêm methanol đủ khối lượng ban đầu. Lọc dịch chiết qua màng lọc
0,45µm - 5µl, sử dụng để tiêm mẫu sắc kí. Điều kiện sắc kí: cột C
18
, dài 250mm x
4,6mm, đường kính hạt nhồi cột 5µm. Pha động: dung dịch phosphoric acid 0,1%
(tt/tt) (dung môi A) và acetonitrile (dung môi B). Chương trình dùng môi: 0 phút:
10% B; 15 phút: 12% B; 20 phút: 15% B; 30 phút : 45% B; 35 phút: 10% B; thời
gian cân bằng sau quá trình rửa rải là 10 phút. Tốc độ dòng 1.0 mL /phút. Detector
UV ở 258nm. Duy trì nhiệt độ 30
o
C. Độ hồi phục trung bình của phương pháp này
ở ba nồng độ là 98,7-101,5%, độ tuyến tính cao (r = 0,9998) đối với cả hai chất trên
một khoảng rộng nồng độ [32].
1.4.3.4. Phương pháp điện di mao quản
Sau khi nghiên cứu các điều kiện tiến hành của phương pháp điện di mao
quản, Chaozan Nong và cộng sự đã đưa ra các thông số của phương pháp này như
sau: hỗn hợp dung môi gồm: dung dịch đệm borat 0,5M (pH = 7,4) và methanol (tỷ
lệ 1:0,3 tính theo tt/tt) điện áp sử dụng là 20kV, bộ phận phát hiện detector UV-VIS
với bước sóng là 254nm. Phạm vi tuyến tính của phương pháp này là 5-1000µg,
giới hạn phát hiện 1,5µg. Độ đúng của phương pháp ở ba nồng độ định lượng (10,
500,1000µg) đều lớn hơn 99% (99,00; 99,38 và 99,14%). Độ lệch chuẩn tương đối
dưới 3%. Điện di mao quản là một phương pháp đơn giản và đáng tin cậy có thể sử

dụng để phát hiện và định lượng mangiferin trong nhiều lĩnh vực có liên quan [42].

×