Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Khảo sát cách sử dụng thuốc chống ung thư tại khoa phụ ung thư bệnh viện phụ sản trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.24 KB, 57 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
NGUYỄN THÙY GIANG
KHẢO SÁT CÁCH SỬ DỤNG
THUỐC CHỐNG UNG THƯ TẠI
KHOA PHỤ UNG THƯ BỆNH VIỆN
PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ
HÀ NỘI- 2014
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
NGUYỄN THÙY GIANG
KHẢO SÁT CÁCH SỬ DỤNG
THUỐC CHỐNG UNG THƯ TẠI
KHOA PHỤ UNG THƯ BỆNH VIỆN
PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ
Người hướng dẫn:
1. ThS. Trịnh Trung Hiếu
2. ThS. Thân Thị Hải Hà
Nơi thực hiện:
1. Bộ môn Dược lâm sàng-
Trường Đại học Dược Hà Nội
2. Bệnh viện Phụ sản Trung Ương
HÀ NỘI – 2014
Lời cảm ơn
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới những người thầy:
ThS.Trịnh Trung Hiếu – Bộ môn Dược lâm sàng, Trường Đại học Dược Hà Nội,
ThS.Thân Thị Hải Hà – Khoa Dược Bệnh viện Phụ sản Trung Ương và ThS.Cao
Thị Bích Thảo – Bộ môn Dược lâm sàng, Trường Đại học Dược Hà Nội đã trực tiếp
động viên, hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khoá


luận tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo của bộ môn Dược lâm sàng
Trường Đại học Dược Hà Nội – những người thầy luôn sẵn sàng chia sẻ những khó
khăn, vướng mắc của tôi trong quá trình học tập cũng như quá trình làm khoá luận.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến toàn thể các bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng, cán
bộ công nhân viên đang công tác tại khoa Dược, khoa Phụ Ung thư, phòng Kế
hoạch tổng hợp đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu.
Cuối cùng, khoá luận tốt nghiệp của tôi sẽ không thể hoàn thành nếu thiếu sự động
viên, giúp đỡ của gia đình và bạn bè. Cảm ơn những người bạn luôn sát cánh, sẻ
chia với tôi trong mọi hoàn cảnh và đặc biệt cảm ơn bố mẹ đã luôn bên con trong
suốt cuộc đời.
Hà Nội, ngày 14 tháng 05 năm 2014
Sinh viên

Nguyễn Thùy Giang
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 40
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
ASHP
(American Society of Health-System Pharmacists)
Hội Dược sĩ Mỹ
ASCO
(American Society of Clinical Oncology)
Hội Ung thư lâm sàng Mỹ
BCCA
(British Columbia Cancer Agency)
Cơ quan Ung thư British
Columbia

BSC
(Biological safety cabinet)
Tủ an toàn sinh học
CAPhO
(Canadian Association of Pharmacy in Oncology)
Hội Ung thư Dược Canada
COSA
(Clinical Oncological Society of Australia)
Hội Ung thư lâm sàng Úc
ISOPP
(International Society of Oncology Pharmacy
Practicioners Standards Committee)
Hiệp hội Quốc tế của Ủy ban
tiêu chuẩn thực hành Dược
NIOSH
(National Institute for Occupational Safety and
Health)
Viện an toàn lao động và sức
khỏe quốc gia Mỹ
OSHA
(Occupational Safety and Health Administration)
Cục an toàn lao động và sức
khỏe Mỹ
SHPA
(Society of Hospital Pharmacists of Australia)
Hội Dược sĩ bệnh viện Úc
Danh mục các bảng
Bảng 2.1. Phân loại sai lệch trong sử dụng thuốc
Bảng 3.1. Đặc điểm về chẩn đoán của bệnh nhân trong nghiên cứu
Bảng 3.2. Tỉ lệ các thuốc điều trị ung thư được chỉ định trong bệnh án

Bảng 3.3. Đặc điểm chỉ định đường dùng các thuốc điều trị ung thư được chỉ định
Bảng 3.4. Đặc điểm lựa chọn dung môi pha loãng cho các thuốc điều trị ung thư
truyền tĩnh mạch
Bảng 3.5. Đặc điểm lựa chọn thể tích dung môi so với khuyến cáo
Bảng 3.6. Đặc điểm lựa chọn tốc độ truyền so với khuyến cáo
Bảng 3.7. Các trường hợp chỉ định có nguy cơ gây tương kị
Bảng 3.8. Đặc điểm quan sát pha chế và thực hiện thuốc của điều dưỡng
Bảng 3.9. Sai lệch trong pha chế và thực hiện thuốc ung thư của điều dưỡng
Bảng 3.10. Tỉ lệ sai lệch trong giai đoạn pha chế thuốc ung thư của điều dưỡng
Bảng 3.11. Tỉ lệ sai lệch trong giai đoạn thực hiện thuốc ung thư của điều dưỡng
Bảng 3.12. Kĩ thuật vô khuẩn trong pha chế và thực hiện thuốc của điều dưỡng
Bảng 3.13. Tỉ lệ thực hiện các biện pháp bảo hộ cá nhân trong thao tác với thuốc
ung thư của điều dưỡng
Danh mục hình
Hình 3.1. Tỉ lệ các chỉ định không phù hợp về đường dùng, lựa chọn dung môi và
thể tích dung môi và tốc độ truyền
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hóa trị liệu là một trong các phương pháp điều trị ung thư quan trọng. Cũng như
đối với các thuốc khác, mục đích của việc sử dụng thuốc trong điều trị ung thư là để
đảm bảo việc đưa được đúng thuốc tới đúng bệnh nhân với đúng liều và dạng thuốc
tại đúng thời điểm để đạt được mục tiêu cải thiện thời gian sống và chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân . Sử dụng thuốc điều trị ung thư phức tạp hơn so với nhiều
thuốc khác do các vấn đề về an toàn và rủi ro. Sai sót về thuốc đối với các thuốc
điều trị ung thư có thể đặc biệt nghiêm trọng do rất nhiều thuốc có chỉ số điều trị
hẹp; độc tính cao dù ở liều điều trị; phác đồ hóa trị liều rất là phức tạp; và bệnh
nhân ung thư là nhóm dễ bị ảnh hưởng do khả năng chịu đựng kém . Trong một
nghiên cứu, sai sót trong sử dụng các thuốc điều trị ung thư là nguyên nhân phổ
biến đứng thứ hai trong các sai sót về thuốc dẫn đến tử vong (chiếm 15.4 % số
trường hợp tử vong) .

Trên thế giới và trong khu vực, việc pha chế thuốc cho hóa trị liệu được thực hiện
tập trung tại khoa Dược và đã cho kết quả rất tốt trên cả ba mặt an toàn, hiệu quả và
tiết kiệm. Thực tế tại hầu hết các bệnh viện ở Việt Nam, trong đó có bệnh viện Phụ
sản Trung Ương, việc tiến hành chuẩn bị thuốc cho hóa trị liệu được thực hiện tại
các khoa lâm sàng và người thực hiện là nhân viên điều dưỡng. Tại thời điểm khảo
sát, bệnh viện cũng chưa có một hướng dẫn cụ thể về kê đơn, pha chế và thực hiện
thuốc điều trị ung thư.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Khảo sát cách sử
dụng thuốc chống ung thư tại khoa Phụ Ung thư Bệnh viện phụ sản Trung Ương”
với mục tiêu
- Khảo sát việc thực hiện thuốc ung thư dựa trên bệnh án của bệnh nhân
- Khảo sát quy trình pha chế và thực hiện thuốc ung thư của điều dưỡng
tiến tới đề ra một quy trình chuẩn pha chế và thực hiện thuốc điều trị ung thư, tăng
cường hiệu quả, an toàn trong quá trình sử dụng thuốc
2
PHẦN 1. TỔNG QUAN
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Thuốc gây độc tế bào (Cytotoxic drugs)
Thuốc gây độc tế bào (thuốc hóa trị liệu-chemotherapy drugs, thuốc điều trị ung
thư-antineoplastic drugs) là các hóa chất tác động đến sự lớn lên và sinh sôi của tế
bào, hầu hết trong số đó hoặc liên quan trực tiếp đến vật liệu di truyền trong nhân tế
bào, hoặc ảnh hưởng đến sự tổng hợp protein của tế bào. Thông thường, thuốc gây
độc tế bào không phân biệt giữa tế bào bình thường và tế bào ung thư .
Thuốc gây độc tế bào thường được dùng cho bệnh nhân suy giảm miễn dịch, và
do hầu hết các loại thuốc này đều ức chế tủy, việc này có thể đặt bệnh nhân vào
nguy cơ cao phát triển nhiễm khuẩn nặng. Vì lý do này, khi pha chế thuốc gây độc
tế bào để tiêm, kĩ thuật vô trùng phải thực hiện tốt để ngăn ngừa nhiễm khuẩn.
Ngoài ra, do hầu hết các hoạt chất đều có chỉ số điều trị hẹp, độ chính xác của việc
chuẩn bị thuốc phải được đảm bảo .
1.1.2. Thuốc độc hại (Hazardous drugs)

Theo AHSP, một chất độc hại tới sức khỏe được định nghĩa là một chất đã có
bằng chứng xác thực về mặt thống kê, dựa trên ít nhất một nghiên cứu tiến hành
trên các nguyên tắc khoa học đã được định trước, có khả năng gây ra các tác động
cấp hoặc mãn tính lên sức khỏe người lao động tiếp xúc với nó, bao gồm các chất
hóa học gây ung thư, các tác nhân có độc tính cao, các độc tố đối với sinh sản, các
chất gây kích thích, các chất ăn mòn, chất gây nhạy cảm (sensitizer), và tác nhân gây
ra tác động lên cơ quan đích .
Theo ISOPP, trong vấn đề phơi nhiễm nghề nghiệp, thuốc độc hại được định
nghĩa là một thuốc gây ra nguy hiểm cho nhân viên y tế do độc tính vốn có của nó.
Những thuốc này được xác định dựa trên một hoặc hơn bốn đặc điểm sau đây: là
những chất gây ung thư; gây độc lên gen; gây quái thai; hoặc độc hại ở liều thấp
trên mô hình động vật hoặc trên những bệnh nhân được điều trị .
3
Thuốc độc hại bao gồm các thuốc điều trị ung thư, thuốc gây độc tế bào và một
số tác nhân khác. Mỗi bộ phận ở những nơi làm việc cung cấp dịch vụ pha chế và
thực hiện thuốc cần phải có một danh sách các loại thuốc độc hại có yêu cầu thao
tác đặc biệt .
1.2. Sai sót liên quan đến thuốc điều trị ung thư
1.2.1. Sai sót liên quan đến thuốc
Sai sót thuốc được định nghĩa là bất cứ sự kiện nào có thể ngăn chặn được mà có
thể dẫn đến sử dụng thuốc không thích hợp hoặc gây hại cho bệnh nhân trong khi
thuốc được sử dụng bởi của chuyên gia chăm sóc sức khỏe, bệnh nhân hoặc người
tiêu dùng .
Một báo cáo của Viện Y học Mỹ (Institue of Medicine) ước tính rằng khoảng từ
44000 đến 98000 ca bệnh nhân tử vong mỗi năm ở Mỹ do sai sót y khoa, nhiều hơn
do tai nạn giao thông, do ung thư vú hay do bệnh AIDS . Dù một số trường hợp là
không thể tránh được, nhiều trường hợp thì có thể ngăn chặn được, trong đó sai sót
về thuốc là một nguyên nhân chính dẫn đến những sự cố như thế . Sai sót về thuốc
là một trong những loại sai sót nghiêm trọng nhất và gây ra những thiệt hại đáng
kể .

Sai sót về thuốc đối với các thuốc điều trị ung thư có thể trở nên đặc biệt nghiêm
trọng do (1) rất nhiều thuốc có chỉ số điều trị hẹp; (2) độc tính cao dù ở liều điều trị;
(3) phác đồ hóa trị liều rất là phức tạp; và (4) bệnh nhân ung thư là nhóm dễ bị ảnh
hưởng bất lợi do họ có khả năng chịu đựng kém . Trong một nghiên cứu, sai sót liên
quan đến các thuốc điều trị ung thư là nguyên nhân phổ biến đứng thứ hai trong các
sai sót về thuốc dẫn đến tử vong (chiếm 15,4% số trường hợp tử vong) . Gần đây,
người ta ước tính rằng 500 trường hợp tử vong xảy ra mỗi năm do sai sót về thuốc
liên quan đến hóa trị liệu ung thư và chỉ có 3% các sai sót đó được báo cáo
Bên cạnh vấn đề bệnh tật và tử vong, chi phí hàng năm dành cho điều trị các
phản ứng phụ do sai sót về thuốc có thể ngăn chặn được được ước tính khoảng 17-
29 tỉ đôla mỗi năm . Sai sót về thuốc là tốn kém cho bệnh nhân, gia đình của họ,
cho bệnh viện, nhân viên chăm sóc sức khỏe, các công ty bảo hiểm, dù vẫn còn có
4
rất ít các ước tính tin cậy về các chi phí này . Riêng đối với sai sót về thuốc lên quan
đến hóa trị liệu, một nghiên cứu đã ước tính rằng nếu các lỗi đã bị ngăn chặn không
được phát hiện ra, họ sẽ có kết quả là thời gian nằm viện kéo dài thêm 216 ngày và
chi phí ước tính hàng năm tiêu tốn tổng cộng 92907 euro, bao gồm 69248 euro
(74%) cho chi phí nằm viện và 23658 euro (26%) cho các loại thuốc bổ sung .
Sai sót về thuốc có thể xảy ra ở bất cứ giai đoạn nào trong quá trình sử dụng
thuốc, từ kê đơn cho đến pha chế, phân phối và thực hiện thuốc trên bệnh nhân.
Hơn thế nữa, quy trình sử dụng thuốc liên quan đến toàn bộ đội ngũ nhân viên y tế,
bác sĩ, dược sĩ, y tá . Sai sót trong hóa trị liệu xảy ra do rất nhiều nguyên nhân, bao
gồm truyền đạt sai chỉ định thuốc bằng lời, thiếu thông tin về tình trạng sức khỏe
bệnh nhân, sử dụng sai thông tin bệnh nhân hoặc sai kết quả xét nghiệm, đóng gói
và ghi nhãn không đạt chuẩn do nhà sản xuất, đơn viết tay không đọc được, tên
thuốc nhìn, phát âm tương tự nhau, sử dụng tên thuốc viết tắt, lỗi sao chép và tính
sai liều, lỗi khi thực hiện thuốc .
Hiện nay trên thế giới, công tác phòng chống sai sót liên quan đến thuốc điều trị
ung thư được coi là một ưu tiên trong các bệnh viện , với nhiều tài liệu khuyến cáo,
hướng dẫn đã được xuất bản để giảm thiểu khả năng xảy ra sai sót . Các hướng dẫn

này bao gồm các khuyến nghị cho một hệ thống phương pháp tiếp cận đa ngành bao
gồm giám sát sử dụng thuốc, hướng dẫn kê đơn, phương pháp pha chế và phân phát,
và thực hiện thuốc.
1.2.2. Sai sót trong giai đoạn kê đơn
Hóa trị liệu được đưa kê dựa trên phác đồ và sử dụng trên nhiều chu kỳ lặp đi lặp
lại. Các thuốc được kê thường có hoạt tính mạnh và độc hại, và thường được dùng ở
dạng dịch truyền. Liều lượng thường được kê dựa trên diện tích bề mặt cơ thể bệnh
nhân và/hoặc chức năng thận. Do sự phức tạp của các phác đồ hiện có, nhiều sai sót
có thể xảy ra trong kê đơn, và các sai sót này có khả năng dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng.
5
Sai sót trong kê đơn được báo cáo là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất
trong các sai sót trong hóa trị liệu. Một nghiên cứu về sai sót trong sử dụng thuốc
gây độc tế bào đường tiêm truyền cho thấy 42% số sai sót về thuốc xảy ra ở giai
đoạn kê đơn của bác sĩ . Trong một nghiên cứu ở Tây Ban Nha, sai sót về thuốc
được phát hiện trên 17,2% số bệnh nhân hóa trị liệu, trong đó 75,7% là sai sót trong
giai đoạn kê đơn thuốc .
Trong một nghiên cứu khác, sai sót trong kê đơn thuốc hóa trị liệu chiếm tỉ lệ cao
nhất (45,14%), trong đó phổ biến nhất là thiếu liều (32,32%), quá liều (16,16%) và
đảo liều (dose reversal) (11,11%) . Nghiên cứu của Díaz-Carrasco 2007 cho kết quả
các sai sót trong kê đơn thuốc hóa trị liệu là: sai liều (38.5%), thiếu thuốc (21.5%),
sai thuốc (11.1%), lỗi về tần suất và thời gian của đợt điều trị (9.6% mỗi loại), sai
bệnh nhân (7,4%), sai tốc độ dùng thuốc (1,5%) và sai đường dùng thuốc (0,7%).
Tất cả lỗi này đều được phân vào mức độ nghiêm trọng B (có sai sót xảy ra nhưng
sai sót này không tới được bệnh nhân) do chúng được phát hiện bởi khoa Dược
trước khi phân phối thuốc. Ít nhất 66/135 lỗi có thể gây ra các phản ứng không
mong muốn tiềm ẩn .
Trong nghiên cứu về sai sót trong kê đơn hóa trị liệu và vai trò của công nghệ
thông tin trong kê đơn, sai sót kê đơn được định nghĩa gồm kê đơn không thích hợp
(không có thông tin khuyến khích sử dụng chế độ điều trị được kê; đơn có khả năng

gây ra các tương tác thuốc, dị ứng thuốc có hại), đơn không đầy đủ (thiếu liều, đơn
vị, đường dùng, loại và thể tích dung môi, thời gian truyền), kê đơn sai (sai thuốc,
sai liều, sai đơn vị, đường dùng, loại và thể tích dung môi, thời gian truyền). Kết
quả của nghiên cứu này cho thấy đơn không đầy đủ (thiếu đường dùng, thể tích
dung môi, số lượng thuốc viên) chiếm tỉ lệ cao nhất, sau đó là kê đơn sai (chủ yếu là
sai liều) và kê đơn không thích hợp. Phần lớn các sai sót này đều được cho là ngăn
chặn được. 72% sai sót được xét là ít gây nguy hại, 3% có khả năng gây thương tổn
lớn hoặc nghiêm trọng .
Nghiên cứu của Slama năm 2005 về sai sót trong kê đơn và sự phù hợp của các
phương pháp phân loại sai sót trong kê đơn thuốc gây độc tế bào phân loại sai sót
6
trong kê đơn thành các sai sót liên quan đến phác đồ (thuốc không hợp lý, thiếu
thuốc, sai liều, sai thời gian đợt điều trị), sai sót liên quan đến tính chất lý hóa (nồng
độ thuốc của dung dịch cuối cùng, tương kị), sai sót liên quan đến thực hiện thuốc
(sai đường dùng so với phác đồ, sai/thiếu thời gian sử dụng) và sai sót khác (đơn
không đủ thông tin hoặc không đọc được). Kết quả cho thấy sai sót chủ yếu liên
quan đến tính chất lý hóa của chế phẩm (73,9%). Việc sử dụng hệ thống kê đơn
máy tính có thể làm giảm thiểu các sai sót này .
Có nhiều nguyên nhân gây ra sai sót trong kê đơn thuốc, như sự mất tập trung
trong lúc kê đơn, không áp dụng các quy định có liên quan, môi trường làm việc,
khối lượng công việc áp lực cao, vấn đề thể chất và tinh thần, thiếu kiến thức, chưa
nhận thức rõ vai trò của kê đơn . Các sai sót trong kê đơn nếu không được phát hiện
ra có thể gây ra các sai sót trong thực hành và ảnh hưởng đến bệnh nhân, tuy nhiên
theo dữ liệu trong cơ sở dữ liệu MEDMARX của Bắc Mĩ, chỉ có 17,7% lỗi trong
giai đoạn kê đơn thực sự tác động được tới bệnh nhân do các sai sót này có thể được
phát hiện và ngăn chặn bởi đội ngũ dược sĩ và điều dưỡng trong quá trình xác nhận,
phân phối và sử dụng thuốc sau đó .
1.2.3. Sai sót trong pha chế và thực hiện thuốc
Giai đoạn pha chế và thực hiện thuốc ung thư gồm nhiều bước phức tạp và tiềm
ẩn nhiều nguy cơ sai sót, các sai sót trong giai đoạn này có thể tác động trực tiếp lên

người bệnh.
Trong các nghiên cứu về sai sót liên quan đến pha chế và thực hiện thuốc, sai sót
liên quan đến thuốc trong giai đoạn này được định nghĩa là những sai lệch trong quá
trình pha chế, thực hiện thuốc so với chỉ định của bác sĩ, hướng dẫn của bệnh viện
và nhà sản xuất .
Trong nghiên cứu của Serrano-Fabia về vai trò của hệ thống đa ngành trong phát
hiện các sai sót liên quan đến thuốc ung thư, sai sót trong pha chế và thực hiện
thuốc chiếm tỉ lệ là 21,0% và 1,1% trong tổng số các sai sót. 70% (41/58 trường
hợp) sai sót trong giai đoạn pha chế ảnh hưởng đến bệnh nhân (67,2% là sai sót
7
dung môi tương hợp không cần can thiệp, 3,4% sai sót có tác động thực sự lên hiệu
quả điều trị do thiếu liều) trong giai đoạn thực hiện thuốc là 66,6% (2/3 trường
hợp). Trong các sai sót ảnh hưởng lên bệnh nhân, tỉ lệ lớn nhất (14,1%) thuộc về sai
sót trong pha chế thuốc dùng đường tĩnh mạch, cụ thể là pha chế thuốc với dung
môi khác với dung môi được quy định trong phác đồ .
Trong nghiên cứu về sai sót liên quan đến thuốc trong hóa trị liệu ở trẻ em trong
cơ sở dữ liệu quốc gia của Mỹ, sai sót trong giai đoạn thực hiện thuốc chiếm tỉ lệ
cao nhất (48,1%), sau đó là phân phối (30,3%) và kê đơn (10,3%). Tỉ lệ lỗi trong
giai đoạn thực hiện thuốc cũng là lớn nhất ở hai nghiên cứu khác ở các đơn vị điều
trị ung thư (43% và 41%) . Một nghiên cứu khác về sai sót liên quan đến thuốc gây
độc tế bào đường toàn thân cho thấy 42% sai sót xảy ra trong giai đoạn pha chế
thuốc ở khoa dược, 16% là do sai sót xảy ra trong quá trình pha chế thuốc của điều
dưỡng và sử dụng thuốc cho bệnh nhân .
Nguyên nhân dẫn đến các sai sót này có thể do thiếu trang bị, thiếu nhận thức về
nguy cơ, thiếu kiến thức, thông tin về thuốc, căng thẳng, áp lực công việc .
1.3. Nguy cơ phơi nhiễm với thuốc độc hại
Đối với bệnh nhân ung thư, lợi ích của việc điều trị vượt xa so với nguy cơ độc
tính của các thuốc ung thư. Tuy nhiên, đối với những người khỏe mạnh, nguy cơ
phơi nhiễm với những thuốc này gây nên nguy cơ tiềm tàng đối với sức khỏe và
sinh sản trong tương lai.

1.3.1. Phơi nhiễm nghề nghiệp với thuốc độc hại
Người lao động có thể bị phơi nhiễm với các thuốc độc hại ở bất kì điểm nào
trong quá trình sản xuất, vận chuyển, phân phối, giao nhận, lưu trữ, pha chế và sử
dụng, cũng như trong xử lý chất thải, bảo trì và sửa chữa thiết bị . Thuốc có thể vào
cơ thể do hít phải, tiếp xúc với da, hấp thu qua da, tiêu hóa phải thực phẩm bị nhiễm
hoặc chạm tay có dính thuốc lên miệng, hoặc do ngẫu nhiên tiêm phải. Tiếp xúc và
hấp thu qua da có thể là con đường phơi nhiễm chính .
8
Nhân viên thao tác với các thuốc độc hải có thể hít phải những giọt nhỏ, bụi và
hơi của thuốc. Nhiều thao tác trong quy trình pha chế và sử dụng thuốc có thể sinh
ra các hạt khí dung như rút tiêm ra khỏi lọ, sử dụng bơm và kim tiên hoặc ống lọc
để luân chuyển thuốc, bẻ ống tiêm , tiêm thuốc vào dây truyền tĩnh mạch, loại khí
khỏi bơm tiêm hoặc đường truyền, và rò rỉ ở ống, bơm tiêm, hoặc ở điểm nối với
khóa vặn, khi cắt kim tiêm và nghiền ống tiêm đã qua sử dụng . Các tiểu phân thuốc
có thể bay vào không khí sau khi làm khô khu vực bị nhiễm. Một số thuốc điều trị
ung thư có thể bay hơi đã được ghi nhận là cyclophosphamid, carmustin,
ifosfamide, thiotepa .
Phơi nhiễm với thuốc qua da có thể phát sinh do thuốc gây độc tế bào có ở phía
ngoài của lọ thuốc. Do đó, môi trường làm việc có thể bị nhiễm thuốc ngay cả trước
khi bắt đầu pha chế thuốc. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng hầu hết các bề mặt
làm việc với thuốc gây độc tế bào đều bị nhiễm các loại thuốc này. Bề mặt làm việc
trong tủ an toàn sinh học (BSC), mặt trên của kệ, sàn nhà, các thiết bị và các bề mặt
khác đã được chỉ ra có bị nhiễm thuốc trong những nghiên cứu từ các nước trên thế
giới. Nguy cơ lớn nhất là tiếp xúc trực tiếp với thuốc qua da trong trường hợp có sự
cố tràn hoặc rò rỉ thuốc xảy ra .
Nhân viên y tế có thể phơi nhiễm với thuốc độc hại do vô ý nuốt phải. Khi thực
phẩm và đồ uống được chế biến, lưu trữ hoặc tiêu thụ trong khu vực làm việc,
chúng có thể dễ dàng bị nhiễm các tiểu phân thuốc gây độc tế bào có trong không
khí. Tương tự như vậy, hút thuốc lá, dùng mỹ phẩm và nhai kẹo cao su cũng có thể
dẫn đến phơi nhiễm thuốc gây độc tế bào qua đường tiêu hóa.

Các thao tác nghề nghiệp có thể dẫn đến phơi nhiễm với thuốc gây độc tế bào
được liệt kê trong phụ lục 1 .
9
1.3.2. Ảnh hưởng của việc phơi nhiễm với các thuốc độc hại
Nghiên cứu được tiến hành bởi Falcket và cộng sự trong những năm 1970 chỉ ra
rằng y tá làm việc trong khu vực pha chế và sử dụng thuốc độc hại không được bảo
hộ có nồng độ các chất gây đột biến trong nước tiểu cao hơn so với những người
không phơi nhiễm . Nghiên cứu này cho rằng nhân viên điều dưỡng đã bị phơi
nhiễm nghề nghiệp với các thuốc gây độc tế bào, nhiều chất trong đó gây đột biến.
Giả thuyết này đã được xác thực bằng nhiều nghiên cứu khác kiểm tra đột biến
trong nước tiểu, sai lệch nhiễm sắc thể, trao đổi các nhiễm sắc thể chị em và các tiêu
chí khác trên dược sĩ và y tá thao tác với các thuốc gây độc tế bào .
Phơi nhiễm với các thuốc độc hại tại nơi làm việc dẫn đến các phản ứng cấp tính
và ngắn hạn, cũng như các tác động lâu dài. Tổng quan của Harrison về nguy cơ khi
thao tác với thuốc gây độc tế bào năm 2001 cho thấy những nhân viên y tế tiếp xúc
với các thuốc độc hại thường gặp phải các triệu chứng cấp tính như kích ứng da,
đau họng, ho, chóng mặt, nhức đầu, phản ứng dị ứng, tiêu chảy, buồn nôn và nôn .
Ngoài ra tổn thương gan và các triệu chứng thần kinh cũng đã được báo cáo trên các
y tá làm việc với hóa trị liệu trong nhiều năm .
Tổng quan của Harrison xem xét 14 nghiên cứu đánh giá các tác dụng bất lợi
trên sinh sản đối với nhân viên y tế tiếp xúc với các thuốc độc hại, 9 trong số các
nghiên cứu này cho thấy kết quả dương tính. Các ảnh hưởng chính lên sinh sản
được tìm thấy trong các nghiên cứu này là làm tăng sẩy thai, dị tật bẩm sinh, thiếu
cân, bệnh bẩm sinh bất thường, và vô sinh .
Một nghiên cứu về nguy hại trên sức khỏe của Elshamy và cộng sự trên các y tá
tiếp xúc với thuốc hóa trị liệu đã báo cáo một số tác động nguy hại đến sức khỏe
giữa các y tá nhóm thử (y tá khoa ung thư) và nhóm chứng (y tá không thuộc khoa
ung thư) như sau: sảy thai (31,4% so với 10,3%), vô sinh và khó có thai (14,3% so
với 3,4%), sinh non (14,3% so với 17,2%), tổn thương mô mềm do sự cố tràn và
bắn hóa chất (14,3% so với 0,0%), và bất thường trong sự phát triển và hành vi của

con cái của các y tá (8,6% so với 3,4%). Mẫu nước tiểu của y tá trong nhóm thử cho
thấy có nhiều chất đột biến hơn so với nhóm chứng (40 % so với 10,3%) .
10
Dựa trên sự bài tiết cyclophosphamide qua nước tiểu ở dược sĩ và y tá, Bob và
Sessink đã tính toán sự hấp thu toàn thân của thuốc. Với mức độ phơi nhiễm 3.6-18
mg/ngày, nhóm tác giả đã đề xuất sự gia tăng nguy cơ ung thư từ 1.4 đến 10 ca ung
thư trên 1 triệu nhân viên mỗi năm . Theo một nghiên cứu khác, phơi nhiễm với
cyclophosphamid 16-80 mg/ngày có thể dẫn đến gia tăng nguy cơ ung thư ước tính
khoảng thêm 7-50 ca ung thư trên 1 triệu người .
Từ những nguy cơ trên, nhiều tổ chức, cơ quan đã đưa ra các tài liệu khuyến
cáo, hướng dẫn về thao tác an toàn với các thuốc độc hại/thuốc ung thư cho mọi
nhân viên y tế có liên quan đến quá trình phân phối, sử dụng các thuốc này .
1.3.3. Biện pháp phòng tránh phơi nhiễm với thuốc độc hại
Việc pha chế, thực hiện, hủy bỏ thuốc độc hại cần được tiến hành bởi các nhân
viên được đào tạo bài bản để bảo vệ chính họ, bảo vệ thuốc và bảo vệ môi trường.
Nhân viên y tế cần thực hiện đúng các hướng dẫn bảo hộ, sử dụng các trang thiết bị
bảo hộ và mặc trang phục bảo hộ để giảm thiểu việc giải phóng các phần tử thuốc
độc hại vào môi trường pha chế, dính vào sản phẩm pha chế và để giảm khả năng
phơi nhiễm của bản thân với nhóm thuốc này. Nhân viên không được ăn uống, nhai
kẹo cao su, dùng mỹ phẩm hoặc trữ đồ ăn gần khu vực pha chế. Nhân viên đang có
thai, dự định có thai hoặc đang cho con bú nên được chuyển sang làm các công việc
khác không phải tiếp xúc với các thuốc độc hại. Người đang mắc các bệnh nhiễm
khuẩn, điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch nên ngừng việc pha chế thuốc nếu có
thể. Nhân viên nên có các khoảng giải lao trong thời gian pha chế thuốc để duy trì
khả năng tập trung .
Các trang phục bảo hộ được khuyến cáo sử dụng bao gồm:
Găng tay: nên đeo hai găng trong bất cứ quá trình nào thao tác với thuốc độc hại
như tiếp xúc với vỏ hộp và lọ thuốc độc hại, pha chế và thực hiện thuốc độc hại, xử
lý rác thải từ thuốc độc hại và rác thải từ bệnh nhân điều trị với thuốc này, lau dọn
khi làm tràn thuốc. Sử dụng loại găng chất lượng cao, không có bột, làm từ latex,

nitrile, polurethan, neoprene, hoặc các chất liệu khác đáp ứng tiêu chuẩn cho găng
11
sử dụng cho hóa trị liệu. Do tất cả các loại găng đều có thểthấm một số chất nhất
định và khẳ năng thấm tăng dần theo thời gian sử dụng nên cần phải thay găng
thường xuyên (mỗi 30 phút hoặc mỗi giờ) trong pha chế/sử dụng thuốc hoặc ngay
khi găng bị rách, thủng, nhiễm hóa chất .
Áo bảo hộ: Nên mặc áo trùm bảo hộ trong pha chế, thực hiện thuốc, xử lý chất
thải từ bệnh nhân điều trị với thuốc độc hại, khi lau dọn do tràn thuốc. Áo trùm cần
phải làm từ chất liệu không có xơ và hủy bỏ được, thấm nước kém/ không thấm
nước, kín hoàn toàn đằng trước và cổ, tay dài có chun co giãn hoặc cổ tay ôm vừa
khít. Áo trùm chỉ mặc trong ngày, không được mặc ra khỏi phòng pha chế và phải
thay ngay khi có hư hại hoặc nhiễm bẩn .
Khẩu trang: Khẩu trang nên được dùng khi pha chế, thực hiện thuốc, lau dọn chỗ
thuốc bị tràn, lau dọn khu vực pha chế hoặc bất cứ khi nào có khả năng phơi nhiễm
với thuốc. Tuy nhiên khẩu trang phẫu thuật thông thường không bảo vệ được nhân
viên y tế khỏi việc hít phải các hạt khí dung . Thông thường việc pha chế thuốc độc
hại được thực hiện trong tủ BSC để đảm bảo an toàn cho người pha chế, tuy nhiên
trong trường hợp không có tủ BSC, OSHA khuyến cáo sử dụng mặt nạ có màng lọc
hiệu suất cao để giảm bớt phơi nhiễm do hít phải .
Kính bảo hộ: Kính được khuyến cáo sử dụng khi bất kỳ nguy cơ văng, bắn thuốc
độc hại nào có thể xảy ra. Trong hầu hết các trường hợp, màn chắn bằng kính của
BSC nên cung cấp đầy đủ sự bảo vệ khỏi khả năng dung dịch thuốc độc hại bắn,
phun ra khi pha thuốc. Nhân viên y tế cần phải đeo kính khi lau vết tràn thuốc .
Các trang phụcbảo hộ khác: mũ trùm tóc và giày bảo hộ nên được dùng trong
quá trình pha chế vô khuẩn để tránh nhiễm khuẩn khu vực pha chế hoặc trong
trường hợp có thể xảy ra bất kì sự nhiễm thuốc độc hại nào .
12
1.4. Tiêu chuẩn thực hành trong pha chế và thực hiện thuốc điều trị ung thư
1.4.1. Tiêu chuẩn thực hành trong pha chế thuốc ung thư
Việc pha chế phải được tiến hành trong tủ an toàn sinh học để giảm thiểu việc phơi

nhiễm với thuốc cho nhân viên. Trong trường hợp không có tủ an toàn OSHA
khuyến cáo sử dụng mặt nạ có màng lọc hiệu suất cao để giảm bớt phơi nhiễm do
hít phải . Dưới đây là các hướng dẫn thao tác an toàn trong pha chế thuốc ung thư
dựa trên tiêu chuẩn của Hội Ung thư Dược Canada (CAPhO) :
o Rửa tay với xà phòng và nước, đeo găng theo hướng dẫn
o Lau lọ thuốc bằng cồn 70% để loại bỏ nhiễm bẩn thuốc độc hại
o Sử dụng kim tiêm có thể tích phù hợp, tránh hút đầy hơn 75% chiều dài ống tiêm
o Mỗi kim không dùng chọc quá 3 lần
o Kiểm tra dung dịch sau hoàn nguyên để đảm bảo thuốc được hòa tan hoàn toàn
trước khi rút khỏi lọ/ống
o Điều chỉnh thể tích dung dịch và/hoặc loại khí trong kim trước khi rút kim ra
khỏi lọ
o Đậy nắp bơm chưa thuốc không dùng cả hai tay, pittong nên được kéo xuống để
loại thuốc ở lõi kim tiêm và gắn với một kim tiêm mới trước khi tiêm thuốc vào
túi truyền hoặc trước khi đưa sang khu vực sử dụng.
o Cắm bộ dây truyền vào túi truyền chứa thuốc độc hại hoặc xả dây truyền bằng
dung dịch thuốc độc hại trong môi trường không được kiểm soát cần phải tránh.
Nên cắm bộ dây truyền vào túi truyền trước khi thêm thuốc vào dung dịch truyền
o Hoàn nguyên thuốc trong lọ:
• Sát khuẩn mạc cao su với gạc tẩm cồn tiệt trùng, để khô hoàn toàn ít nhất 10
giây để diệt khuẩn. Bề mặt lọ phải khô để tránh đưa cồn vào trong lọ
• Sử dụng kĩ thuật rút thuốc áp lực âm để hạn chế việc thuốc thoát khỏi lọ do
áp lực trong lọ quá cao
• Nên sử dụng gạc tiệt trùng tẩm cồn bọc quanh kim và nắp lọ trong khi rút
thuốc khỏi lọ
o Sau khi rút dung dịch khỏi lọ, lau nắp lọ bằng gạc tẩm cồn để loại các giọt nhỏ
thuốc thoát ra khỏi lọ
o Thao tác với ống thuốc
• Gõ vào ống để loại bỏ dung dịch thuốc ở phần trên cổ ống thuốc
• Lau cổ ống thuốc bằng gạc tẩm cồn

13
• Sử dụng thiết bị bẻ ống hoặc bọc gạc xung quanh cổ ống để bẻ ống thuốc,
không sử dụng kẹp Koucher để bẻ ống
o Kiểm tra và ghi nhãn cho sản phẩm đúng quy định
o Rửa tay ngay sau khi tháo bỏ găng
1.4.2. Tiêu chuẩn thực hành trong thực hiện thuốc ung thư
(Nguồn: ASHP-Guidelines on Handling Hazadous Drugs )
o Mặc trang phục bảo hộ: Rửa tay, đeo đôi găng thứ nhất, mặc áo choàng rồi đeo
khẩu trang, sau đeo đôi găng thứ hai.
o Luôn làm việc dưới tầm mắt
o Kiểm tra trực quan thuốc trước khi tiêm truyền
o Đặt một miếng thấm hút có mặt sau làm bằng plastic dưới vị trí tiêm truyền để
thấm thuốc rò ra và ngăn ngừa thuốc tiếp xúc với da bệnh nhân
o Nếu việc xả dây truyền được tiến hành ở khu vực thực hiện thuốc, xả dây truyền
bằng dung dịch tiêm truyền không chứa thuốc độc hại
o Khi loại khí khỏi bơm tiêm hoặc ống truyền, nên chặn đầu kim tiêm, bơm tiêm,
hoặc ống truyền bằng bông vô trùng tẩm cồn để thu hồi bất cứ lượng thuốc điều
trị ung thư nào có thể tình cờ thoát ra
o Luôn tráng dây truyền hoặc ống thông/dây truyền trước và sau mỗi lần thực hiện
thuốc, giữa hai thuốc, bằng dung môi tiêm truyền thích hợp như NaCl 0.9% hoặc
glucose 5%
o Loại bỏ bơm tiêm, chai truyền (vẫn gắn với bộ dây truyền) đã sử dụng vào
túi/hộp chứa rác thải độc hại theo quy định xử lý chất thải y tế
o Tháo và loại bỏ găng cẩn thận, rửa tay sau khi tháo găng
14
PHẦN 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Khảo sát chỉ định thuốc điều trị ung thư của bác sĩ
2.1.1. Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát tình trạng sử dụng thuốc ung thư trên chỉ định của bác sĩ tại khoa Phụ
Ung thư bệnh viện Phụ sản Trung Ương

2.1.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân được chỉ định điều trị
bằng thuốc ung thư tại khoa Phụ Ung thư bệnh viện phụ sản Trung Ương ra viện từ
20/7/2013 đến tháng 20/2/2014. Tiêu chuẩn lựa chọn là các bệnh án tại khoa Phụ
Ung thư được chỉ định điều trị bằng ít nhất 1 thuốc chống ung thư. Tiêu chuẩn loại
trừ là các bệnh án tử vong.
2.1.3. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu
- Phương pháp lấy mẫu: Lấy mẫu thuận tiện, thông tin trên bệnh án được ghi
vào phiếu thu thập thông tin bệnh án (Phụ lục 2).
2.1.4. Chỉ tiêu nghiên cứu
- Tỉ lệ các thuốc điều trị ung thư trong bệnh án
- Tỉ lệ lựa chọn đường dùng thuốc và tỉ lệ đường dùng không phù hợp với
hướng dẫn
- Tỉ lệ dung môi không phù hợp với hướng dẫn
- Tỉ lệ lựa chọn tốc độ tiêm truyền không phù hợp với hướng dẫn
- Tỉ lệ các chỉ định có thể gây tương kị
Việc đánh giá chỉ định thuốc phù hợp/không phù hợp được dựa trên thông tin
trong tài liệu chính là Australian Injectable drugs handbook 4
th
ed và một số tài liệu
khác: AHFS Drug Information , BCCA chemotherapy preparation and stability
chart , Martindale , tờ hướng dẫn sử dụng thuốc. Các thông tin này được tổng kết
trong Phụ lục 4.
15
2.2. Khảo sát quy trình pha chế và thực hiện thuốc ung thư của điều dưỡng
2.2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Khảo sát các sai lệch xảy ra trong quy trình pha chế và thực hiện thuốc ung
thư của điều dưỡng
- Khảo sát việc thực hiện kỹ thuật vô khuẩn trong pha chế và thực hiện thuốc

của điều dưỡng
- Khảo sát việc áp dụng các biện pháp an toàn trong thao tác với thuốc ung thư
của điều dưỡng
2.2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các điều dưỡng tại khoa Phụ Ung thư bệnh viện phụ sản
Trung Ương làm nhiệm vụ pha chế và thực hiện thuốc ung thư.
2.2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, quan sát đơn thuần, thời gian quan sát
từ ngày 10/3/2014 đến ngày 28/03/2014
- Phương pháp quan sát:
Quan sát viên ghi nhận thông tin về điều dưỡng trực, các chỉ định thuốc điều trị
ung thư của bác sĩ trong bệnh án và trong sổ nhặt thuốc của điều dưỡng buổi chiều
trước ngày quan sát vào “Bảng kiểm pha chế và thực hiện thuốc của điều dưỡng”,
được thiết kế dựa trên các chỉ tiêu nghiên cứu (Phụ lục 3)
Quan sát viên quan sát trực tiếp 2 điều dưỡng trực làm nhiệm vụ pha chế thuốc
trong ngày; sau đó theo dõi các điều dưỡng trong khi thực hiện thuốc ung thư cho
bệnh nhân. Thông tin được ghi nhận và đánh giá vào bảng kiểm được chuẩn bị
trước. Tốc độ tiêm truyền được xác định bằng cách bấm thời gian từ lúc bắt đầu đến
lúc kết thúc tiêm truyền thuốc.
Một nghiên cứu thử nghiệm trước được tiến hành từ ngày 3/3/2014 đến
7/3/2014. Trong nghiên cứu thử nghiệm này, quy trình quan sát, phương pháp thu
thập và xử lý số liệu được kiểm tra thử. Kinh nghiệm thu được từ nghiên cứu này
được áp dụng để hoàn thiện quy trình trong nghiên cứu chính thức.
16
2.2.4. Chỉ tiêu nghiên cứu
o Tỉ lệ các sai lệch xảy ra trong giai đoạn pha chế và thực hiện thuốc ung thư của
điều dưỡng
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không đánh giá các sai sót trong sử dụng thuốc
(medication errors) tại khoa. Nguyên nhân là vì việc đánh giá này cần có một công
cụ chuẩn đã được đồng thuận của cơ sở thực hành và có đội ngũ chuyên gia để đánh

giá mức độ nghiêm trọng của các sai sót. Vì nguồn lực có hạn, chúng tôi chỉ đánh
giá các sai lệch trong sử dụng thuốc so với hướng dẫn thực hiện thuốc và các y văn.
Sai lệch trong sử dụng thuốc được định nghĩa là những sai lệch trong quá trình pha
chế, thực hiện thuốc so với chỉ định của bác sĩ, hướng dẫn của bệnh viện và nhà sản
xuất . Các sai lệch quan sát được được phân loại theo bảng 2.1 (chủ yếu dựa trên
cách phân loại của Allan và Baker về sai lệch trong sử dụng thuốc).
Bảng 2.1. Phân loại sai lệch trong sử dụng thuốc
Phân loại Giải thích
Sai lệch trong pha chế
Sai thuốc Sử dụng thuốc không có trong chỉ định
Bỏ thuốc Thuốc được chỉ định nhưng không được pha chế
Liều không
đúng
Lượng thuốc đem ra pha chế khác với liều thuốc được chỉ định
Sai liều do lỗi
pha chế
Thuốc không được pha chính xác về liều (ví dụ: không được hòa
tan hoàn toàn)
Thuốc có nguy
cơ bị hỏng
Thuốc quá hạn dùng, thuốc không được bảo quản đúng (ví dụ:
thuốc nhạy cảm với ánh sáng không được bảo quản tránh ánh
sáng)
Kĩ thuật pha chế
không chính xác
Thuốc được pha chế không đúng cách (ví dụ: sai dung môi hoàn
nguyên, dung môi pha loãng, thể tích dung môi, sai kỹ thuật lắc)
Sai lệch trong thực hiện thuốc
Bỏ thuốc Liều thuốc không được dùng cho bệnh nhân
Kỹ thuật thực

hiện không
đúng
Sử dụng quy trình không thích hợp/ kỹ thuật không đúng trong
thực hiện thuốc (ví dụ: có bọt khí trong bơm tiêm, dây truyền;
không tiêm truyền hết thuốc; không tráng dây truyền trước và sau
17
mỗi lần dùng thuốc)
Tốc độ thực
hiện sai
Tốc độ thực hiện sai khác hơn 10% so với chỉ định của bác sĩ
Đường dùng sai Đường dùng khác với chỉ định của bác sĩ
o Tỉ lệ thực hiện không đúng kỹ thuật vô khuẩn trong pha chế và sử dụng thuốc:
- Không sát khuẩn nắp lọ/ống thuốc trước pha chế
- Cầm nắm, chạm vào pít tông, đầu ăm bu, thân kim tiêm trong quá trình
chuẩn bị thuốc tiêm thuốc, để kim chạm vào các bề mặt nhiễm bẩn
- Sử dụng một bơm kim tiêm pha thuốc duy nhất để pha cho nhiều lọ thuốc
- Tái sử dụng bơm kim tiêm cho pha chế lượt thuốc mới
- Không sát khuẩn vị trí tiêm
- Không sát khuẩn cổng nối kim luồn, chai truyền
o Tỉ lệ áp dụng các biện pháp bảo hộ cá nhân (găng, áo choàng, khẩu trang, kính,
rửa tay sau pha chế) trong thao tác với thuốc ung thư của điều dưỡng
2.2.5. Xử trí khi phát hiện những sai lệch nghiêm trọng
Nếu trong quá trình quan sát phát hiện được các sai lệch có thể gây nguy hại đến
bệnh nhân, người quan sát sẽ nhắc nhở điều dưỡng một cách tế nhị, đảm bảo sai
lệch đấy không xảy ra cho bệnh nhân.
2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được nhập và làm sạch bằng phần mềm Microsoft Access 2010.Sau đó
được đưa vào phần mềm thống kê Stata 12 để thực hiện các phương pháp thống kê
mô tả.
18

PHẦN 3. KẾT QUẢ
3.1. Khảo sát chỉ định thuốc điều trị ung thư của bác sĩ
3.1.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn được 392 bệnh án của những bệnh
nhân ra viện từ tháng 7 năm 2013 đến tháng 2 năm 2014 lưu trữ trên kho hồ sơ ở
hai mã bệnh Chorio và Ung thư của bệnh viện Phụ sản Trung ương để sàng lọc.
Trong số đó 201 bệnh án được chọn, 191 bệnh án bị loại khỏi nghiên cứu do không
thuộc khoa Phụ ung thư (40 bệnh án) và thuộc khoa Phụ ung thư nhưng không có
thuốc ung thư được chỉ định (151 bệnh án).
Trung vị tuổi của bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu là 36 tuổi (khoảng tứ phân
vị: 25-50 tuổi). 100% số bệnh nhân trong nghiên cứu là nữ. Bệnh nhân thuộc nhóm
bệnh nguyên bào nuôi chiếm tỉ lệ cao nhất, gần 60%, sau đó là bệnh ung thư buồng
trứng (33,3%). Đặc điểm về chẩn đoán của bệnh nhân được trình bày cụ thể trong
bảng 3.1.
Bảng 3.1. Đặc điểm về chẩn đoán của bệnh nhân trong nghiên cứu
3.1.2. Đặc điểm chung về chỉ định đường dùng, dung môi, tốc độ
Hình 3.1 đưa ra một cái nhìn khái quát về tỉ lệ các chỉ định thuốc điều trị ung thư
không phù hợp của bác sĩ. Chỉ định tốc độ truyền không phù hợp chiếm tỉ lệ cao
nhất (63,4%), sau đó là chỉ định thể tích dung môi không phù hợp (31,5%), thấp
nhất là chỉ định đường dùng thuốc không phù hợp (3,5%). Thông tin chi tiết của
từng vấn đề này được trình bày ở các phần sau.
Chẩn đoán Số lượng Tỉ lệ (%)
Chorio 5 2,5
Chửa trứng xâm lấn 1 0,5
Mole lớn tuổi 1 0,5
U nguyên bào nuôi 112 55,7
U buồng trứng tái phát 1 0,5
U vú 1 0,5
Ung thư buồng trứng 67 33,3
Ung thư vú 13 6,5

Tổng 201 100

×