* Kinh tế t bản t nhân thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hớng hợp lý, hiệu quả và hiện đại.
Một trong những nội dung quan trọng của tiến trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt Nam là cơ cấu lại nền kinh tế theo hớng tiến bộ về khoa
học và công nghệ nhằm nâng cao nội lực từng bớc hội nhập bình đẳng với hệ
thống kinh tế quốc tế. Trong quá trình đó có sự tham gia tích cực và có hiệu
quả của kinh tế t bản t nhân bằng việc xác lập cơ cấu đầu t cho phù hợp
với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong từng thời kỳ phát triển. Do
u thế nổi trội của các doanh nghiệp t nhân là năng động nhạy bén, linh hoạt
trong đầu t kinh doanh và nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trờng cho nên họ
luôn tìm kiếm phát hiện ngành, lĩnh vực, mặt hàng mà xã hội đang thiếu để có
thể đầu t. Theo số liệu, kinh tế t bản t nhân chiếm đại bộ phận của ngành
nông, lâm, ng nghiệp nh phân vùng chuyên canh, ứng dụng công nghệ sinh
học, cơ giới hoá sản xuất, phát triển công nghiệp, chế biến nông sản, điện khí
hoá nông thôn Kinh tế t nhân còn tham gia đầu t vào các ngành khác nh
thơng mại dịch vụ và cả trong công nghiệp nh công nghiệp may, thực phẩm,
sản phẩm từ cao su, da giày
*Kinh tế t bản t nhân góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại,
hiện đại hoá sản xuất.
Với sự phát triển nhanh cả về quy mô và tốc độ của quá trình hội nhập
quốc tế, các phạm trù giao dịch quốc tế ngày càng mở rộng nh giao dịch
hàng hoá, dịch vụ, thông tin, đầu t, tài chính và Việt Nam đang mở rộng
cửa hợp tác kinh doanh quốc tế theo nguyên tắc đa phơng hoá, đa dạng hoá.
Kinh tế t bản t nhân cũng góp phần đáng kể trong công cuộc ấy với việc tạo
ra khối lợng lớn về hàng xuất khẩu ( nông, lâm, thủy, hải sản, hàng thủ công
mỹ nghệ), đồng thời mở rộng khả năng đầu t và là đối tác thu hút các nguồn
vốn đầu t từ nớc ngoài vào Việt Nam, nhập về máy móc thiết bị công nghệ
hiện đại để qua đó tận dụng và phát huy mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh
tế trong nớc. Việt Nam đang trong quá trình mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia ngày càng sâu rộng và đầy
đủ vào các tổ chức kinh tế thế giới nh: AFTA, APEC và sắp tới là WTO cho
nên không thể thiếu đợc vai trò của khu vực kinh tế t bản t nhân . Với
những thuận lợi vốn có nh linh hoạt nhạy bén phù hợp với sự thay đổi nhanh
chóng, khu vực này đã mang lại một nguồn lợi lớn cho đất nớc. Theo ớc
tính, năm 2001, khu vực kinh tế t bản t nhân phi nông nghiệp nhập khẩu
trực tiếp 3,336 tỷ USD và xuất khẩu đạt 2,851 tỷ USD. Trong những năm vừa
qua, khu vực kinh tế t bản t nhân đóng góp gần một nửa tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nớc. Trong quá trình hội nhập, kinh tế t bản t nhân đã
liên doanh liên kết với nớc ngoài hoặc làm môi giới với nhiều hình thức đa
dạng và linh hoạt để tạo điều kiện thu hút ngoại lực, tận dụng kinh nghiệm
quản lý cũng nh tiếp thu công nghệ mới cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nớc ta. Thực tế có nhiều Công ty của ngời Việt Nam ở nớc ngoài
đang muốn đầu t về quê hơng. Nếu Nhà nớc có chính sách cởi mở về phát
triển kinh tế t bản t nhân và tạo môi trờng an toàn, tin cậy, hấp dẫn đối với
họ thì đây là một nguồn lực không nhỏ (hiện nay mỗi năm tiền từ nớc ngoài
gửi về cho ngời thân ở Việt Nam khoảng 2,7 tỷ USD, phần lớn trong đó là
cho đầu t sản xuất kinh doanh).
Chơng II
thực trạng phát triển kinh tế t bản t nhân
ở nớc ta hiện nay
I. Thực trạng phát triển khu vực kinh tế t bản t nhân ở
nớc ta trong giai đoạn hiện nay
Cùng với việc ban hành các luật, cơ chế chính sách với biện pháp hỗ trợ,
khuyến khích, khu vực kinh tế t bản t nhân đã phát huy sức mạnh nội tại
đầu t vào nhiều lĩnh vực, địa bàn trên cả nớc. Trong báo cáo tổng kết thực
hiện luật Doanh nghiệp từ 2000 cho đến hết tháng 4/2004 cả nớc có 93.208
doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, gần gấp 2 lần số doanh nghiệp đựơc
thành lập trong thời gian trớc đó (trong 9 năm từ 1991 đến 1999 chỉ có
45000 doanh nghiệp đựơc thành lập). Nh vậy cho đến nay cả nớc có
138.208 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo luật doanh nghiệp. Số doanh
nghiệp đăng ký trung bình hàng năm gấp 3,75 lần so với trung bình của những
năm trớc 2000.
1. Phát triển khu vực kinh tế t bản t nhân trong thời gian qua từ
khi có chính sách đổi mới
Thực hiện đờng lối đổi mới của Đảng và Nhà nớc trong 15 năm qua,
kinh tế t bản t nhân tăng nhanh cả về số lợng và đơn vị, vốn kinh doanh và
lao động, phát triển rộng khắp trong cả nớc ở các ngành nghề mà pháp luật
không cấm. Từ năm 1990 về trớc, số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong
cả nớc chỉ có vài trăm doanh nghiệp đợc chuyển đổi từ các tổ hợp tác, từ
các hợp tác xã. Riêng thành phố Hà Nội có khoảng 30 doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh dịch vụ và sản xuất gia công những sản phẩm phục vụ tiêu
dùng nhỏ lẻ trong dân c và phục vụ các ngành sản xuất khác. ở thành phố
Hồ Chí Minh là trung tâm dân c và kinh tế lớn ở phía Nam thì số lợng
doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhiều hơn Hà Nội nhng cũng không vợt
quá con số 100. Còn ở nhiều tỉnh, thành phố khác trong cả nớc chỉ có một vài
doanh nghiệp, thậm chí có những tỉnh đồng bằng, trung du và miền núi không
có doanh nghiệp t nhân nào. Từ 1991 - 1999 có 45.000 doanh nghiệp đăng
ký. Và từ 1/1/2000 đến 9/2003, tức là khi luật Doanh nghiệp có hiệu lực thi
hành, thì có 72.601 doanh nghiệp đăng ký đa tổng số doanh nghiệp t nhân ở
Việt Nam đến 9/2003 lên 120.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động.
Xét về cơ cấu loại hình doanh nghiệp thì tỷ trọng doanh nghiệp t nhân
trong tổng số doanh nghiệp đăng ký giảm từ 64% giai đoạn 1991 - 1999
xuống còn 34% giai đoạn 2000 - 2004. Trong khi đó, cùng với khoảng thời
gian trên, tỷ trọng Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần tăng từ
36% lên 66%. Trong 4 năm qua có khoảng 7.165 công ty Cổ phần đăng ký
thành lập, gấp 10 lần so với giai đoạn 1991 - 1999. Sự thay đổi về tỷ lệ loại
hình doanh nghiệp mới thành lập cho thấy các nhà đầu t trong nớc đã nhận
thức đợc những điểm lợi và bất lợi của từng loại hình doanh nghiệp nên có xu
hớng lựa chọn loại hình doanh nghiệp hiện đại, tạo cơ sở để doanh nghiệp ổn
định, phát triển không hạn chế về quy mô và thời hạn hoạt động với quản trị
nội bộ ngày càng chính quy, minh bạch hơn. Thực tế nói trên phần nào chứng
tỏ các nhà đầu t đã tin tởng vào đờng lối, luật pháp và cơ chế chính sách,
có xu hớng đầu t dài hạn hơn, công khai hơn và quy mô lớn hơn. Theo Báo
cáo của Bộ kế hoạch và đầu t năm 2003, doanh nghiệp t nhân ở nớc ta
chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số doanh nghiệp trong toàn quốc, đóng góp khoảng
26% tổng sản phẩm xã hội, 31% tổng sản lợng công nghiệp, 78% tổng mức
bán lẻ, 64% tổng lợng vận chuyển hàng hoá, tạo ra 49% việc làm phi nông
nghiệp ở nông thôn. Số lợng hộ kinh doanh trong lĩnh vực tiểu thủ công
nghiệp, thơng mại, dịch vụ tăng từ khoảng 0,84 triệu hộ năm 1990 lên 2,2
triệu hộ năm 1996 và khoảng gần 3 triệu hộ tính đến cuối năm 2004. Ngoài ra,
cả nớc còn có khoảng 130.000 trang trại và trên 10 triệu hộ nông dân sản
xuất hàng hoá, trong đó có khoảng 70.000 trang trại có diện tích đất trên 2 ha
và doanh thu trên 100 triệu đồng/năm. Tính đến tháng 6/2003, tổng số doanh
nghiệp t nhân đăng ký kinh doanh lên tới 12 vạn doanh nghiệp (cha kể gần
2 triệu hộ kinh doanh cá thể). Trong đó, các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là 17%, xây dựng 14%, nông
nghiệp 14%, trong lĩnh vực dịch vụ là 55%. Ước tính cả năm 2004 có khoảng
35.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với tổng số vốn đăng ký đạt khoảng
72.000 tỷ đồng. Cũng trong năm này, đã có gần 6.200 doanh nghiệp đăng ký
bổ sung vốn với tổng số vốn bổ sung khoảng 23000 tỷ đồng, tăng 31% so với
vốn đăng ký bổ sung năm 2003. Mức vốn đăng ký trung bình một doanh
nghiệp tăng nhanh từ 570 triệu đồng/1dn thời kỳ 1991 1999 lên 2,015 tỷ đồng
năm 2004.
Điều đáng quan tâm là số lợng vốn huy động đợc qua đăng ký thành
lập mới và mở rộng quy mô doanh nghiệp tăng lên mạnh mẽ. Trong 4 năm,
các doanh nghiệp đã đầu t (gồm cả đăng ký mới và đăng ký bổ sung) đạt trên
182.715 tỷ đồng (tơng đơng khoảng 12,1 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu t
nớc ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ): trong đó năm 2000 là 1,3 tỷ USD,
năm 2001 là 2,3 tỷ USD, năm 2002 là gồm 3 tỷ USD, năm 2003 là khoảng 3,6
tỷ USD và hết tháng 5/2004 là khoảng 1,8 tỷ USD. Từ năm 2000 - 2003, tỷ
trọng vốn đầu t của khu vực t nhân trong tổng vốn đầu t toàn xã hội tăng
lên nhanh chóng: từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2001, lên 25,3% năm 2002
và khoảng 27% năm 2003 và khoảng 29% năm 2004. Tỷ trọng đầu t của
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế t bản t nhân trong tổng nguồn vốn đầu
t xã hội đã liên tục tăng và năm 2004 đã vợt lên hơn hẳn so với tỷ trọng đầu
t của doanh nghiệp Nhà nớc. Tuy nhiên, khu vực này thờng xuyên nằm
trong tình trạng khó khăn về vốn, phần lớn các doanh nghiệp (90%) đều là
doanh nghiệp vừa và nhỏ với số vốn dới 5 tỷ đồng. Số liệu năm 2003 cho
thấy, bình quân vốn của một hội phi nông nghiệp ít hơn 30 triệu đồng, của
trang trại là 94 triệu đồng, của một doanh nghiệp phi nông nghiệp là 3,7 tỷ
đồng. Trong khi đó, vốn vay từ các ngân hàng thơng mại và quỹ hỗ trợ phát
triển còn ít và chiếm tỷ trọng thấp, cha đáp ứng đợc yêu cầu phát triển. Xét
theo khu vực tỉnh, thành phố thì vốn đăng ký mới ở tất cả các tỉnh, thành phố
từ năm 2000 đến 7/2003 đều cao hơn so với số vốn đăng ký thời kỳ 1991 -
1999, trong đó có 33 tỉnh, thành phố đạt tốc độ tăng cao gấp hơn 4 lần; có 11
tỉnh đạt tốc độ tăng cao gấp 10 lần, thậm chí có những tỉnh nh: Quảng Ninh,
Vĩnh Phúc, Hng Yên đạt tốc độ tăng hơn 20 lần. Xét về tỷ lệ gia tăng, vốn
đăng ký mới ở các tỉnh, thành phố phía bắc cũng tăng nhanh hơn và cao hơn
nhiều so với các tỉnh khác, nhất là các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long
và Miền Trung.
Xét về quy mô doanh nghiệp thì thấy quy mô doanh nghiệp ngày càng
lớn. Thời kỳ 1991 - 1999 vốn đăng ký kinh doanh bình quân của một doanh
nghiệp là gần 0,57 tỷ đồng, năm 2000 là 0,96 tỷ đồng, năm 2001 là 1,3 tỷ
đồng, năm 2002 là 1,8 tỷ đồng 7 tháng đầu năm 2003 là 2,12 tỷ đồng. Doanh
nghiệp có vốn đăng ký thấp nhất là 5 triệu đồng và cao nhất là 200 tỷ đồng.
Nhìn chung, số vốn đăng ký cao nhất phổ biến ở các địa phơng khoảng 10 tỷ
đồng. ở Quảng Nam, mức vốn đăng ký bình quân/doanh nghiệp thấp nhất 422
triệu đồng, tiếp đó là Nam Định 544 triệu đồng, mức vốn đăng ký bình quân
doanh nghiệp cao nhất ở Hng Yên gần 3 tỷ đồng, tiếp đó là Quảng Ninh và
Bình Dơng gần 2,5 tỷ đồng; mức vốn đăng ký bình quân doanh nghiệp ở Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh là vào khoảng 1,25 tỷ đồng.
Xét về lao động thì thấy nớc ta có lực lợng lao động dồi dào mỗi năm
có khoảng 1,4 triệu - 1,5 triệu ngời tham gia thị trờng lao động cho nên vấn
đề giải quyết việc làm luôn luôn đợc đặt ra nhằm đảm bảo cho sự phát triển
của kinh tế nói riêng và của đất nớc nói chung. Thực tế ở nhiều địa phơng
cho thấy, lao động trong khu vực kinh tế t bản t nhân là 21.017.326 ngời,
chiếm 56,3% lao động có việc làm thờng xuyên trong toàn xã hội (số liệu
năm 2000). Riêng trong lĩnh vực phi nông nghiệp, số lao động thuộc kinh tế t
bản t nhân là 4.643.844 ngời năm 2000, tăng 20,12% so với năm 1996.
Tính riêng trong 4 năm (1997 - 2000) khu vực kinh tế t bản t nhân thu hút
thêm 997.000.000 lao động, gấp 6,6 lần so với khu vực kinh tế Nhà nớc và từ
năm 2000 - 2003,khu vực kinh tế t bản t nhân đã tạo ra gần 2 triệu chỗ việc
làm mới cho lao động. Từ khi có luật khuyến khích đầu t trong nớc đã thu
hút và tạo việc làm cho 1.516.456 lao động. Theo đó, các doanh nghiệp thuộc
khu vực kinh tế t bản t nhân đầu t trung bình 70 triệu đến 100 triệu đồng
là tạo ra đợc một chỗ làm việc, trong đó đối với doanh nghiệp Nhà nớc thì
số tơng ứng là 210 - 280 triệu.
2. Phát triển khu vực kinh tế t bản t nhân theo ngành nghề sản
xuất kinh doanh và theo vùng lãnh thổ
a. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nông thôn
Nông nghiệp nông thôn chiếm một tỷ lệ lớn trong dân số khoảng 80%
và 70% lực lợng lao động xã hội. Đây là nơi cung cấp lơng thực, thành
phẩm, cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào, đồng thời là thị trờng tiêu thụ
sản phẩm quan trọng của công nghiệp và nhiều ngành kinh tế khác. Chính sự
ổn định và phát triển vững chắc của khu vực này là điều kiện vô cùng quan
trọng cho việc ổn định kinh tế xã hội của đất nớc. Giai đoạn trớc đổi mới,
chúng ta có 16.743 hợp tác xã nông nghiệp và hàng trăm nông trờng quốc
doanh đợc Nhà nớc đầu t hỗ trợ vật chất tinh thần nhng vẫn không đảm
bảo đợc an ninh lơng thực cho đất nớc, nguồn nguyên liệu đầu vào. Cùng
với những yếu kém của khu vực công nghiệp và các ngành kinh tế khác của
đất nớc, chúng ta đã lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng vào cuối những
năm 70 và đầu những năm 80. Sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị
(4/1986), nông nghiệp Việt Nam đã có bớc khởi sắc mới từ nạn thiếu đói
triền miên vơn lên đảm bảo đủ lơng thực trở thành nớc xuất khẩu gạo lớn
trên thế giới (đứng thứ 2 sau Thái Lan). Thật vậy, nếu năm 1990 số lợng các
hộ cá thể khoảng trên 9,4 triệu hộ thì đến 1995 đã lên tới 11,9 triệu hộ hoạt
động trên 9000 xã trong khắp mọi vùng sinh thái. Dới tác động của thị
trờng và quy luật vận động nội tại của hoạt động kinh tế trong nông thôn đã
và đang tồn tại nhiều loại hình kinh tế hợp tác với trình độ khác nhau xuất
phát từ nhu cầu phát triển của các hộ xu hớng hợp tác liên kết để hỗ trợ nhau
"đầu vào, đầu ra" giữa các hộ hiện nay khá mạnh mẽ. Do nhu cầu hợp tác giữa
các hộ trong việc tìm kiếm thị trờng đã trở lên cấp bách và đang rất cần có sự
hớng dẫn hỗ trợ từ phía các cơ quan chức năng của Nhà nớc.
Bên cạnh những điều đạt đợc sự phát triển khu vực kinh tế t bản t
nhân trong lĩnh vực nông nghiệp cũng đặt ra các vấn đề cần giải quyết. Trớc
hết, đa số các hội cá thể tiểu chủ bình quân rộng đất quá bé, quá trình tích tụ
và tập trung ruộng đất để hình thành những trang trại sản xuất hàng hoá quy
mô lớn là khó khăn, chậm chạp. Trong khi đó tốc độ tăng dân số lại quá
nhanh, nhanh hơn nhiều so với mức đất khai hoang đợc cho nên dẫn đến việc
bình quân ruộng đất đầu ngời ít. Hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nớc
ban hành mặc dù có sửa đổi nhiều lần nhng vẫn còn nhiều bất cập, cha thực
sự tạo điều kiện cho kinh tế cá thể phát triển mạnh mẽ theo hớng sản xuất
hàng hoá tập trung trong cơ chế thị trờng. Đồng thời, khu vực kinh tế t bản
t nhân phát triển rất không đồng đều giữa các vùng trong cả nớc. Theo số
liệu thống kê năm 1995 của Ban kinh tế Trung ơng cho thấy 95% số doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế t bản t nhân tập trung ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Trong khi đó ở vùng duyên hải miền Trung
là 10,1% và đồng bằng sông Hồng là 18%. Năm 1997 trong tổng số 29002
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế t bản t nhân thì 18.728 doanh nghiệp
tập trung ở miền Nam chiếm tới 75%, trong khi miền Bắc chỉ có 4.187 doanh
nghiệp chiếm 17% và miền Trung có 2.087 doanh nghiệp 8%. Doanh nghiệp
phát triển nhanh trong tất cả các ngành và ở khắp các địa phơng đã tạo ra cơ
hội phân công lại lao động giữa các khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản và sản
xuất kinh doanh nhỏ của hộ gia đình là khu vực lao động có năng suất thấp,
thu nhập không cao, chiếm số đông, thiếu việc làm song khu vực doanh
nghiệp, nhất là công nghiệp và dịch vụ có năng suất cao và thu nhập khó lớn.
Thực tế từ năm 2000 - 2002 mỗi năm có 700 nghìn lao động đợc tuyển dụng
vào khu vực doanh nghiệp chiếm khoảng 50% lao động đựơc giải quyết có
việc làm hàng năm, đây chính là giải pháp tích cực nhất để thực hiện chuyển
dịch lao động nông nghiệp từ gần 70% hiện nay xuống còn 56 - 57% vào cuối
năm 2005.
b. Trong lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và thơng mại
- Về quy mô lao động và vốn: Nhìn chung các hộ cá thể tiểu chủ có quy
mô nhỏ khoảng 1-2 lao động/hộ. Xét về vốn thì khó có thể xác định mức bình
quân chung vì nhiều loại nghành nghề có nhu cầu vốn khác nhau nhng nhìn
chung là thấp: mức bình quân mỗi Công ty trách nhiệm hữu hạn có số lao
động là 43 ngời và số vốn trên 1 lao động là 50 triệu đồng; doanh nghiệp t
nhân là 13,5 lao động và 23,5 triệu đồng/1 lao động. Xét theo ngành thì ngành
công nghiệp khai thác có số lao động bình quân trong 1 doanh nghiệp là cao
nhát 564 lao động nhng số vốn cho 1 lao động lại thấp khoảng 1 triệu đồng.
Tại thời điểm 1/1/2003, bình quân một doanh nghiệp chỉ có 74 lao động và
22,9 tỷ đồng tiền vốn; so với năm 2000 là 83 ngời và 26 tỷ đồng vốn, đấy là
số liệu điều tra bình quân chung của các doanh nghiệp trong các thành phần
kinh tế. Nếu nói riêng về thành phần kinh tế t bản t nhân thì quy mô còn
nhỏ hơn nhiều, có những doanh nghiệp t nhân có thể gọi là siêu nhỏ với vốn
hoạt động khoảng vài ba chục triệu, lao động từ 5-7 ngời, mặt bằng sản xuất
kinh doanh không có, có khi còn phải lấy nhà ở, sân, vờn làm văn phòng và
nơi sản xuất. Theo điều tra, khu vực kinh tế t bản t nhân bình quân một
doanh nghiệp chỉ có 31 lao động, và 4 tỷ đồng tiền vốn; bằng 7,4 về lao động
và 2,4% về vốn so với doanh nghiệp t nhân và bằng 10,3% về lao động và
2,9% về vốn so với doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài.
- Về doanh thu và nộp ngân sách: doanh thu sản xuất kinh doanh của hộ
cá thể tiểu chủ nhìn chung không lớn và cũng khó xác định bởi tính đa dạng
của ngành nghề, khu vực khác nhau doanh thu vào khoảng một vài cho đến
vài cho đến 4,5 triệu đồng/hộ/tháng. Tính chỉ tiêu tỷ lệ thu trên tổng thu ngân
sách địa phơng ở 1 số địa phơng thì thấy rõ sự đóng góp của khu vực kinh tế
t bản t nhân : thành phố Hồ Chí Minh chiếm 15%, Đồng Tháp 16%; Ninh
Bình 19%
Để hiểu rõ hơn về khu vực kinh tế t bản t nhân , ta đi tìm hiểu thêm về
những đóng góp của khu vực kinh tế này vào sự phát triển nền kinh tế đất
nớc; đồng thời phát hiện những điểm hạn chế, nguyên nhân của nó. Từ đó có
cái nhìn khách quan, toàn diện hơn về khu vực kinh tế t bản t nhân và nêu
ra đợc một số giải pháp nhằm khắc phục những yếu kém trên.
3. Các kết quả đạt đợc, các yếu kém cần khắc phục
3.1. Các thành tựu chủ yếu
* Khả năng huy động vốn và tỷ trọng đầu t của các doanh nghiệp t
nhân tăng một cách đáng kể.
Theo số liệu ớc tính, tỷ trọng đầu t của dân c và doanh nghiệp trong
tổng đầu t toàn xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 27%
năm 2003. Tỷ trọng đầu t của doanh nghiệp t nhân trong nớc liên tục tăng
và đã vợt lên hơn hẳn tỷ trọng đầu t của doanh nghiệp Nhà nớc. Số liệu đã
chứng minh cho ta thấy tỷ trọng đầu t của doanh nghiệp dân doanh trong
tổng đầu t toàn xã hội tơng ứng là 2000 là 19,5%/ 18,25% năm 2001 là
23,5%/19,3%; năm 2002 là 25,9%/16,87% năm 2003 là 26,73%/17,74%. Vốn
đầu t của doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí là
nguồn vốn đầu t chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phơng. Ví dụ đầu t
của các doanh nghiệp dân doanh năm 2002 ở thành phố Hồ Chí Minh đã
chiếm 38% tổng số vốn đầu t toàn xã hội; cao hơn tỷ trọng của vốn đầu t