Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Cận cảnh bệnh tế bào vón pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.58 KB, 5 trang )

Cận cảnh bệnh tế bào vón
Tế bào vón còn được gọi là bệnh dưỡng bào. Vốn dĩ dưỡng bào là một tế
bào có ích giúp cơ thể phản ứng lại các dị nguyên nhưng nếu phát triển
quá mức nó lại gây ra những hậu quả khó lường. Bệnh dưỡng bào có
nhiều loại nên cách thức điều trị cũng như khả năng hồi phục phụ thuộc
từng loại bệnh cụ thể.
Bệnh dưỡng bào là gì?
Bệnh tế bào vón thực chất là tên gọi của một nhóm bệnh phát sinh do dưỡng
bào, được gọi với một cái tên dễ hiểu hơn là bệnh dưỡng bào. Bệnh này là
tình trạng tăng sinh và phát triển quá nhiều tế bào dưỡng bào trong cơ thể.
Người ta vẫn thường quen gọi tế bào dưỡng bào là tế bào dị ứng vì đây là tế
bào chuyên trách dị ứng và hiện thực hoá các phản ứng dị ứng của cơ thể.
Trên nguyên tắc, các phản ứng dị ứng là những phản ứng có lợi để cơ thể
huy động các thành phần miễn dịch cần thiết nhằm tiêu diệt và loại bỏ những
phần tử lạ. Ở đây cụm từ “các thành phần miễn dịch cần thiết” được sử dụng
là nhằm ám chỉ các thành phần như tế bào, kháng thể và bổ thể cùng tham
gia vào phản ứng miễn dịch. Như thế có nghĩa là dưỡng bào là một tế bào có
ích và không thể thiếu trong quá trình tương tác giữa cơ thể và môi trường.
Tuy nhiên, khi tế bào dưỡng bào tăng sinh và phát triển quá mạnh thì cơ sự
lại khác. Cơ thể sẽ lâm vào một tình trạng quá mẫn cảm và nhiều khi nó gây
ra những tổn thương tai hại đến không thể khắc phục được. Đó là bản chất
của bệnh dưỡng bào.

Tổn thương ngoài da ở trẻ em trong
bệnh tế bào vón (ảnh trên). Cấu trúc tế
bào dưỡng bào, căn nguyên chính của
bệnh tế bào vón (ảnh dưới).
Có nguy hại không?
Định nghĩa đầy đủ của bệnh dưỡng bào là: bệnh dưỡng bào là bệnh mà trong
đó xuất hiện và tăng sinh quá nhiều dưỡng bào ở các mô và cơ quan trong cơ
thể. Trong các mô cơ quan này là một cơ quan thường xuyên bị ảnh hưởng.


Trước câu hỏi bệnh dưỡng bào có nguy hại không thì câu trả lời là tùy thuộc
vào thể loại bệnh mà nạn nhân mắc phải. Tại sao lại thế? Vì mỗi thể bệnh
của bệnh dưỡng bào có một đặc điểm khác nhau và có một mức độ nguy hại
khác nhau.
Thông thường người ta chia bệnh dưỡng bào ra làm 3 loại chính: bệnh
dưỡng bào ngoài da, bệnh dưỡng bào hệ thống và bệnh dưỡng bào đặc biệt.
Thể bệnh dưỡng bào ngoài da là thể bệnh mà ở đó tình trạng tăng sinh và
phát triển dưỡng bào quá mức chỉ xảy ra ở da mà thôi. Người bệnh sẽ có các
biểu hiện da quá nhạy cảm, ngứa, nổi mề đay, nổi sẩn và có thể có mụn nước
trong nốt sẩn này. Đặc biệt người bệnh có biểu hiện dương tính khá rõ với
thử nghiệm đặc hiệu - thử nghiệm Darier.
Bệnh dưỡng bào hệ thống là thể bệnh mà sự quá phát của tế bào dưỡng bào
xuất hiện ở nhiều bộ phận khác trong cơ thể bao gồm: gan, lách, hạch,
xương và da. Trong tình trạng này, người bệnh bị nhiều triệu chứng tổn
thương ở các phủ tạng bên trong mà nhiều khi chúng ta khó có sự can thiệp.
Các rối loạn mà người bệnh có thể có như gan to, lách to, viêm gan, hạch
sưng, đau khớp và nổi ban ngoài da. Triệu chứng đau xương khớp là một
triệu chứng khá thường gặp ở những người bị kiểu bệnh dưỡng bào hệ thống
này. Một dấu hiệu khác là người bệnh rất hay bị viêm loét dạ dày do dạ dày
bị mẫn cảm tiết quá nhiều axít.
Thể thứ ba là thể bệnh dưỡng bào đặc biệt. Người ta chỉ gặp hai thể đặc biệt
này mà không thể xếp vào một trong hai thể trên đó là u dưỡng bào và bạch
cầu cấp dòng dưỡng bào.
Trong ba thể bệnh trên thì bệnh dưỡng bào hệ thống và bệnh dưỡng bào thể
đặc biệt là thể bệnh có mức độ ảnh hưởng nhiều nhất. Trong các trường hợp
này, hầu như chúng ta không thay đổi hay can thiệp được gì vì các tạng ở
quá sâu trong cơ thể. Chúng ta khó có thể tạo ra hay làm thay đổi bản chất
hoạt động của các cơ quan này. Chúng ta gần như chỉ điều trị triệu chứng mà
thôi. Còn thể bệnh ngoài da là bệnh đơn giản hơn, chúng ta có thể dùng
thuốc để hạn chế cũng như ngăn chặn nguy cơ xảy ra. Có một điều mừng là

bệnh dưỡng bào ngoài da hầu như ít bị biến chứng sang bệnh dưỡng bào hệ
thống. Và một điều mừng hơn nữa là bệnh này hầu như ít làm rút ngắn tuổi
thọ của chúng ta. Ngay cả hiện tượng “bỗng dưng già” của nạn nhân nọ
không phải là biến chứng hay triệu chứng của bệnh này, nếu như ta giả sử
bệnh nhân này có bị bệnh dưỡng bào thật.
Bệnh có “lạ” không?
Bệnh dưỡng bào không phải là một bệnh lạ. Vì nó đã được mô tả và phát
hiện cách đây 142 năm (1869) và được bổ sung hoàn thiện vào năm 1936.
Cụm từ mô tả chính xác nhất về bệnh này là “bệnh hiếm gặp”. Tỷ lệ hiện
nay của bệnh, do quá ít, nên chưa được thống kê đầy đủ. Theo những số liệu
ban đầu, tần suất mắc bệnh chỉ vào khoảng 0,1 - 0,8%, nghĩa là chưa được
1%.
Người ta thường gọi bệnh dưỡng bào là bệnh của trẻ em vì nó hay xuất hiện
ở lứa tuổi sơ sinh và thiếu nhi, ít khi xuất hiện người lớn. Sau đó bệnh ổn
định. Độ tuổi mà người lớn có thể bị vào khoảng lúc 40 tuổi. Có tới trên
75% số nạn nhân là trẻ em.
Do bệnh không lạ nên phác đồ điều trị cũng được ấn định và hoàn toàn có
cách chữa bệnh này. Hai thuốc điển hình và công hiệu nhất trong bệnh này
là các thế hệ thuốc kháng histamin (mà vẫn quen được gọi là thuốc chống dị
ứng) và thuốc ức chế thụ cảm thể của leukotriene. Các thuốc kháng histamin
có tác dụng làm giảm tác động của histamin nên các tế bào dưỡng bào và do
đó làm giảm đáng kể sự hoạt hoá đến quá mạnh của các tế bào dưỡng bào
gây ra. Các đại diện điển hình như clopheniramin, loratadine, cetirizin. Còn
các thuốc ức chế thụ cảm thể của leukotriene có tác dụng làm ngăn chặn sự
hoạt hoá của chất hoá ứng động trong cơ chế dị ứng. Nó có tác dụng ngăn
ngừa và giảm bớt những phản ứng dị ứng và điều hoà đến ưu việt. Đây là
những thế hệ thuốc khá mới mà một trong các đại diện có thể xướng tên là
montelukast (biệt dược là Singulair).
Ngoài hai thuốc này ra còn một loạt các thuốc khác có thể được dùng tùy
thuộc vào triệu chứng của người bệnh. Chúng bao gồm: thuốc giảm đau

chống viêm, thuốc chống đau đầu, thuốc giãn phế quản, thuốc giảm viêm
khớp, thuốc chống loét dạ dày… Tuy nhiên, trước khi đưa ra người bệnh cần
được khám xét thật kỹ, sử dụng thử nghiệm Darier để bổ sung chẩn đoán,
khám xét tổng thể vì đơn giản là: bệnh dễ bị chẩn đoán nhầm

×