Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Phân tích tình hình triển khai chính sách BHXH ở thị xã sầm sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.9 KB, 31 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với NLĐ nhằm từng
bước mở rộng và nâng cao sự đảm bảo về vật chất, góp phần ổn định đời sống cho
NLĐ khi gặp rủi ro như bị ốm đau, TNLĐ, BNN, thai sản, hết tuổi lao động, qua đời.
Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế đất nước trong thời gian qua, chính sách
BHXH cũng được điều chỉnh, thay đổi để phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế
đất nước và với nguyện vọng của NLĐ.
Là sinh viên khoa Bảo hiểm trường Đại học Kinh tế Quốc dân, qua kiến thức
được học và quá trình thực tập, em thấy rõ được sự cần thiết cũng như vai trò của
chính sách BHXH ở nước ta nói chung và ở BHXH thị xã Sầm Sơn nói riêng. Cũng
như qua tìm hiểu tình hình triển khai chính sách BHXH hiện nay. Nhận thức được vấn
đề này, em đã lựa chọn đề tài: “Phân tích tình hình triển khai chính sách BHXH ở
thị xã Sầm Sơn” làm nội dung nghiên cứu. Nội dung bài viết gồm 3 phần:
Chương I: Chính sách BHXH và tổ chức thực hiện chính sách BHXH ở Việt
Nam.
Chương II: Tình hình triển khai chính sách BHXH ở thị xã Sầm Sơn(2007-2010)
Chương III: Giải pháp thực hiện tốt chính sách BHXH ở thị xã Sầm Sơn.
Qua bài viết này, em xin nêu lên và đóng góp một số ý kiến , suy nghĩ của mình
nhằm hoàn thiện hoạt động của chính sách BHXH ở Sầm Sơn. Do còn hạn chế về
trình độ kiến thức cũng như tài liệu tham khảo nên chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và
hạn chế. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo để chuyên đề
thực tập này được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cám ơn thầy giáo Nguyễn Văn Định đã tận tình
hướng dẫn em trong việc hoàn thành bài viết này cũng như các thầy cô giáo khác đã
cung cấp kiến thức cho em trong khi giảng dạy để em hoàn thiện bài viết này.
CHƯƠNG I: CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ TỔ CHỨC THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1 Chính sách BHXH ở Việt Nam
Ở nước ta, ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước đã
ban hành nhiều sắc lệnh nhằm thực hiện BHXH:
1


• Sắc lệnh số 54/SL ngày 1/11/1945 ấn định những điều kiện cho công chức về
hưu;
• Sắc lệnh 105/SL ngày 14/6/1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức;
• Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí,
thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn, tiền tuất đối với công chức;
• Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 ấn định các
chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công
nhân sản xuất.
Những văn bản trên cho thấy nhà nước ta đã sớm có nhận thức và sớm thực hiện
BHXH theo hình thức hiện đại so với nhiều nước trên thế giới và khu vực, sớm chứng
tỏ là một nhà nước tiên tiến của giai cấp công nhân và người lao động.
Tuy nhiên, phải đến năm 1961, chế độ BHXH đối với công nhân, viên chức nhà
nước mới thực sự thực hiện trên cơ sở thành lập Quỹ BHXH thống nhất toàn quốc
(riêng thời kỳ 61-75: toàn miền Bắc) sau khi Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về
các chế độ BHXH kèm theo Nghị định số 218/CP ngày 27/11/1961 với 6 loại trợ cấp
(ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử
tuất). Quỹ BHXH, lúc này, là quỹ độc lập thuộc ngân sách nhà nước (NSNN) nhưng
nguồn thu chủ yếu từ sự tài trợ của NSNN, tiếp đến là sự đóng góp từ các cơ quan và
xí nghiệp quốc doanh theo % trên tổng quỹ lương (từ 1962 đến 1987: 4,7%, từ 1987
đến 1993: 15%) còn công nhân và viên chức không cần đóng phí BHXH. Việc quản lý
BHXH được giao cho Bộ lao động, Thương binh và Xã hội và Tổng công đoàn Việt
Nam (nay là Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam) đảm trách. Đối với khu vực ngoài
quốc doanh, Điều lệ BHXH đối với xã viên hợp tác xã các tổ hợp sản xuất tiểu thủ
công nghiệp cũng được ban hành (Quyết định 292/BCH-LĐ ngày 15/2/82 của LHX
trung ương) nhưng chỉ được thực hiện trong thời gian ngắn ngủi, từ năm 1982 đến
năm 1989.
Kể từ sau Đại hội VII của Đảng công cuộc đổi mới đất nước đi vào chiều sâu,
trong đó việc đổi mới BHXH để phù hợp với điều kiện kinh tế -xã hội mới là một yêu
cầu bức bách nhằm thực hiện các chính sách xã hội. Việc đổi mới được đánh dấu bằng
việc tách với một bộ phận cấu thành của BHXH - chế độ chăm sóc y tế khi ốm đau

cho người lao động thành một quỹ độc lập: Bảo hiểm y tế (Nghị định 299/HĐBT)
ngày 15-8-1992 ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế) với việc qui định không chỉ người sử
2
dụng lao động mà cả người lao động cũng phải tham gia đóng phí. Tiếp theo đó, ngày
22 tháng 6 năm 1993, Chính phủ lại ban hành Nghị định 43/CP qui định tạm thời chế
độ BHXH mở đầu cho cuộc cải cách sâu rộng, toàn diện BHXH chằm vào mục đích
xóa sự bao cấp của NSNN đối với BHXH, mở rộng diện bắt buộc không chỉ đối với
công nhân, viên chức nhà nước như trước đây mà đối với tất cả người lao động hưởng
lương, qui định lại nguồn thu chi, cơ cấu nguồn thu dùng cho mỗi loại chế độ…
Việc cải cách thực sự đi vào thực tiễn khi hàng loạt các văn bản pháp qui được ban
hành từ năm 1995:
• Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ về việc ban hành Điều lệ
BHXH;
• Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH
Việt Nam;
• Quyết định số 606/ Ttg ngày 26/09/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban
hành Qui chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam;
• Nghị định số 93/1998/NĐ – CP ngày 12/11/1998 của Chính phủ về việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH (ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày
26/01/1995 của Chính phủ)
Như đã nêu trên, việc áp dụng BHXH trên của quốc gia khác nhau thường cùng rất
khác nhau về nội dung thực hiện tùy thuộc vào nhu cầu bức bách của riêng từng nơi
trong việc đảm bảo cuộc sống của người lao động, ngoài ra, còn tùy thuộc vào khả
năng tài chính và khả năng quản lí có thể đáp ứng. Có nước quan tâm thực hiện các
chế độ đảm bảo cho các rủi ro dễ xảy ra trước mắt như chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn
lao động, thai sản, các nước khác lại quan tâm đến các chế độ đảm bảo cho tuổi già,
tuổi hưu trí, cho cái chết. Tuy nhiên, xu hướng chung là theo đà phát triển kinh tế-xã
hội, phù hợp với đặc điểm của từng nơi, bảo hiểm sẽ mở rộng dần về số lượng và nội
dung thực hiện của từng chế độ. Hiện nay nội dung thực hiện BHXH ở Việt Nam theo
qui định tại chương XII Bộ Luật lao động (được Quốc hội thông qua ngày

23/06/1994) bao gồm 5 chế độ sau: Chế độ ốm đau; Chế độ trợ cấp tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp; Chế độ trợ cấp thai sản; Chế độ hưu trí; Chế độ tử tuất. Ngoài ra,
người lao động còn được hưởng chế độ chăm sóc y tế (khám và chữa bệnh) theo Điều
lệ bảo hiểm y tế. Và đặc biệt là kể từ ngày 21/03/2001, người lao động tham gia
BHXH còn được hưởng chế độ trợ cấp nghỉ dưỡng sức (Quyết định số 37/2001/QĐ–
TTg của Thủ tướng Chính phủ).
3
Việc thực hiện BHXH được tiến hành theo 2 hình thức: bảo hiểm bắt buộc và tự
nguyện áp dụng cho 2 nhóm đối tượng khác nhau: người lao động làm công ăn lương
và nhóm người lao động tự do (không có người sử dụng lao động ổn định). Như vậy,
hiện nay căn cứ vào những gì đang diễn ra ở Việt Nam thì BHXH là một chế định
pháp lý nhằm bảo vệ người lao động bằng cách thông qua việc tập trung nguồn tài
chính được huy động từ người lao động, người sử dụng lao động, cộng với sự hỗ trợ
của nhà nước, thực hiện việc trợ cấp vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người
tham gia BHXH và gia đình họ trong các trường hợp người lao động tham gia BHXH
bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động theo luật
định hoặc chết làm họ hoặc gia đình mất hoặc giảm thu nhập bất ngờ.
Ở nước ta, mặc dù đến những năm gần đây, nội dung các chế độ và phương thức
quản lí thực hiện mới được đổi mới theo xu thế hiện đại, phù hợp với nền kinh tế thị
trường đang được xây dựng, nhưng nếu tính từ 1945 đến nay, chúng ta đã áp dụng hầu
hết các chế độ trợ cấp nêu trên chứng tỏ nội dung cơ bản của BHXH đã và đang được
hoàn thiện ở Việt Nam.
1.2 Tổ chức thực hiện chính sách BHXH ở Việt Nam
1.2.1 Mô hình tổ chức BHXH
BHXH Việt Nam được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung thống nhất
từ TW đến địa phương, gồm có:
1. Ở TW là BHXH Việt Nam
2. Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc TW là BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc TW (
sau đây gọi chung là BHXH tỉnh ) trực thuộc BHXH Việt Nam.
3. Ở huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh là BHXH huyện, thị xã, thành

phố trực thuộc tỉnh ( sau đây gọi là BHXH huyện ) trực thuộc BHXH tỉnh
Cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam ở TW như sau:
1. Ban thực hiện chính sách BHXH
2. Ban thực hiện chính sách BHYT
3. Ban thu
4. Ban chi
5. Ban cấp sổ, thẻ
6. Ban tuyên truyền
7. Ban hợp tác quốc tế
8. Ban kiểm tra
9. Ban thi đua, khen thưởng
10.Ban kế hoạch tài chính
11.Ban tổ chức cán bộ
4
12.Văn phòng
13.Viện khoa học BHXH
14.Trung tâm thông tin
15.Trung tâm lưu trữ
16.Trường đào tạo nghiệp vụ BHXH
17.Báo BHXH
18.Tạp chí BHXH
Các tổ chức quy định từ khoản 1 đến khoản 12 là các tổ chức giúp việc cho Tồng
Giám đốc còn các tổ chức quy định từ khoản 13 đến khoản 18 là các đơn vị sự nghiệp
trực thuộc BHXH Việt Nam.
5
Ban c/s BHXH Ban c/s BHYT
Thủ tướng chính phủ
Tổng Giám đốc
Hội đồng quản lý
Phó tổng Giám đốc Phó tổng Giám đốc

Ban TĐ - KT Ban KH - TC Ban chi Ban TC cán bộ
Ban thu Ban tuyên truyên Ban HTQT Ban KT Ban cấp sổ, thẻ Văn phòng
Trường ĐTNV BHXH Báo BHXH TTTT TC BHXH Viện KH BHXH TTLT
Giám đốc BHXH tỉnh
Phó Giám đốc
Phó Giám đốc
P. TC-HC P. GĐCS P. KH-TC P. thu BHXH P. CNTT P. cấp sổ, thẻ
P. GĐ chi P. Kiểm tra
BHXH quận, huyện, thị xã
Sơ đồ 1.1: Tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam
1.2.2 Triển khai thực hiện chính sách BHXH ở Việt Nam
Thực hiện Luật BHXH, số lượng đối tượng tham gia và thụ hưởng BHXH ngày
càng đông, lượng công việc cơ quan BHXH phải giải quyết ngày càng lớn. Từ yêu cầu
thực tiễn, BHXH đã tích cực đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm nâng cao hiệu quả
việc thực hiện chính sách BHXH trên cả nước.
Tập trung vào ba lĩnh vực: cải cách thể chế hành chính, cải cách tổ chức bộ máy,
cải cách tài chính công, BHXH chỉ đạo các phòng chuyên môn và BHXH các huyện,
thành phố thực hiện nhiều giải pháp cho hoạt động này. Tăng cường công tác chỉ đạo,
điều hành, phối hợp giữa các đơn vị trong giải quyết công việc chuyên môn, ngành
cũng tích cực phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan, với đơn vị sử dụng lao động
để thực hiện chính sách BHXH.
Theo chỉ đạo của TW, BHXH tiếp tục duy trì thực hiện cơ chế một cửa để giao
dịch trực tiếp với đơn vị, doanh nghiệp và người lao động. Tại đây, các thủ tục hành
chính được niêm yết công khai, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng nắm bắt thông
tin, giám sát trực tiếp các hoạt động giao dịch.
Quán triệt phương châm “chuyển đổi phong cách hành chính sang tác phong
phục vụ”, BHXH cũng tăng cường đào tạo, bố trí cán bộ các phòng chuyên môn phối
hợp giao nhận hồ sơ tại bộ phận một cửa nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của bộ
phận này, tránh gây ùn tắc khi đối tượng đến nộp hồ sơ đông. Hầu hết các hồ sơ đều
được xử lý, giải quyết nhanh chóng chính xác, giao trả đối tượng đúng hẹn. Đặc biệt,

BHXH các tỉnh cũng chỉ đạo triển khai phòng một cửa, thực hiện cải cách hành chính
theo hướng phân cấp, phân quyền cho BHXH các huyện, thành phố.
Hiện nay, việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết các chế độ, chính sách
BHXH, BHYT, công tác cấp sổ BHXH, cấp thẻ BHXH, BHYT đều được thực hiện tại
các BHXH huyện, thành phố. Cách làm này đã giảm bớt được thời gian, công sức đi
lại của các đơn vị doanh nghiệp, người lao động và nhân dân, đồng thời tạo sự chủ
động trong hoạt động của các đơn vị.
Trong cải cách tổ chức bộ máy, BHXH đã kiện toàn tổ chức bộ máy và không
ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức. Với việc phát động cán bộ công
chức trong ngành tăng cường nghiên cứu, nắm bắt chính sách BHXH, BHYT để nâng
6
cao trình độ chuyên môn, nâng cao tinh thần trách nhiệm được giao, cơ quan BHXH
cũng tăng cường đầu tư cho cán bộ học tập, nâng cao trình độ nghiệp vụ đồng thời
quan tâm đổi mới tác phong, giao tiếp của cán bộ, quan tâm xây dựng nếp sống văn
hóa, văn minh công sở trong ngành BHXH.
Xác định công nghệ thông tin là yếu tố quan trọng trong thực hiện cải cách hành
chính, BHXH đã chủ động đào tạo, nâng cao trình độ tin học cho cán bộ để vận hành
các chương trình phần mềm như cấp và quản lý thẻ BHYT, xét duyệt các chế độ
BHXH dài hạn, ốm đau, thai sản, dưỡng sức, quản lý chi trả lương hưu và trợ cấp
BHXH hàng tháng, thanh toán viện phí, tiếp nhận hồ sơ, quản lý thu BHXH, kế toán,
cấp và quản lý thẻ BHYT tự nguyện.
BHXH các huyện, thành phố cũng triển khai phần mềm thanh toán viện phí,
quản lý thu và kế toán. Bên cạnh đó, toàn ngành cũng tích cực thực hiện các quy chế
tài chính do BHXH Việt Nam quy định, quản lý chi phí hành chính góp phần thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc cho cán
bộ công chức tạo điều kiện nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sử dụng tài
chính công.
Việc đẩy mạnh cải cách hành chính trong ngành đã mang lại hiệu quả thiết thực.
Đối tượng tham gia BHXH, BHYT ngày càng tăng, chất lượng công tác phục vụ được
nâng cao, các chế độ BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp của đối tượng được bảo

đảm kịp thời theo đúng quy định, đơn thư, kiến nghị giảm.
Để tiếp tục thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý, thực hiện chính sách BHXH, các nhiệm vụ đang được BHXH chỉ đạo
thực hiện là tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về Luật BHXH, Luật
BHYT nhằm nâng cao nhận thức cho chủ sử dụng lao động, người lao động, tích cực
mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp, từng bước tiến tới
mục tiêu BHXH cho mọi người lao động và BHYT toàn dân.
Trong cải cách hành chính, BHXH quan tâm đến nguyện vọng của các đối tượng
BHXH, chú trọng xây dựng niềm tin đối với khách hàng, không gây khó khăn, phiền
hà cho nhân dân khi đến giao dịch. Bên cạnh đó, ngành cũng tăng cường công tác
thanh, kiểm tra trong nội bộ ngành, đối với các cơ quan, đơn vị sử dụng lao động và
các cơ sở khám chữa bệnh BHYT nhằm phát hiện sớm và xử lý kịp thời những sai
phạm trong thực hiện chính sách BHXH.
1.2.3 Nhận xét chung về chính sách BHXH ở Việt Nam
7
1.2.3.1 Những kết quả đạt được
Thứ nhất, chính sách BHXH ra đời sẽ ổn định cuộc sống của NLĐ, trợ giúp
người lao động khi gặp rủi ro: ốm đau, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, thất
nghiệp sớm trở lại trạng thái sức khỏe ban đầu cũng như sớm có việc làm
Theo phương thức BHXH, NLĐ khi có việc làm và khỏe mạnh sẽ đóng góp một
phần tiền lương, thu nhập vào quỹ dự phòng. Quỹ này hỗ trợ người lao động khi ốm
đau, tai nạn, lúc sinh đẻ và chăm sóc con cái, khi không làm việc, lúc già cả để duy trì
và ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình của họ. Do vậy, hoạt động của
chính sách BHXH, một mặt, đòi hỏi tính trách nhiệm cao của từng NLĐ đối với bản
thân mình, với gia đình mình và đối với tất cả cộng đồng, xã hội theo phương châm
“mình vì mọi người, mọi người vì mình” thông qua quyền và nghĩa vụ; mặt khác, thể
hiện sự gắn kết trách nhiệm giữa các thành viên trong xã hội, trách nhiệm của thế hệ
đi trước với các thế hệ sau trong một quốc gia, tạo thành một khối đoàn kết thống nhất
về quyền lợi trong một thể chế chính trị - xã hội bền vững.
Người SDLĐ cũng phải có trách nhiệm đóng góp BHXH cho NLĐ. Nếu theo

nhìn nhận ban đầu của chủ SDLĐ, việc đóng góp BHXH cho NLĐ có thể sẽ làm tăng
chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhưng thực chất, về lâu dài,
phương thức BHXH đã chuyển giao trách nhiệm bảo vệ người lao động khi gặp rủi ro
về phía xã hội, rủi ro được điều tiết trên phạm vi toàn xã hội, từ đó giúp cho chủ
SDLĐ bớt những khó khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh nghiệp, yên tâm tổ
chức sản xuất, kinh doanh. Đối với nước ta, nguồn lao động với trình độ chuyên môn
cao, NLĐ có mức thu nhập ở mức bình quân chung toàn xã hội là chủ yếu thì biện
pháp điều tiết thu nhập mang tính cộng đồng là rất cần thiết. Thực tế cho thấy, nhiều
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến thủy sản, hải sản; da giày; dệt may
sử dụng nhiều lao động, nhất là doanh nghiệp có nhiều lao động nữ đều rất coi trọng
chính sách BHXH để bảo vệ và duy trì nguồn lao động của doanh nghiệp mình.
Trong hoạt động BHXH, Nhà nước cũng đứng ra tiến hành xây dựng chính sách,
chế độ, tổ chức triển khai và giám sát quá trình thực hiện nhằm thực hiện tốt quyền và
nghĩa vụ của người tham gia BHXH. Như vậy nhà nước giữ vai trò quản lý về BHXH,
bảo hộ cho quỹ BHXH mà không phải chi từ ngân sách nhà nước cho lĩnh vực này.
Mặt khác, chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, giúp
Nhà nước điều tiết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và xã hội trên phương diện vĩ
8
mô, bảo đảm cho nền kinh tế liên tục phát triển và giữ gìn ổn định xã hội trong từng
thời kỳ cũng như trong suốt quá trình.
Thứ hai, chính sách BHXH ra đời, nhất là chế độ hưu trí đã góp phần ổn
định cuộc sống của NLĐ khi hết tuổi lao động hoặc không còn khả năng lao động.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, NLĐ tham gia đóng BHXH từ 20 năm
trở lên khi hết tuổi lao động hoặc mất sức lao động thì sẽ được hưởng lương hưu hoặc
trợ cấp hằng tháng. Với nguồn lương hưu và trợ cấp BHXH này, người cao tuổi sẽ có
một khoản thu nhập ổn định, bảo đảm cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Hiện nay, cả
nước đã có khoảng hơn 2,5 triệu người hết tuổi lao động đang hưởng lương hưu và trợ
cấp BHXH hằng tháng với số tiền chi trả từ quỹ BHXH hàng nghìn tỉ đồng mỗi tháng.
Trong nhiều năm qua, kể từ khi chính sách BHXH được thực hiện, cùng với sự phát
triển kinh tế, mức lương hưu cũng không ngừng được điều chỉnh cho phù hợp với

mức sống chung của toàn xã hội. Vào các thời điểm tăng mức lương tối thiểu chung
cũng như việc xem xét chỉ số giả cả, Nhà nước cũng đều đã có sự điều chỉnh lương
hưu một cách hợp lý. Mức lương hưu không ngừng được điều chỉnh cho phù hợp với
mức sống chung toàn xã hội tại thời điểm hưởng lương hưu đã bảo đảm cuộc sống của
người nghỉ hưu, tạo sự an tâm, tin tưởng của người về hưu sau cả cuộc đời lao
động. Sở dĩ có được điều kiện nâng cao và mở rộng các quyền lợi của BHXH là do
phương thức tài chính ở nước ta được hình thành theo cách lập quỹ và có sự tính toán
điều chỉnh quan hệ đóng - hưởng trong phạm vi toàn xã hội theo những dự báo về các
yếu tố kinh tế - xã hội trong tương lai. Theo phương thức lập quỹ, NLĐ trước hết phải
có trách nhiệm với bản thân trong việc đóng góp lập quỹ BHXH, dành dụm cho mai
sau, tránh tình trạng đẩy toàn bộ gánh nặng chi trả cho thế hệ mai sau. Mặt khác, với
việc lập quỹ BHXH đã gắn kết được trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp trong cùng
chính sách BHXH. Chính sự phát triển với tốc độ nhanh của nền kinh tế nước ta của
thế hệ đương thời theo truyền thống “con hơn cha” góp phần cải thiện rõ nét mức sống
của người về hưu đã có đóng góp một phần trước đây. Vì vậy, nguồn quỹ BHXH
được Nhà nước bảo hộ và phát triển cân đối bền vững sẽ là cơ sở để cải thiện không
ngừng các chế độ BHXH nói chung và đời sống của người nghỉ hưu nói riêng.
Thứ ba, thực hiện chính sách BHXH góp phần ổn định và nâng cao chất
lượng lao động, bảo đảm sự bình đẳng về vị thế xã hội của NLĐ trong các thành
phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy sản xuất phát triển.
9
Chính sách BHXH hoạt động dựa trên nguyên tắc cơ bản “đóng - hưởng” đã tạo
ra bước đột phá quan trọng về sự bình đẳng của NLĐ về chính sách BHXH. Khi đó,
mọi NLĐ làm việc ở các thành phần kinh tế, các ngành nghề, địa bàn khác nhau, theo
các hình thức khác nhau đều được tham gia thực hiện các chính sách BHXH. Phạm vi
đối tượng tham gia BHXH không ngừng được mở rộng và thu hút hàng triệu NLĐ
làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau, khuyến khích họ tự giác thực hiện
nghĩa vụ và quyền lợi BHXH tạo sự an tâm, tin tưởng và yên tâm lao động, sản xuất,
kinh doanh.
NLĐ tham gia BHXH khi ốm đau sẽ được khám chữa bệnh và được quỹ BHYT

chi trả phần lớn chi phí; được nhận tiền trợ cấp khi ốm đau không đi làm được, được
nghỉ chăm con ốm; khi thai sản được nghỉ khám thai, được nghỉ khi sinh đẻ và nuôi
con, được nhận trợ cấp khi sinh con và trợ cấp thai sản; khi bị tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp sẽ được nhận phần trợ cấp do giảm khả năng lao động do tai nạn,
bệnh nghề nghiệp gây ra. Ngoài ra, NLĐ còn được nghỉ dưỡng sức và phục hồi sức
khỏe sau khi ốm đau, sinh đẻ hay điều trị thương tật nhằm nâng cao thể lực. Khi NLĐ
mất việc làm sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp và được giới thiệu việc làm hoặc gửi
đi học nghề để có cơ hội tìm kiếm việc làm mới. Với những quyền lợi như trên của
NLĐ khi tham gia BHXH đã góp phần thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã
hội, giữ gìn và nâng cao thể lực cho NLĐ trong suốt quá trình lao động, sản xuất. Việc
được tham gia BHXH khi đang làm việc và được hưởng lương hưu sau này đã tạo ra
cho NLĐ sự phấn khởi, tâm lý ổn định, an tâm vào việc làm mà họ đang thực hiện.
Thực tế là nhiều doanh nghiệp, khi tuyên truyền quảng cáo tuyển dụng lao động, thì
tiêu thức được tham gia BHXH cũng là một quyền lợi quan trọng thu hút được nhiều
lao động.
Sự an tâm của NLĐ cũng như việc bảo vệ sức lao động của họ thông qua chính
sách BHXH đã trở thành một chính sách thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã
hội, bảo đảm sự ổn định kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ tư, BHXH là một công cụ đắc lực của Nhà nước, góp phần vào việc phân
phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư,
đồng thời giảm chi cho ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội bền vững.
Trên thị trường lao động, “tiền lương là giá cả của sức lao động” được hình
thành tự phát căn cứ vào quan hệ cung cầu, vào chất lượng lao động cũng như các
10
điều kiện khung mà trong đó Nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý thông qua những quy
định về mức lương tối thiểu và những điều kiện lao động cần thiết. Quá trình hình
thành tiền lương theo thỏa thuận giữa chủ SDLĐ và NLĐ là sự phân phối lần đầu và
phân phối trực tiếp cho từng NLĐ. Do vậy, NLĐ có tay nghề cao, có nghề nghiệp
thích ứng với nhu cầu của xã hội sẽ có thu nhập cao. Đó là sự hợp lý và khuyến khích
làm giàu chính đáng. Sau khi đã thực hiện thuế thu nhập, Nhà nước sẽ tiến hành phân

phối lại thông qua chính sách BHXH. Khi đó, người có năng lực hơn, nhận được tiền
lương cao hơn sẽ đóng góp nhiều hơn cho xã hội để trợ giúp những người “yếu thế”
hơn trong xã hội. Một bộ phận lao động khác do gặp phải rủi ro trong cuộc sống như
về sức khỏe, về năng lực, về hoàn cảnh gia đình có việc làm và thu nhập thấp hơn sẽ
nhận được các quyền lợi BHXH để duy trì cuộc sống. Bên cạnh đó, chế độ hưu trí, tử
tuất với nguyên tắc tương đồng giữa mức đóng và mức hưởng đã khuyến khích NLĐ
khi làm việc có thu nhập cao và đóng góp ở mức cao, với thời gian dài thì sau này sẽ
được hưởng tiền lương hưu với mức cao, an tâm nghỉ ngơi khi tuổi già.
BHXH đều được thực hiện theo nguyên tắc đóng - hưởng, có nghĩa là người
tham gia đóng góp vào quỹ BHXH thì người đó mới được hưởng quyền lợi về BHXH.
Như vậy, nguồn để thực hiện chính sách là do NLĐ đóng góp, Nhà nước không phải
bỏ ngân sách ra nhưng vẫn thực hiện được mục tiêu an sinh xã hội lâu dài.
1.2.3.2 Những vấn đề còn tồn tại
a.Về công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Chính phủ và các bộ chức năng đã sớm ban hành được các văn bản hướng dẫn
thực hiện một số quy định nhưng những điều khoản trong các văn bản này còn chưa rõ
và có nhiều vướng mắc trong thực hiện từ đó tạo điều kiện cho một số đối tượng có
hành vi gian lận BHXH, cụ thể là:
- Một số nội dung còn vướng mắc do hướng dẫn chưa rõ như: giải quyết tính
hưởng BHXH đối với trường hợp doanh nghiệp sau cổ phần hóa tiếp tục xếp hạng
doanh nghiệp; xác định được mức thu nhập chính xác hằng tháng của NLĐ; trách
nhiệm nuôi dưỡng đối với thân nhân hưởng chế độ tử tuất để giải quyết tuất hằng
tháng, tuất một lần; hướng dẫn thủ tục, trách nhiệm trong việc giải quyết chế độ đối
với bệnh binh hoặc công nhân viên chức hưởng trợ cấp mất sức lao động đồng thời là
thương binh
- Một số nội dung chưa có văn bản hướng dẫn như: quy định việc giám định
mức suy giảm khả năng lao động của người lao động để hưởng trợ cấp tai nạn lao
11
động - bệnh nghề nghiệp tổng hợp; khen thưởng đối với đơn vị sử dụng lao động làm
tốt công tác an toàn vệ sinh lao động theo quy định tại khoản 2 Điều 133 Luật Bảo

hiểm xã hội; thực hiện BHXH đối với người tham gia BHXH tự nguyện sau chuyển
sang tham gia BHXH bắt buộc
- Một số văn bản chưa sửa đổi, bổ sung nội dung cho phù hợp với quy định của
Luật như: văn bản hướng dẫn khám, chữa bệnh ngoại trú; danh mục các bệnh cần nghỉ
việc để chữa trị dài ngày; hướng dẫn khai báo, điều tra, lập biên bản tai nạn lao động;
hồ sơ và quy trình giám định y khoa cho người tham gia BHXH; quy định việc lập
biên bản tai nạn giao thông cho người tham gia BHXH bị tai nạn trên đường đi làm
việc
b.Về chế tài bảo đảm việc thực thi chính sách BHXH
- Chính sách BHXH chưa cụ thể hóa và quy định rõ được trách nhiệm đối với
các cơ quan quản lý nhà nước và các ban, ngành có liên quan trong việc phối hợp,
kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý các vi phạm về thực hiện chính sách BHXH;
đồng thời các thủ tục hành chính, trình tự xử phạt, xét hưởng các chế độ chính sách
BHXH còn rườm rà và vẫn xảy ra tình trạng lách luật và gian lận BHXH.
- Mức phạt trong các hành vi gian lận vẫn chưa cao và thực sự nghiêm khắc,
vẫn chưa quy định mức truy tố trước pháp luật đối với các hành vi vi phạm pháp luật
về đóng BHXH. Vì vậy vẫn xảy ra trường hợp chủ SDLĐ lợi dụng tiền đóng BHXH
của NLĐ vào các hoạt động kinh doanh khác gây ảnh hưởng tới quyền lợi của NLĐ
khi tham gia BHXH.
c.Về đối tượng tham gia BHXH
Đối tượng tham gia BHXH còn hạn chế (chỉ những người có quan hệ lao động
trong xã hội) vì thế chưa tạo được sự bình đẳng khi tham gia BHXH đối với mọi đối
tượng trong thành phần kinh tế. Để thu hút được nhiều đối tượng tham gia BHXH, các
bộ, ngành, chính quyền địa phương, tổ chức đoàn thể các cấp theo chức năng của
mình phối hợp với BHXH Việt Nam tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động
người dân tham gia BHXH tự nguyện với mục tiêu ổn định đời sống nhân dân, thực
hiện tốt chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước; đồng thời nghiên cứu chính
sách hỗ trợ của Nhà nước với quỹ BHXH tự nguyện hoặc hỗ trợ một số đối tượng khó
khăn như người nghèo, người cận nghèo để họ có khả năng tham gia BHXH tự
nguyện./

12
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI
Ở THỊ XÃ SẨM SƠN ( 2007 – 2011)
2.1 Mô hình tổ chức BHXH ở thị xã Sầm Sơn
2.1.1 Khái quát về BHXH thị xã Sầm Sơn:
Hệ thống BHXH ở Việt Nam ra đời có 61 cơ quan tại 61 tỉnh thành phố trên cả
nước. BHXH Sầm Sơn ra đời vào năm 1995 theo Quyết định của BHXH Thanh Hóa
và BHXH Việt Nam. BHXH thị xã Sầm Sơn là cơ quan BHXH cấp huyện do đó, theo
quy định chung của Chính phủ và BHXH Việt Nam nó chịu sự quản lý trực tiếp của
BHXH cấp tỉnh tương ứng là BHXH tỉnh Thanh Hóa theo ngành dọc và của phòng
Lao động - Thương binh và Xã hội thị xã theo ngành ngang.
Hàng năm, BHXH thị xã Sầm Sơn chịu sự quản lý trực tiếp từ BHXH tỉnh
Thanh Hóa về kế hoạch thu, chi BHXH cho các đối tượng tham gia. Ngược lại, thông
qua BHXH thị xã Sầm Sơn mà BHXH tỉnh Thanh Hóa nắm được số đối tượng tham
gia và thụ hưởng chế độ BHXH từ đó đề ra các chỉ tiêu cho những năm tới được chính
xác hơn.
BHXH thị xã Sầm Sơn ra đời và đi vào hoạt động nhằm thực hiện những nhiệm
vụ như sau:
- Lập kế hoạch thu chi BHXH, chi quản lý bộ máy theo quý, năm gửi BHXH
tỉnh Thanh Hóa
13
- Theo dõi kết quả đóng BHXH của từng đơn vị, từng đối tượng tham gia trong
từng tháng. Trên cơ sở đó thực hiện 3 chế độ BHXH là : ốm đau, thai sản và
nghỉ dưỡng sức.
- Đôn đốc các cơ quan, đơn vị, người tham gia BHXH trên địa bàn nộp đầy đủ,
kịp thời ghi sổ xác nhận, sổ thu BHXH cho người lao động.
- Tổ chức thực hiện việc chi trả lương và trợ cấp cho các đối tượng hưởng đảm
bảo an toàn, đầy đủ, đúng hạn.
- Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc chi trả BHXH của đơn vị cơ sở, thu
hồi các khoản chi sau chế độ và báo cáo cơ quan BHXH cấp trên.

- Theo dõi biến động các đối tương hưởng chế độ BHXH trên địa bàn theo
từng tháng.
- Lưu trữ hồ sơ các đối tương được hưởng BHXH theo phân cấp của thị xã.
- Lập báo cáo, quyết toán quý, năm về thu chi BHXH, chi quản lý bộ máy về
BHXH tỉnh.
2.1.2 Mô hình tổ chức BHXH thị xã Sầm Sơn
Chính sách BHXH ở thị xã Sầm Sơn bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1995 với 3
bộ phận chính :
* Bộ phận kế hoạch tài chính:
Hiện nay bộ phận này do bà Lê Thị Năm quản lý phụ trách. Chức năng chủ yếu
của bộ phận này là :
-Tiếp nhận hồ sơ, danh sách chi trả và nguồn kinh phí do BHXH tỉnh lập chuyển
về, tổ chức chi trả cho người được hưởng. Kiểm tra, giám sát việc chi trả và thanh
quyết toán với cấp trên
-Phối hợp với bộ phận thu và bộ phận chế độ để tiếp nhận hồ sơ chi trả của 3 chế
độ : thai sản, ốm đau và nghỉ dưỡng sức. Thông qua đơn vị sử dụng lao động để chi
trả cho người được hưởng. Nộp kịp thời tiền thu BHXH vào tài khoản của cơ quan
BHXH tỉnh.
-Thực hiện chế độ, tiêu chuẩn định mức chi tiêu tài chính, chế độ kế toán của
đơn vị theo quy định của Nhà nước và cơ quan BHXH cấp trên. Thực hiện nghiêm túc
chế độ giao nhận và quản lý tiền mặt theo quy đinh của Chính phủ và bộ Tài chính.
-Theo dõi lưu trữ chứng từ sổ sách kế toán theo quy định của bộ Tài chính. Quản
lý tài sản của cơ quan và thực hiện nhiệm vụ của Giám đốc BHXH thị xã giao phó.
*Bộ phận quản lý thu:
Chức năng của bộ phận này là:
-Hướng dẫn đơn vị SDLĐ lập nhanh danh sách NLĐ, tiền lương để đăng ký nộp
BHXH. Tổ chức phối hợp tốt với các ngành, các cấp ở địa phương để thu đúng, thu đủ
14
và thu kịp thời tiền BHXH theo đúng những điều khoản mà BHXH quy định và các
văn bản hướng dẫn của các bộ, các ngành và cơ quan BHXH cấp trên.

-Tố chức xét duyệt hồ sơ theo phân cấp của BHXH tỉnh và đề nghị BHXH tỉnh
xét cấp sổ BHXH cho NLĐ tham gia BHXH. Quản lý danh sách lao động, tiền lương,
theo dõi sự biến động tăng giảm. Hàng quý, tiến hành đối chiếu công nợ với đơn vị,
xác nhận kịp thời trên số BHXH khi có thay đổi chức danh, địa điểm và mức đóng
BHXH.
-Định kỳ hàng quý tổng hợp tình hình thực hiện của các đơn vị báo cáo giám đốc
và trình BHXH tỉnh xét duyệt. Phối hợp với bộ phận chế độ để xét hưởng 3 chế độ :
thai sản, ốm đau và nghỉ dưỡng sức.
-Tuyên truyền chủ trương chính sách BHXH cho các đơn vị và NLĐ, đôn đốc
thu nộp, kiểm tra việc thực hiện trích nộp ở các đơn vị và thực hiện một số nhiệm vụ
do giám đốc giao phó.
*Bộ phận quản lý chế độ:
Bộ phận này có nhiệm vụ.
-Quản lý hồ sợ đối tượng hưởng BHXH dài hạn trên địa bàn, tiếp nhận hồ sơ do
BHXH tỉnh chuyển về. Theo dõi những biến động tăng giảm của từng đối tượng tham
gia để thông báo cho đối tượng và bộ phận kế hoạch tài chính từ đó kịp thời cắt giảm
đối tượng chết hoặc hết hạn hưởng.
-Cung cấp hồ sơ cho bộ phận kế hoạch tài chính để tăng, giảm mức hưởng của
đối tượng khi có quyết định của BHXH tỉnh.
-Tổng hợp các kiến nghị, đề xuất những bất hợp lý về mức hưởng của các đối
tượng, hướng dẫn đối tượng và ban chi trả tại các phường, xã lập hồ sơ tuất trình cấp
trên xét duyệt giải quyết.
-Xét duyệt 3 chế độ : ốm đau, thai sản và nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe cho
các đối tượng ở các đơn vị để chi trả cho đối tượng được hưởng ở các đơn vị. Tổng
hợp, cung cấp hồ sơ cho bộ phận kế hoạch tài chính chuyển tiền cho đơn vị để chi trả
cho đối tượng được hưởng, kiểm tra việc thực hiện chi trả ở các cơ sở.
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức BHXH ở thị xã Sầm Sơn
15
Giám đốc
Phó Giám đốc

Kế hoạch – tài chính Bộ phận chế độ Bộ phận thu
2.2 Kết quả triển khai chính sách BHXH tại thị xã Sầm Sơn
Qua những năm thực hiện chính sách BHXH đổi mới, đến nay có thể khẳng định
rằng những quan điểm, nội dung và phương pháp đổi mới chính sách BHXH của
Đảng và Nhà nước đã hoàn toàn đúng đắn phù hợp với mục tiêu đổi mới toàn diện đất
nước. Công tác BHXH đã từng bước khẳng định tầm quan trọng và vị thế của mình
đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của BHXH thị xã
Sầm Sơn nói riêng, cũng như việc đảm bảo quyền lợi về BHXH cho người lao động
bằng những kết quả cụ thể. Trong những năm vừa qua, BHXH thị xã Sầm Sơn đã đạt
được những thành tích đáng ghi nhận như sau:
2.1.1 Đối tượng tham gia
Quản lý đối tượng tham gia BHXH là một vấn đề quan trọng của nghiệp vụ thu
BHXH. Đây là cơ sở hình thành nguồn thu cũng là thể hiện vai trò của BHXH trong
việc bảo vệ quyền lợi cho NLĐ. Như đã biết, BHXH hoạt động dựa trên nguyên tắc :
số đông bù số ít và mục tiêu của nhà nước là BHXH mở rộng đối với mọi người dân
do đó, càng mở rộng được diện đối tượng tham gia BHXH càng tốt. Nhờ làm tốt công
tác tuyên truyền về chế độ chính sách pháp luật BHXH làm cho NLĐ và người SDLĐ
hiểu rõ tầm quan trọng khi tham gia BHXH cũng với sự nỗ lực hết mình của cán bô
nhân viên và sự phối hợp hiệu quả, sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan ban ngành
liên quan nên vấn đề tham gia BHXH ở Sầm Sơn đã đươc nghiêm túc thực hiện. Qua
theo dõi đối tượng tham gia BHXH tại thị xã Sầm Sơn như sau:
Bảng 2.1: Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc ở thị xã Sầm Sơn (2007 – 2011)
(Nguồn: Báo cáo thu hàng năm của BHXH thị xã Sầm Sơn)
Theo đánh giá tình hình thực hiện chính sách BHXH giai đoạn 2007-2011 của
BHXH thị xã Sầm Sơn, đối tượng tham gia các loại hình BHXH ngày càng mở rộng,
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về BHXH đã được xây dựng và ban hành khá
đồng bộ, tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện chế độ chính sách BHXH. Nhận
16
Năm Số lượng tham gia
(người)

Lượng tăng liên
hoàn (người)
Tốc độ tăng liên
hoàn (%)
2007 2541
2008 2655 114 4.49
2009 2820 165 6.21
2010 2930 110 3.90
2011 3084 154 5.26
thức của NLĐ, người sử dụng lao động và công đồng người dân về chính sách được
nâng cao nên đối tượng tham gia BHXH năm sau luôn tăng cao hơn so với năm
trước, tốc độ tăng bình quân của đối tượng tham gia từ 2007 - 2011 là 5%. Tuy vậy. số
lượng tăng qua các năm lại không đồng đều, lượng tăng liên hoàn có nhiều biến động.
Cụ thể năm 2008 số đối tượng tham gia tăng thêm so với năm 2007 là 114 (người)
tương ứng với 4.49% thì đến năm 2009 con số này là 165(người) tăng thêm là 51
người. Nhưng đến năm 2010, tốc độ tăng là 3.90, thấp nhất trong 5 năm vì đối tượng
tham gia chỉ tăng so với năm 2009 là 110 người. Nguyên nhân có thể do chính sách
tuyển dụng lao động của một số doanh nghiệp trên địa bàn hoặc có thể do công tác
tuyên truyền chính sách đến người dân chưa được thực hiện tốt.
Nhìn chung, đối tượng tham gia BHXH đều tăng qua từng năm là một điều đáng
mừng và cần phải tích cực phát huy.
-Đối với khối HC – SN : khối này luôn chiếm đa số trong tổng số lao động tham
gia BHXH trên địa bàn thị xã Sầm Sơn. Đối tượng tham gia ở khối này luôn chiếm
trên 70% tổng số đối tượng tham gia ở thị xã. Tuy nhiên, tỷ trọng của đối tượng tham
gia ở khối này lại có xu hướng giảm qua các năm. Mặc dù vậy, lượng giảm là không
đáng kể. Cụ thể : năm 2007 số tham gia là 1907 người chiếm 75.0% so với tổng toàn
bộ, đến năm 2008 tuy số đối tượng có tăng lên 47 người nhưng tỷ trọng của khối này
lại giảm xuống đáng kể 73.6%. Tỷ trọng của khối này giảm mạnh nhất vào năm 2009
xuống còn 71,6%. Đến năm 2010, số lượng đối tượng tham gia của khối này là 2102
người khiến cho tỷ trọng tăng nhẹ lên 71,7% rồi tiếp tục giảm ở năm 2011 xuống còn

70.5% tương ướng với 2176 người.
Mặc dù tỷ trọng của khối giảm qua các năm nhưng xét 1 cách chung nhất thì số
lượng đối tượng tham gia đều tăng nhẹ qua các năm. Khối này có điều kiện thuân lợi
khi tham gia BHXH do được UBND thị xã giao cho cân đối thu chi, thiếu tỉnh cấp bù.
Khối này là một bộ phận quan trọng đóng góp vào nguồn quỹ BHXH của thị xã Sầm
Sơn.
-Khối DNNQD: khối này chiếm vị trí thứ 2 trong tổng số đối tượng tham gia
BHXH ở thị xã Sầm Sơn. Số lượng đối tượng tham gia và tỷ trọng trong tổng lượng
tham gia đều tăng mạnh qua các năm. Năm 2007, số lượng đối tượng tham gia của
khối này chỉ là 285 người tương ứng với tỷ trọng trong tổng số là 11.2% thì đến năm
17
2011 đối tượng tham gia của khối này đã tăng lên đáng kể 492 người (tốc độ tăng lên
đến 72.6%).
So với 7 khối tham gia BHXH ở Sầm Sơn thì khối này có tốc độ tăng mạnh nhất.
Tăng đối tượng tham gia cũng đồng nghĩa với việc có nhiều hơn DNNQD trên địa
bàn. Và theo dự báo số lượng của các DNNQD sẽ tiếp tục còn tăng mạnh trong các
năm tiếp theo. Vì vậy, khối này sẽ là một tiềm năng để làm tăng số lượng tham gia
cũng như nguồn quỹ của BHXH Sầm Sơn.
-Khối ngoài công lập : khối này cũng có vị trí khá quan trọng trong việc đóng
góp vào nguồn thu của BHXH Sầm Sơn. Tuy vậy, khối này lại có sự tăng giảm không
đồng đều về đối tượng tham gia. Mức tăng thấp hơn mức giảm. Trong năm giai đoạn
2007 – 2011, số lượng đối tượng tham gia tăng từ 171 người năm 2007 lên 196 người
năm 2009. Nhưng lại giảm mạnh vào năm 2010 và 2011 xuống chỉ còn 157 người. Lý
do của việc giảm sút này có thể do từ năm 2010 trường bán công Nguyễn Thị Lợi
chuyển thành trường chính quy và xác nhập vào trường PTTH Sầm Sơn, điều này đã
làm giảm đáng kể một số lượng giáo viên phải thuyên chuyển công tác đến các nơi
khác do dư thừa giáo viên. Mặc dù vậy khối này vẫn là 1 trong 3 khối có tỷ trọng đối
tượng tham gia nhiều nhất nên BHXH Sầm Sơn quan tâm để tiếp tục làm tăng nguồn
thu trong những năm tới.
-Khối DNNN và xã – phường: 2 khối này có số đối tượng tham gia tượng đối ổn

định qua các năm. Ở khối DNNN, số lượng lao động có tăng nhẹ qua các năm. Trong
5 năm nghiên cứu, số lượng đối tượng tham gia của khối này chỉ tăng từ 89 người
năm 2007 lên 125 người năm 2011. Trung bình mỗi năm đối tượng tham gia của khối
DNNN là 9 người và số lượng tăng của năm sau thì luôn cao hơn năm trước. Còn ở
khối xã – phường, số đối tượng không có biến động từ năm 2007 – 2010 là 86 người,
đến năm 2011 thì số lượng này tăng 103 người. Lý do của sự ổn định về đối tượng
tham gia ở 2 khối này có thể do sự quy định bộ máy nhân sự ở 2 khối này có sự quản
lý của nhà nước. Do vậy, việc thay đổi nhân sự mỗi năm là không đáng kể.
-Khối HTX và hộ nghề cá thể : đây là 2 khối có số lượng đối tượng tham gia ít
nhất nhưng theo nhận xét khách quan thì có thể lại là 2 khối sẽ có tiềm năng của thị xã
Sầm Sơn. Vì, Sầm Sơn là một bãi biển du lịch còn chưa được khai thác hết. Mặt khác,
người dân ở đây lại sinh sống bằng việc đánh bắt cá. Việc hình thành các HTX sản
xuất cá xuất khẩu hoặc của hình thức nhà nghỉ, quán ăn, kiốt phục vụ cho khách du
18
lịch sẽ hình thành trong những năm tới. Do vậy, BHXH thị xã Sầm Sơn cần có những
chính sách hợp lý nhằm tuyên truyền chính sách BHXH đến những đối tượng này để
họ có những nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc tham gia BHXH. Từ đó
cũng giúp tăng nguồn thu cho quỹ BHXH và góp phần tích cực vào hoạt động của
chính sách BHXH thị xã Sầm Sơn riêng và BHXH Việt Nam nói chung.
Bảng 2.2: Các loại đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn thị xã Sầm Sơn
(2007- 2011)
(Đơn vị tính : người)
(Nguồn: Báo cáo thu hàng năm của BHXH thị xã Sầm Sơn)
Trên đây là những nhận xét của em về đối tượng tham gia BHXH ở Sầm Sơn từ
năm 2007 – 2011. Tiếp theo đây là những theo dõi về tình hình thu và chi BHXH trên
địa bàn.
2.2.2 Tình hình thu BHXH
*Quá trình thực hiện nghiệp vụ quản lý thu ở BHXH thị xã Sầm Sơn
Bước 1: Nắm đối tượng
Ở bước này, BHXH thị xã Sầm Sơn cần nằm rõ đối tượng phải nộp BHXH. Có 2

loại đối tượng phải nộp BHXH là:
• Người lao động
• Người sử dụng lao động
Phương pháp nắm đối tượng:
-Phương pháp chủ động: là dựa vào các luật lệ, các tiêu chuẩn của đơn vị SDLĐ
và NLĐ phải tham gia bắt buộc. Tổ chức điều tra tình hình, biết trước về đối tượng
phải đóng BHXH bắt buộc, chủ động mời họ tời đăng lý nộp BHXH. Nếu họ không
tới thì tìm cách tác động để họ thực hiện nghĩa vụ nộp BHXH cho NLĐ.
-Phương pháp thụ động là chờ NLĐ đến đăng ký nộp BHXH. Nắm số đối tượng
và số người tham gia BHXH khi chỉ họ tự đến đăng ký nộp BHXH.
Muốn chủ động nắm đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc ta có thể thu thập
thông tin qua các cơ quan sau :
19

Năm DNNN DNNQD HC-SN
Ngoài
công
lập

HTX
Xã –
phường
Hộ
nghề
cá thể
2007 89 258 1907 171 3 86 0
2008 96 331 1954 183 5 86 0
2009 101 410 2019 196 5 86 3
2010 115 438 2102 157 27 86 5
2011 125 492 2176 157 27 103 5

• Sở kế hoạch đầu tư và các sở chủ quản nơi cấp giấy phép thành lập các
đơn vị, doanh nghiệp.
• Chi cục thuế tỉnh, nơi cấp giấy phép kinh doanh, đăng ký nộp thuế.
• Cấp ủy, UBND tỉnh, thành phố, huyện nơi quản lý hành chính huyện tại
địa phương.
• Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố.
• Bưu điện vì hầu hết các đơn vị hiện nay khi hoạt động đều sử dụng điện
thoại.
Bước 2: Lập kế hoạch thu
Hiện nay, kế hoạch thu được lập theo 2 bước:
+ Bước 1: lập và giao sổ kiểm tra
+ Bước 2: điều chỉnh kế hoạch và giao chính thức
Muốn lập được kế hoạch phải nắm được: số lao động tham gia BHXH; mức
lương của từng NLĐ và mức lương bình quân của đơn vị; mức thu từng đối tượng; tỷ
lệ tăng lương tự nhiên; khả năng tăng giảm lao động và thu hồi nợ BHXH.
Bước 3: Triển khai kế hoạch thu BHXH.
a. Thu nhận tiền:
-Thu bằng chuyển khoản : mở tài khoản tại kho bạc Nhà nước và ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn.
-Thu bằng tiền mặt : rất hạn chế, nếu phát sinh phải thu bằng tiền mặt thì phải
nộp vào tài khoản trong ngày.
b. Thời điểm thu:
-Đối với các doanh nghiệp, cơ quan hành chính sự nghiệp : phải nộp hàng tháng
vào kỳ phát lương cuối cùng trong tháng.
-Đối với người Việt Nam làm việc tại nước ngoài : đóng BHXH 6 tháng 1 lần.
c. Chuyển tiền thu BHXH lên cấp trên:
-Mỗi tháng chuyển 3 lần vào ngày 10, 20 và cuối tháng.
-Định kỳ 15 ngày 1 lần BHXH Việt Nam phải chuyển toàn bộ số tiền BHXH đã
thu vào tài khoản tiền gửi quỹ BHXH mở tại hệ thống kho bạc Nhà nước.
d. Xác nhận số thu nộp và công nợ BHXH:

-Cùng đơn vị SDLĐ định kỳ mỗi quý 1 lần lập bảng đối chiếu nộp BHXH, xác
định số phải nộp, đã nộp và số còn nợ.
-Cuối mỗi quý, BHXH cấp trên kiểm tra số liệu thu nộp đối với BHXH cấp dưỡi.
e. Báo cáo kết quả thu nộp:
20
Lập báo cáo kết quả thu nộp BHXH theo biểu mẫu nộp cho BHXH tỉnh vào các
ngày 12, 22 và ngày 2 của tháng liền kề.
Bước 4 : Xác định số đã thu (nộp) đối với NLĐ
Căn cứ số tiền đã thu BHXH của từng đơn vị SDLĐ sau khi đã đối chiếu, tiến
hành :
-Ghi sổ BHXH cho từng NLĐ khi có biến động về tiền lương, phụ cấp và giải
quyết chế độ (với người đã có sổ BHXH)
-Ghi giấy xác nhận đã nộp BHXH cho NLĐ chưa có sổ khi họ di chuyển đi làm
việc ở nơi khác.
*Kết quả thu BHXH (2007 – 2011)
Bảng 2.3: Tình hình thu BHXH ở thị xã Sầm Sơn (2007 – 2011)
Năm Số thu BHXH
(trđ)
Lượng tăng thu
BHXH (trđ)
Tốc độ tăng thu
BHXH (%)
2007 11 061
2008 13 631 2 575 23.28
2009 14 383 747 5.48
2010 15 075 692 4.81
2011 17 581 2 506 16.62
(Nguồn: báo cáo thu hàng năm của BHXH thị xã Sầm Sơn)
Qua số liệu ở bảng 2.3 cho thấy, số thu BHXH từ năm 2007 đến năm 2011 liên
tục tăng với số thu của năm nay cao hơn năm trước. Năm 2007 số thu là 11 062 trđ thì

năm 2011 đã tăng lên 17 581 trđ (tăng hơn 6,5 tỷđ). Đây là một số tiền không nhở
góp phần đảm bảo cho quỹ BHXH thực hiện tốt các chế độ BHXH cho NLĐ nằm
trong chính sách BHXH và cũng là cơ sở tạo tiền đề vững chắc cho công tác thực hiên
chính sách BHXH trong thời gian tới tại BHXH thị xã Sầm Sơn.
Theo bảng 2 cũng nhận thấy, mặc dù những năm qua số thu BHXH năm sau cao
hơn năm trước nhưng lượng tăng liên hoàn và tốc độ tăng liên hoàn lại tăng không
đồng đều thậm chí lại có xu hướng giảm. Có những năm tốc độ tăng lên rất cao như :
21
năm 2008 số thu tăng cao so với năm 2007 là 2 575 trđ tương ứng tăng 23.28% , năm
2011 số thu tăng so với năm 2010 là 2 506 trđ tương ứng 16.62%. Nhưng bên cạch đó,
có những năm số thu tăng không cao là cho tốc độ tăng trưởng thấp như : năm 2009
tốc độ tăng so với năm 2008 là 5.48% tương ứng với 747 trđ, năm 2010 tốc độ tăng
trưởng chỉ đạt 4.81% tương ứng vớ số thu BHXH tăng so với năm 2009 là 692trđ.
Qua những nghiên cứu về tình hình thu BHXH của thị xã Sầm Sơn thì nhìn
chung, trong 5 năm trở lại đây 2007 – 2011 hoạt động thu BHXH đã đạt được những
kết quả rất tốt luôn luôn hoàn thành trên 100% kế hoạch hàng năm đề ra. Qua đó có
thể nhận thấy công tác thu đã được quan tâm và chú trọng hơn nhằm đảm bảo cho
nguồn quỹ BHXH tránh được những thất thu, thất thoát đáng tiếc xảy ra. Do vậy mà
tổng thu BHXH ở thị xã Sầm Sơn liên tục tăng qua các năm với số thu của các năm
sau cao hơn năm trước. Điều này cũng nói lên chính sách của Đảng và Nhà nước nói
chung cũng như chính sách của BHXH Sầm Sơn nói riêng đã và đang đi đúng hướng
và mục tiêu chính sách BHXH đang được mở rộng để đi sâu vào đời sống của NLĐ
nhiều hơn nữa.
2.2.3 Tình hình chi BHXH
BHXH thị xã Sầm Sơn tiến hành nhận bàn giao danh sách chi trả từ ngành
LĐTB & XH và tiến hành tổ chức chi trả từ tháng 10/1995. Sau hơn 16 năm thành
lập, BHXH thị xã Sầm Sơn đã tiến hành chi trả gần 400 tỷđ. Trong thời gian đầu, công
tác chi trả đối với đối tượng hưu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động, tử tuất BHXH
thị xã Sầm Sơn áp dụng phương thức mạng lưới chi trả tại các phường xã. Mặc dù
trong điều kiện có nhiều khó khăn, vừa thực hiện nhiệm vụ thu, vừa thực hiện nhiệm

vụ chi song BHXH thị xã đã tranh thủ sự chỉ đạo của thành ủy và UBND thị xã đặc
biệt là các phường xã công tác chi diễn ra khá tốt, được rất nhiều đối tượng đồng tình
ủng hộ.
Vấn đề khó khăn trong công tác quản lý và tổ chức chi trả là BHXH tiếp nhận
toàn bộ danh sách chi trả do Sở LDDTB&XH. Danh sách này gốc của nó được lập
trên cơ sơ kê lập của các phường xã sau đó đưa vào quản lý trên máy vi tính nên tính
chính xác của nó không cao. Khi tiếp nhận không có điều kiện để đối chứng danh sách
và hồ sơ do đó sai lệch lượng thực nhận và chế độ hồ sơ là không thể tránh khỏi.
Trong những năm gần đây, BHXH thị xã Sầm Sơn đã tổ chức quy trình chi trả cụ thể
như sau:
a.Quy trình chi trả trợ cấp
22
*Đối với 3 chế độ ngắn hạn (ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức)
Bước 1: Xác định phân cấp quản lý 3 chế độ của BHXH thị xã Sầm Sơn
Chi trả ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức thuộc các đơn vị do BHXH thị xã trực
tiếp quản lý thu.
Chi trả lương, trợ cấp mất sức lao động, tai nan lao động, trợ cấp tuất cho đối
tượng hưởng trên địa bàn quản lý.
Bước 2: Tiếp nhận và thấm định hồ sơ ( chứng từ ) cho 3 chế độ
-Đối với đơn vị sử dụng lao động
-Đối với cơ quan BHXH
Bước 3: Quy trình cấp kinh phí thanh toán 3 chế độ
-Không thanh toán trực tiếp cho người lao động mà phải thông qua đơn vị sử
dụng lao động.
Có 2 cách thanh toán:
-Kế toán đơn vị nhận tiền trực tiếp từ cơ quan BHXH đưa về nhập quỹ, căn cứ
vào danh sách đã được cơ quan BHXH chấp thuận chi trả các chế độ để tiến hành chi
trả cho NLĐ.
-Cơ quan BHXH chuyển tiền qua tài khoản của đơn vị căn cứ vào danh sách và
chứng từ đã chấp nhận tiến hành làm thủ tục rút tiền mặt để trả cho NLĐ.

Hàng quý, đơn vị tiến hành tống hợp báo cáo quyết toán chi 3 chế độ trên gửi
cho cơ quan BHXH.
*Đối với chế độ dài hạn (thường xuyên hàng tháng )
Bước 1: Công tác chuẩn bị
-Trách nhiệm của cơ quan BHXH thị xã: lập kế hoạch in và kiểm tra danh sách
chi trả.
Đầu tháng cơ quan BHXH có trách nhiệm lập kế hoạch in và kiểm tra danh sách
chi trả. Kế hoạch và danh sách chi trả được lập và in chi tiết cho từng phường, xã,
từng nguồn quỹ, từng loại đối tượng. Riêng danh sách chi trả được in thành 2 bộ có
chữ ký và đóng dấu của BHXH ( 1 bản cán bộ BHXH giữ, 1 bản kế toán chi trả của
phường, xã giữ)
-Trách nhiệm của UBND xã, phường: chuẩn bị địa điểm chi trả và thông báo lịch
phát tiền cho các đối tượng.
Căn cứ kế hoạch chi trả, UBND xã, phường có trách nhiệm bố trí địa điểm và
thông báo lịch phát tiền cho các đối tượng. Địa điểm nhận, phát tiền phải đảm bảo an
ninh trật tự và thuận lợi cho các đối tượng đến nhận tiền.
Bước 2: Tổ chức chi trả
Trách nhiệm của BHXH:
-Vận chuyển và bảo quản tiền đến địa điểm phát tiền theo đúng lịch đã thông báo.
23
-Thủ quỹ chi trả căn cứ vào phiếu nhận tiền do kế toán phường, xã chuyển sang
kiểm tra lần cuối với danh sách đã phát tiền cho đối tượng. Phiếu lĩnh tiền do thủ quỹ
lưu giữ và cuối tháng đóng thành tập để thanh toán với cơ quan BHXH.
Trách nhiệm của phường, xã:
-Kế toán xã, phường căn cứ danh sách chi trả đối chiếu với sổ nhận tiền, nhận
diện đối tượng để ghi đầy đủ các yếu tố trong sổ nhận tiền sau đó chuyển sang thủ quỹ
để phát cho đối tượng.
Bước 3: Thanh quyết toán
Theo quy định của BHXH Việt Nam, sau 5 ngày kể từ ngày nhận lương cuối
cùng, kế toán và thủ quỹ chi trả phải hoàn thành thủ tục thanh quyết toán với BHXH.

Thủ tục thanh quyết toán bao gồm:
-Bảng thanh toán chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH.
-Danh sách đối tượng chưa nhận lương hưu và trợ cấp BHXH.
-Danh sách đối tượng đã được chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH và phiếu lĩnh tiền.
b.Quy định của BHXH Việt Nam về công tác chi trả các chế độ:
-NLĐ phải nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn rủi ro, nghỉ trông con ốm (đối với con
dưới 7 tuổi), nghỉ thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa dân số mà có xác nhận của tổ
chức y tế do Bộ y tế quy định được hưởng chế độ trợ cấp ốm đau. NLĐ nghỉ việc do
tự hủy hoại sức khỏe, do say rượu, dùng chất ma túy thì không được hưởng các trợ
cấp của BHXH.
-Hồ sơ xét hưởng chế độ bao gồm: hồ sơ thanh toán tiền ốm đau theo quy định.
NLĐ khi thanh toán tiền ốm đau phải có phiếu nghỉ hưởng trợ cấp theo mẫu của cơ
quan BHXH và các giấy tờ xác nhận của cơ quan y tế: giấy chứng nhận nghỉ hưởng
BHXH của NLĐ bị ốm điều trị ngoại trú, nội trú tại cơ sở y tế. Giấy chứng nhận nghỉ
ốm hưởng BHXH hoặc ra viện do bác sĩ, y sĩ được phân công khám bệnh, chữa bệnh
tại cơ sở y tế do NLĐ đăng ký.
-Quy định thời gian tối đa NLĐ được hưởng trợ cấp trong 1 năm:
+Trong điều kiện lao động bình thường
♦ Nghỉ 30 ngày nếu đóng BHXH dưới 15 năm
♦ Nghỉ 40 ngày nếu đóng BHXH từ 15 năm đến 30 năm
♦ Nghỉ 50 ngày nếu đóng BHXH trên 30 năm
+Trong điều kiện làm việc nặng nhọc, độc hại có hệ số phụ cấp khu vực từ
0.7 trở lên
♦ Nghỉ 40 ngày nếu đóng BHXH dưới 15 năm
♦ Nghỉ 50 ngày nếu đóng BHXH từ 15 năm đến 30 năm
♦ Nghỉ 60 ngày nếu đóng BHXH trên 30 năm
24
Danh mục những ngành, nghề hoặc công việc nặng nhọc độc hại do Bộ
LĐTB&XH và Bộ Y tế ban hành.
NLĐ nếu mắc bệnh cần điều trị dài ngày theo danh mục của Bộ Y tế ban hành

thì thời gian được hưởng trợ cấp tối đa là 180 ngày trong 1 năm, không phân biệt thời
gian đóng BHXH ít hay nhiều.
+Trường hợp nghỉ chăm sóc con ốm thì thời gian tối đa được nghỉ để chăm
sóc con như sau:
♦ Nghỉ 20 ngày trong 1 năm đối với con dưới 3 tuổi
♦ Nghỉ 15 ngày trong 1 năm đối với con từ 3 tuổi đến 7 tuổi
-Mức trợ cấp cho NLĐ trong chế độ này bằng 75% mức tiền lương làm căn cứ
đóng BHXH trước khi nghỉ việc. Trong trường hợp NLĐ phải điều trị dài hạn nghỉ
quá 180 ngày mà vẫn còn phải điều trị tiếp thì thì thời gian điều trị thêm được hưởng
70% nếu đã đóng BHXH từ 30 năm trở lên và 65% nếu đóng BHXH dưới 30 năm.
*Đối với chế độ trợ cấp thai sản:
-Lao động nữ có thai, sinh con thứ nhất hoặc thứ hai thuộc đối tượng hưởng trợ
cấp của chế độ thai sản.
-Hồ sơ xét hưởng theo quy đinh của BHXH Việt Nam bao gồm:
 Phiếu nghỉ hưởng BHXH theo mẫu của BHXH Việt Nam
 Phiếu khám thai, sẩy thai, đẻ thai chết lưu
 Giấy khai sinh, giấy chứng sinh
-Trong thời gian có thai được nghỉ việc để khám thai 3 lần, mỗi lần 1 ngày.
Trong trường hợp NLĐ có thai làm việc xa tổ chức y tế hoặc người mang thai có bệnh
lý, thai không bình thường thì được nghỉ việc hưởng trợ cấp 2 ngày trong mỗi lần
khám thai. Trường hợp bị sấy thai thì được nghỉ hưởng trợ cấp 20 ngày nếu thai dưới
3 tháng và 30 ngày nếu thai từ 3 tháng trở lên.
-Thời gian được nghỉ hưởng trợ cấp được quy đinh như sau:
 Nghỉ 4 tháng đối với NLĐ làm việc trong điều kiện bình thường.
 Nghỉ 5 tháng đối với NLĐ làm nghề hoặc công việc năng nhọc, làm việc
theo chế độ 3 ca, làm việc ở những nơi có trợ cấp khu vực hệ số 0.5 hoặc
0.7
 Nghỉ 6 tháng đối với NLĐ làm việc ở những nới có trợ cấp khu vực hệ số 1,
những người làm nghề hoặc công việc đặc biệt do Bộ LĐTB&XH ban
hành.

 Nếu sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 2 trở đi mỗi đứa được cộng thêm 30
ngày nghỉ. Trong trường hợp nếu con dưới 60 ngày tuổi bị chết (kể cả
25

×