Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên 3 : SINH KHÍ THÔNG THIÊN LUẬN pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.2 KB, 7 trang )

Thiên 3 : SINH KHÍ THÔNG THIÊN LUẬN
Hoàng-Đế hỏi : “Ôi ! từ xưa đến nay, mạng sống của con người đều thông với
‘Thiên’, gốc của mạng sống lấy gốc ở Âm Dương [1]. Trong khoảng Trời Đất,
trong khoảng lục hợp, dù cho cửu châu ( dưới đất) hoặc cửu khiếu, ngũ tạng,
thập nhị tiết trong con người, tất cả khí đó đều thông với ‘Thiên Khí’ [2]. Khí
đó sinh ra ngũ hành, khí sinh ra ‘Tam khí’ [3]. Nếu con người nhiều lần phạm
vào sự ‘thông khí’ đó thì tà khí sẽ làm ‘thương’ đến bên trong, vì đây chính là
cái ‘gốc’ của sự sống ‘thọ mệnh’ [4].
Khí của “trời xanh” là trong và sạch, (nếu sinh khí con người thông với Thiên
khí) thì khí sẽ làm cho chí ý được bình trị [5]. Nếu con người sống thuận theo
với sự thông khí đó thì sẽ làm cho Dương khí của mình được vững vàng, tuy
có tặc tà đến, nó cũng không làm hại được [6]. Kết quả này là nhờ vào chúng ta
sống thích ứng với sự thuận tư của tứ thì [7]. Bậc thánh nhân dựa vào đó để
vận hành được cái tinh thần của mình, thích ứng được với Thiên khí, thông
được với thần minh [8]. Ngược lại, nếu chúng ta sống làm mất đi cách sống
“thông thiên” đó thì bên trong sẽ làm cho cửu khiếu bị bế, bên ngoài sẽ làm
cho cơ nhục bị ủng, làm cho vai trò của “vệ khí” bị tán, bị giải, Ta gọi đây là
trường hợp tự mình làm ‘thương’ đến thân mình, tự mình làm cho ‘nguyên khí’
bị tước đoạt vậy [9].
Dương khí trong con người cũng giống như nhật khí trên trời, nếu chúng ta làm
thất đi (Dương khí đó) tức là chúng ta đã làm gẫy đi tuổi thọ một cách không
ngờ được [10]. Cho nên, nếu Thiên khí vận hành phải dựa vào nhật khí để có
sự sáng suả, thì ở con người Dương khí cũng phải nhân đó mà vươn lên; đó là
ý nghĩa của ‘vệ khí’ bảo vệ bên ngoài con người vậy [11]. Gặp lúc chúng ta ở
vào mùa lạnh, chúng ta nên thích ứng với bên ngoài như cái chốt cửa vận xoay,
nếu chúng ta vọng động trong việc thức ngủ thì thần khí chúng ta trôi nổi ra
ngoài (không còn giữ được Dương khí nữa) [12]. Gặp lúc chúng ta ở vào mùa
nóng nực nó sẽ làm cho mồ hôi ra, trong lòng phiền muộn rồi đưa đến hơi thở
khó khăn, nhanh và khò khè [13]. (Nếu nhiệt tà tấn công vào trong, ảnh hưởng
đến thần minh) thân hình chúng ta tuy có yên tĩnh, nhưng lại phải nói nhiều,
thân hình nóng lên như đang trên lò than, cần phải ra mồ hôi mới giải được


bệnh [14]. Gặp lúc chúng ta bị thương bởi thấp tà, đầu chúng ta sẽ nặng như có
cái gì đó trùm lên trên. Nếu khí thấp nhiệt này không bị tiêu trừ, nó sẽ làm cho
phần đại cân bị co rút và ngắn lại (co lại mà không duỗi ra được, nó sẽ làm cho
phần tiểu cân sẽ bị giãn ra mà dài ra (duỗi ra mà không co lại được) [15]. Cân
bị co rút và ngắn lại gọi là ‘câu’; Cân bị giãn ra mà dài ra gọi là ‘nuy’[16]. Nếu
khí hư làm cho có bệnh thủng, tứ chi sẽ lần lượt phù thũng và động tác sẽ bị
nhầm lẫn qua lại với nhau, đó là tình trạng Dương khí bị kiệt mà ra [17].
Dương khí trong con người, nếu bị phiền và lao nhọc thì sẽ bị căng thẳng, tinh
khí bị tuyệt; và nếu cứ lập lại nhiều lần như thế cho đến mùa hạ, sẽ làm cho
con người bị bệnh ‘tiên quyết’; hai mắt sẽ mờ không thấy gì nữa, tai bế không
nghe được gì nữa, mênh mông như nước vỡ bờ, cuồn cuộn như dòng nước trôi
đi mà không dừng lại [18]. Dương khí trong con người, nếu vì giận dữ nhiều
thì hình khí bị tuyệt, huyết khí bị uất kết ở trên, khiến người ta bị bệnh ‘bạc
quyết’ [19]. Có người bị thương đến cân khí, làm cho cân bị lơi lỏng, hành
động có vẻ như không chủ động được nữa, nếu mồ hôi chảy ra nửa bên người,
sẽ gây thành bệnh ‘thiên khô’ [20]. Nếu sau khi mồ hôi ra mà lại bị thấp tà tấn
công sẽ bị bệnh ‘tỏa phất’ [21]. Sự tai hại của những người ăn nhiều món cao
lương, thường sinh loại nhọt to còn gọi là ‘đinh’, bệnh xảy ra dễ dàng như cầm
một cái vật (chén) rỗng để chứa đựng một vật khác [22]. Nếu sau khi làm việc
mệt nhọc, mồ hôi ra lại đứng trước gió, hàn khí sẽ tấn công vào trong gây
thành những mụn nhọt đỏ trên mặt và mũi, nếu uất khí tích lâu ngày thành
những mụn sởi [23].
Dương khí trong con người nếu sinh hóa được tinh khí thì sẽ dưỡng được thần
khí, nếu nó được nhu hòa thì nó sẽ dưỡng được cân khí [24]. Sự mở đóng (của
bì phu, tấu lý) bị thất điệu sẽ làm cho hàn khí theo đó mà vào để sinh ra chứng
lưng còng [25]. Khi bị hãm mạch (do tà khí tấn công vào trong mạch) sẽ thành
chứng ‘lũ’; nếu nó lưu lại và gây ảnh hưởng với vùng cơ nhục, tấu lý, nó sẽ đi
theo con đường của các du huyệt vào trong gây cho người bệnh chứng lo sợ và
kinh hãi [26]. (Doanh khí vốn vận hành bên trong mạch, nay nếu hàn khí nhập
vào kinh mạch) doanh khí sẽ không còn vận hành tuân theo con đường của nó,

nó sẽ nghịch hành vào vùng cơ nhục và tấu lý, thế là nó sẽ gây thành chứng
ung thủng [27]. Nếu mồ hôi (phách hạn) ra chưa hết, trong lúc hình thể lại suy
nhược, khí lại bị tiêu đến kiệt, các du huyệt sẽ bị bế tắc không không, gây
thành chứng ‘phong ngược’ [28].
Cho nên, phong là nguyên nhân bắt đầu của trăm bệnh [29]. Tuy nhiên, nếu
(Dương khí) giữ được thanh tĩnh thì cơ nhục và tấu lý được đóng lại và gìn giữ
cẩn thận, dù cho có những đại phong có tính hà khắc, độc hại cũng không thể
nào hại chúng ta được [30]. Đó là nhờ chúng ta thích ứng được với sự thuận tự
của tứ thì vậy [31].
Cho nên, nếu tà khí gây bệnh lâu ngày, nó sẽ truyền hóa, trên dưới không còn
giao nhau nữa, bấy giờ dù có những bậc lương y, họ cũng không thể làm gì
được! [32]
Vì thế, Dương khí bị súc tích cũng sẽ đưa đến chỗ chết [33]. Dương khí (súc
tích) sẽ làm cách trở (không thông), và nếu đã bị cách trở như thế, chúng ta nên
dùng phép tả [34]. Nếu chúng ta không có những cách trị liệu nhanh và chính
xác, chỉ ứng phó bằng phương pháp vụng về, bệnh sẽ đi tới chỗ suy bại (tử
vong) [35].
Vì thế, Dương khí của con người ban ngày chủ bên ngoài [36]. Sáng sớm, nhân
khí của con người sinh ra, giữa trưa là lúc Dương khí thịnh lên, lúc mặt trời lặn
về hướng tây là lúc Dương khí đã hư, “khí môn” bắt đầu đóng lại [37].
Vì thế, khi đêm đến chúng ta phải thu tạng (Dương khí) lại, đừng làm nhiễu
loạn cân cốt, đừng có mặt ở những nơi có vụ và lộ (mù và móc) [38]. Nếu
chúng ta sống nghịch lại với “3 thì” đó, hình thể chúng ta mới bị khốn đốn và
suy bạc [39].
Kỳ Bá nói : “Âm có nhiệm vụ tạng tinh và ứng lên với (Dương khí) một cách
nhanh chóng [40]. Dương có nhiệm vụ bảo vệ bên ngoài một cách vững vàng
[41]. Nếu Âm không thắng được Dương sẽ làm cho mạch lưu hành một cách
cấp bách, (và nếu Dương khí) trùng với Dương khí sẽ làm cho cuồng [42]. Nếu
Dương không thắng được Âm sẽ làm cho khí của ngũ tạng cùng tranh nhau và
sẽ làm cho cửu khiếu bất thông [43]. Cho nên bậc thánh nhân sống thuận với

Âm Dương, nhờ vậy mà cân và mạch được hòa đồng, cốt tủy được vững chắc,
khí và huyết vận hành theo đúng chiều của mình [44]. Được vậy thì bên trong
và bên ngoài được điều hòa, tà khí không làm hại được ta, tai và mắt được
thông và minh, chân khí của chúng ta đứng vững theo lẽ ‘thường’ của nó [45].
Khi mà phong tà vào ở khách tràn ngập trong thân thể con người, nó sẽ làm hại
chân khí, tinh khí sẽ bị hao tổn, thế là tà khí sẽ làm “thương” đến Can khí [46].
Nếu vì ăn quá no, (Trường Vị bị uất tích và) cân mạch sẽ bị tổn thương và
buông lơi, chứng ‘trường phích’ gây thành chứng trĩ [47]. Nếu vì uống (rượu)
quá nhiều nó sẽ làm cho khí bị nghịch [48]. Nếu vì ráng sức làm việc, Thận khí
sẽ bị ‘thương’, xương ‘cao cốt’ sẽ bị bại hoại [49].
Điểm quan yếu nhất của Âm Dương, đó là Dương khí phải được kín đáo và
bảo vệ bên ngoài vững vàng [50]. Nếu cả hai, Âm và Dương, không còn hòa
điệu với nhau sẽ ví như có mùa xuân mà không có mùa thu, có mùa đông mà
không có mùa hạ [51]. Nếu làm cho cả hai được hòa điệu thì đó chính là một
thứ pháp độ hay nhất [52]. Cho nên, nếu Dương khí quá kháng thịnh không có
kín đáo và vững vàng nữa thì Âm khí sẽ bị tuyệt [53]. Nếu Âm được “bình” và
Dương được “bí” (kín, vững) thì tinh thần mới được chính thường. Khi nào
Âm Dương phân ly và tách rời nhau thì tinh khí mới tuyệt [54].
Nếu bị cảm bởi ‘lộ : móc’ và phong tà, sẽ sinh ra hàn nhiệt [55]. Vì thế, nếu
mùa xuân bị ‘thương’ bởi phong khí, phong tà ở lại không đi, gây thành chứng
‘động tiết’; nếu mùa hạ bị ‘thương’ bởi thử khí, đến mùa thu sẽ thành bệnh sốt
rét; nếu mùa thu bị ‘thương’ bởi thấp khí, nó sẽ nghịch lên trên thành bệnh ho,
sau đó sẽ thành chứng ‘nuy quyết’; nếu mùa đông bị ‘thương’ bởi hàn khí, mùa
xuân sẽ thành bệnh ‘ôn’ [56]. Cho nên, khí của bốn mùa sẽ thay đổi nhau để
làm ‘thương’ đến ngũ tạng [57].
Âm được sinh ra lấy gốc ở ngũ vị; nhưng ngũ tạng thuộc Âm lại bị ‘thương’
cũng bởi ngũ vị [58]. Vì thế, thức ăn quá nhiều vị chua (toan), Can khí sẽ
thịnh, Tỳ khí bị tuyệt [59]. Thức ăn quá nhiều vị mặn (hàm), khí của đại cốt bị
lao thương, cơ nhục bị co ngắn lại, Tâm khí bị uất ức [60]. Thức ăn quá nhiều
vị ngọt (cam), khí của Tâm làm cho suyễn và đầy, sắc mặt đen, Thận khí

không còn bình hành [61]. Thức ăn quá nhiều vị đắng, Tỳ khí không còn nhu
nhuận, Vị khí bị trướng mãn [62]. Thức ăn quá nhiều vị cay (tân), cân mạch bị
bại hoại và buông lỏng, tinh thần cũng bị tổn thương [63]. Cho nên, nếu cẩn
thận trong việc điều hòa ‘ngũ vị trong thức ăn’, cốt tiết sẽ được ngay thẳng, cân
mạch được nhu hòa, khí huyết được lưu thông, tấu lý kín đáo, được vậy thì cốt
khí được tinh cường [64]. Mọi người nên cẩn trọng theo đúng với phép ‘dưỡng
sinh’ thì tuổi trời của mình sẽ được hưởng trọn [65]

×