Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên mười lăm: NGỌC BẢN LUẬN YẾU docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.46 KB, 4 trang )

Thiên mười lăm: NGỌC BẢN LUẬN YẾU
Hoàng Đế hỏi rằng:
Tôi nghe ở thiên Qũi đạc, Kỳ Hằng, nói về bệnh ý nghĩa, phương pháp không
giống nhau, vậy phương pháp dùng thế nào? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
“Qũi đạc” là một phương pháp đo lường xem bệnh nóùâng hay sâu; “Kỳ
Hằng” là nói về các chứng bệnh khác thường. Hãy xin nói về “chí, số” phàm
mạch biến về năm sắc, sự đo lường về những bệnh khác thường [2] “kinh” dù
khác mà “đạo” thời chỉ có “một”. “Một” đó tức là cái “thần” của con người.
Khi thần ấy đã có, sẽ vận chuyển tới khắp năm Tàng, không còn bị ngừng trệ.
Nếu bị ngừng trệ, tức là không có được sự vận chuyển từ trước. nghĩa đó rất
tinh, rất vi, không thể coi thường, mà không chú ý [3].
Phàm dung sắc của con người, hiện ra ở bộ phận trên, dưới, tả, hữu, đều có sự
“thích nghi” của nó.Thấy sắc hiện ra có vẻ nóùâng nóùåi, đó là bệnh tà chửa
vào sâu, nên dùng thang dịch để điều trị, trong vòng 10 ngày, có thể khỏi (tức
là hết lượt của 10 can) [4] . Thấy sắc hiện ra có vẻ xa sâu, đó là bệnh tà đã vào
sâu, phải dùng dược tễ để điều trị, trong vòng 21 ngày có thể khỏi. (1) [5].Nếu
thấy sắc hiện ra có vẻ thật sâu, đó là bệnh tà đã quá nặng, phải dùng giao lễ để
điều trị, trong vòng 100 ngày có thể khỏi [6]. Nếu bệnh nhân sắc mặt trắng bợt,
thịt má hốc hác không thể chữa. Nhưng cũng phải quá thời hạn 100 ngày, mà
hạch đoản, khi tuyệt mới chết [6]. Nếu mắc phải ôn bệnh, mà thể chất hư quá,
cũng chết [7].
Như trên kia đã nói: “dung sắc hiện ra ở bộ phận trên, dưới, tả, hữu ”Đó là vì,
sắc hiện ra ở bộ phận trên tức là cái triệu chứng bệnh thế đương hăng , nên gọi
là “nghịch”, thấy sắc hiện ra ở bộ phận dưới, tức là cái triệu chứng bệnh thế đã
suy, nên gọi là “thuận” [8].
Con gái, sắc hiện ra ở bên hữu Con gái thuộc âm, mà bên hữu cũng thuộc
âm, như thế là “độc âm” nên gọi là “nghịch”. Nếu hiện ra ở bên tả, là Dương
đã hòa với âm, tức là “thuận” [9]. Con trai sắc hiện ra bên tả Con trai thuộc
dương, mà bên tả cũng thuộc dương, như thế là “độc dương”, nên gọi là
“nghịch” nếu hiện ra ở bên hữu, là Aâm đã hòa với Dương, tức là “thuận” [10].


Lại như: con trai mà sắc hiện ra bên tả, thế là “Trùng dương” nên ra bệnh chết,
con gái mà sắc hiện ra bên hữu, thế là “Trùng âm” cũng là bệnh chết. Đó là do
Aâm Dương tương phản mà gây nên bệnh [11]. Phương pháp điều trị, cần phải
xét ở mạch xem phù hay trầm, như cán cân không để cho sai lệch Đó là qui
tắc của các thiên “Kỳ hằng” và “Quĩ đạc” vậy [12].
Phàm vào mạch, thấy mạch bựt mạnh lên tay, đó là mạch trạng của chứng Tý
(tay đau và tê), chứng Liệt (chân đau và tê), chứng lúc hàn, lúc nhiệt [14].
Mạch hiện ra, chỉ có Aâm mà không có Dương, hoặc chỉ có Dương mà không
có Aâm, gọi là mạch “Cô” [15]. Có Aâm mà không có Dương là mạch trạng
của chứng vệ khi tiêu mòn, có Dương mà không có Aâm, là mạch trạng của
chứng vinh khí tiêu mòn [16]. Mạch hư mà lại kiêm có chứng tiết (tả), đó là vì
đoạt huyết (mất huyết). Bởi huyết thuộc về Aâm loại, chứng “tiết” dù không
phải huyết (mất huyết), nhưng huyết do đó mà hư, nên mới gọi là “đoạt huyết”
[17].
Mạch “cô” thuộc về tình trạng thiên thắng, nên mới gọi là “nghịch” nếu chỉ
“hư”, còn có thể bổ, nên mới gọi là “thuận” [18].
Phàm muốn thi hành cái phương pháp của thiên Kỳ hằng, phải từ Thái âm
trước. Bởi khí khẩu thuộc Thốn, có thể quyết được sống hay chết. Nên phải
chú ý vào đó[19] .
Ở ngũ hành, phàm cái gì khắc lại mình, gọi là “sở bất thắng”; nếu làm theo sự
“sở bất thắng”, tức là nghịch, nghịch thời chết (1); [20]
Ở ngũ hành, phàm cái gì mình khắc lại được, gọi là “sở thắng”; nếu làm theo
sự “sở thắng”, tức là thuận, thuận thời sống (2) [21].
Cho nên tám gió và bốn mùa, hoặc làm theo “sở bất thắng”, hoặc làm theo “sở
thắng”, đều hết rồi lại bắt đầu. Nếu qua một lần “nghịch hành”, thời tức là
“hành sở bất thắng”, bệnh tất chết, không chối được nữa [22].

×