Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Chăm sóc trước khi mang thai: chuyện lớn! pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.4 KB, 5 trang )

Chăm sóc trước khi mang thai: chuyện lớn!
Chăm sóc trước khi mang thai là việc làm cần thiết và quan
trọng của phụ nữ nhằm có sức khoẻ tốt khi mang thai và sau
khi sinh, cũng như sinh ra một trẻ bình thường, khoẻ mạnh.
Tuy nhiên, nhiều chị em vẫn còn tâm lý xem nhẹ, ngại tốn kém,
mất thời gian… nên đã bỏ qua việc chăm sóc này, hệ luỵ là có
không ít trường hợp sinh con kém sức khoẻ, thậm chí bị dị tật.
Những việc cần làm

Chăm sóc trước khi mang thai khác với chăm sóc khi đã có thai.
Những việc cần làm của chăm sóc trước khi mang thai là kiểm tra
sức khoẻ bà mẹ để tìm các bệnh lý mạn tính (nếu có) và tiên lượng,
đánh giá bệnh lý đó sẽ thay đổi thế nào khi mang thai, ảnh hưởng
ra sao đến thai nhi để đề ra các biện pháp giúp nâng cao sức khoẻ.
Ngoài ra, còn nhằm kiểm tra khả năng mang thai bao gồm khảo sát
những khó khăn trong việc mang thai, vấn đề hỗ trợ sinh sản, tìm
ra những bất thường về đường sinh dục hay khả năng sinh sản có
thể dẫn đến thai kỳ nguy cơ cao. Kiểm tra khả năng có con bình
thường nhằm tìm ra bệnh lý di truyền trong gia đình hoặc của bản
thân có thể làm con bị ảnh hưởng. Khảo sát những thói quen, sinh
hoạt, yếu tố ngoại cảnh trong đời sống hàng ngày có khả năng ảnh
hưởng đến việc mang thai hay ảnh hưởng sức khoẻ mẹ, con. Dự
phòng bất thường thai nhi.
Có bao nhiêu cách chăm sóc?
Tuỳ theo người mẹ mà sẽ có cách chăm sóc cho riêng từng hoàn
cảnh:
Trong hoàn cảnh thông thường: tuổi mẹ càng cao thì khả năng có
con bất thường về di truyền càng dễ xảy ra. Bất thường di truyền
này còn làm gia tăng tỷ lệ sẩy thai sớm (sẩy thai trong ba tháng
đầu) cũng như thai lưu (thai chết trong tử cung). Tuổi cha có khả
năng liên quan đến tình trạng thai trứng. Mặt khác, khi tuổi cha mẹ


càng cao, do nhiều yếu tố mà khả năng thụ thai cũng sẽ kém hơn
các cặp cha mẹ trẻ tuổi, diễn tiến thai kỳ cũng khó khăn hơn. Khả
năng mang thai của một cặp vợ chồng (trong khoảng 20 – 30 tuổi)
có quan hệ tình dục thường xuyên (2 – 3 lần/tuần) và không áp
dụng biện pháp tránh thai là 30% có thai trong tháng đầu, 60%
trong sáu tháng đầu, 85% trong một năm đầu. Tỷ lệ này thay đổi
theo tuổi cặp vợ chồng do khả năng sinh sản giảm theo tuổi và
cũng có thể do hành vi tình dục thay đổi. Ngoại trừ các biện pháp
tránh thai vĩnh viễn, các biện pháp tránh thai còn lại đều không ảnh
hưởng đến khả năng có thai sau một thời gian áp dụng dù dài hay
ngắn. Tuy nhiên, sau khi ngưng sử dụng, hoạt động của buồng
trứng có thể bị chậm trễ trong một thời gian ngắn, thường là vài
tháng.


Nếu trước đó người phụ nữ đã từng bị sẩy thai thì cần trao đổi với
bác sĩ về hoàn cảnh sẩy thai nhằm xác định nguyên nhân. 50% các
trường hợp sẩy thai là do bất thường di truyền. Nếu là sẩy thai liên
tiếp thì nhiều khả năng do bệnh lý di truyền, bất đồng nhóm máu ở
cha và/hay mẹ. Trong khi đó, sẩy thai to và liên tiếp thì nhiều khả
năng là do hở eo tử cung. Ngoài ra, người phụ nữ còn được hỗ trợ
tâm lý, cung cấp thông tin cần thiết trước khi có thai lần tiếp theo
để ổn định tâm lý.
Khám phụ khoa trước mang thai nhằm xác định có bất thường
đường sinh dục, tìm các bệnh lý thông thường, bệnh lý lây qua
đường tình dục. Có một số bệnh lý có khả năng ảnh hưởng đến
việc có thai hoặc tiến triển thêm khi có thai. Khám nội khoa tổng
quát nhằm tìm các bệnh lý mạn tính hoặc cấp tính, có khả năng ảnh
hưởng đến kế hoạch có thai, hoặc các vấn đề tiềm ẩn có thể phát
triển khi có thai. Phụ nữ nếu đang mắc bệnh thì trước khi có thai

nên gặp bác sĩ chuyên khoa hoặc người đang điều trị để xác định
tình trạng sức khoẻ.
Có bệnh lý di truyền: Cần xác định rõ đây là bệnh lý di truyền
nhiều đời hay chỉ đột biến xảy ra trong đời cha mẹ, nếu có di
truyền thì khả năng là bao nhiêu (tỷ lệ di truyền). Đặc biệt, có một
số bệnh lý di truyền có liên kết với giới tính, cần được tư vấn kỹ để
nếu có thể sẽ lựa chọn giới tính thai nhi. Khi con có khả năng là
người lưu giữ bệnh (có gen bệnh nhưng không biểu hiện) có thể
dẫn đến đời cháu, chắt có bệnh thì nên thảo luận kỹ với gia đình để
có quyết định đúng đắn khi mang thai và biết trước được tương lai
bệnh tật của các thế hệ sau.
Mẹ lớn tuổi: Mẹ lớn tuổi đi kèm với khả năng có thể có bệnh lý
mạn tính của mẹ. Do đó cần lưu ý khảo sát tình trạng nội khoa của
mẹ. Các vấn đề tâm lý – tâm thần cần quan tâm.
Tóm lại, chăm sóc trước mang thai giúp cho người phụ nữ có cơ
hội nâng cao sức khoẻ, chất lượng cuộc sống, giúp cho hệ thống y
tế giảm những trường hợp nặng nề, không chủ động được trong
điều trị, giúp cải thiện sức khoẻ cộng đồng. Tuy nhiên, việc này
hiện vẫn chưa được quan tâm đúng mức, chỉ thực hiện ở một số
bác sĩ, một số trung tâm, một số chuyên khoa rời rạc, chưa có một
chương trình hệ thống. Bản thân bệnh nhân khi muốn tìm một lời
khuyên hữu ích cũng rất khó khăn, phải đi lại nhiều chuyên khoa
khác nhau. Và để làm tốt việc chăm sóc này, cần có sự hiểu biết
của người dân, sự sẵn có của hệ thống dịch vụ y tế và sự liên kết
nhiều chuyên khoa chứ không chỉ là cố gắng của riêng ngành sản
phụ khoa.

×