Tải bản đầy đủ (.ppt) (22 trang)

bai bao cao potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.75 KB, 22 trang )


4.4.Nhu cầu phân bón đa lượng đối với cây lương thực:
4.4.1. Nhu cầu phân bón đa lượng ở cây lúa:
4.4.1.1.Vai trò các nguyên tố đa lượng đối với lúa:

Đạm là nguyên tố quan trong nhất giúp cho lúa sinh trưởng và phát
triển, tăng khả năng đẻ nhánh, các nhánh hữu hiệu và kiến tạo năng suất.

Lân có vai trò quan trọng trong sự phát triển của hệ rễ giúp cho lúa có
thể hút các chất dinh dưỡng từ đất. Trong một số trường hợp đất phèn và
đất phèn mặn thì lân còn có vai trò kìm hãm các độc tố giúp cho lúa sinh
trưởng và phát triển.


Kali đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của cây lúa. Ngoài
ra có vai trò trong việc vận chuyển các chất, giúp cho cây cứng, tăng khả
năng chống đổ và chống chịu sâu bệnh
Như vậy, đạm, lân và kali là các nguyên tố rất cần thiết cho sự sinh trưởng và
phát triển của sinh vật. Tuy các chất này luôn dự trữ trong đất với một lượng
nhất định, nhưng thường không đủ cho cây lúa đạt hiệu quả cao về năng suất
và chất lượng lúa gạo. Do vậy, trong từng vụ lúa, nông dân phải cung cấp
thêm đạm, lân, kali và một số chất dinh dưỡng cần thiết khác; phải bón phân
cân đối. Nhu cầu các loại phân bón khác nhau phụ thuộc vào giai đoạn sinh
trưởng của cây lúa, vùng đất, giống lúa, mùa vụ và điều kiện canh tác, chăm
sóc

4.4.1.2.Nhu cầu phân bón đa lượng ở các giống lúa:
Với các giống lúa khác nhau nhu cầu dinh dưỡng cũng khác
nhau.

 Hiện nay các giống lúa lai thường có nhu cầu dinh dưỡng cao


hơn các giống lúa thuần.
Bảng 1: Liều lượng phân bón áp dụng cho các giống lúa thuần &
lúa lai


Bảng : Liều lượng phân bón áp dụng cho
các giống lúa thuần & lúa lai
Giống
Phân
chuồng
(Tấn/ha)
Đạm (tấn/ha) Lân (kg/ha) Kali (kg/ha)
N U-rê
P
2
O
5
Lân
super
K
2
O
KCl
Các
giống
lúathuần
+ Lúa
ngắn và
trung
ngày 90-

120 ngày
8-10 100-120 220-260 50-60 300-350 48-60 80-100
+ Lúa dài
ngày
>120
ngày
8-10
115-138 250-300 60-70 350-400 60-90 100-150
Các
giống lúa
lai
8-10
138-147 300-320 70-75 400-450 90-120 150-200

4.4.1.3.Nhu cầu phân đa lượng ở các giai đoạn sinh trưởng và
phát triển của cây lúa:
Các yếu tố dinh dưỡng trong phân bón cung cấp cho cây lúa
có vai trò khác nhau, vì vậy trong kỹ thuật bón phân cho lúa ở mỗi
thời kỳ phát triển, cần phải cung cấp một lượng đạm, lân và kali
khác nhau. Trong các giai đoạn sinh trưởng, nếu bị thiếu hoặc bị
thừa một yếu tố dưỡng chất nào đó cũng đều có ảnh hưởng
không tốt đến sự sống và năng suất của cây lúa.

4.4.1.3.1.Phân đạm:

Yêu cầu về đạm của cây lúa thay đổi theo thời gian sinh
trưởng. Cây lúa cần nhiều đạm trong thời kỳ đẻ nhánh, nhất là
thời kỳ đẻ nhánh cực đại. Khi kết thúc thời kỳ phân hóa đòng,
hầu như cây lúa đã hút trên 80% tổng lượng đạm cho cả chu
kỳ sinh trưởng.


Thời điểm thích hợp nhất để bón đạm cho cây lúa vào lúc
cấy (hoặc lúc gieo thẳng) và lúc cây lúa bắt đầu làm đòng,
cũng không nên bón đạm cho lúa khi vừa cấy xong.

Cách bón phân đạm tốt nhất là trước khi cấy (hoặc lúc
gieo thẳng) phân đạm được trộn với đất để cho phân đạm gần
rễ hơn và được giữ trong keo đất.
4.4.1.3.2. Phân lân:
o
Cây lúa hút lân trong suốt thời kỳ sinh trưởng từ khi cây lúa
mọc đến khi lúa trỗ, nhưng hút lân mạnh nhất vẫn là thời kỳ đẻ
nhánh và làm đòng, tuy nhiên giai đoạn đầu nhu cầu về lân của
cây lúa là rất thấp.
o
Cây lúa được bón đầy đủ lân và cân đối đạm sẽ phát triển
xanh tốt, khỏe mạnh, chống đỡ với điều kiện bất thuận như hạn,
rét.
4.4.1.3.2.Phân Kali:

Kali thúc đẩy tổng hợp prôtit, do vậy nó hạn chế việc tích lũy
nitrat trong lá, hạn chế tác hại của việc bón thừa đạm cho lúa. Ở
giai đoạn lúa đẻ nhánh và giai đoạn lúa làm đòng bón nhiều kali.
Chúng ta xét ví dụ:

ví dụ: ở lúa có thời gian sinh trưởng 90 ngày và các dạng phân
đơn được chọn để làm chuẩn như sau:

Bón lót: bón 100% lượng lân dưới dạng phân lân đơn (phân
super lân, lân nung chảy), chôn vùi vào trong đất trước khi trục

trạc lần cuối, sau đó gieo sạ ngay.

Bón phân đợt một: khoảng 7- 10 ngày sau khi sạ, chất dinh
dưỡng được bón chủ yếu là khoảng 33% lượng đạm dưới dạng
phân Urea.

Bón phân đợt hai: khoảng 18-22 ngày sau sạ, 33% lượng
đạm dưới dạng phân Urea.

Bón phân đợt ba: đến 30 ngày sau khi sạ tức vào khoảng 10
ngày sau khi bón phân đợt hai, nên rút nước cạn toàn bộ ruộng
trong vòng 10 ngày để giúp rửa trôi các chất độc trong đất, kích
thích hệ thống rễ mới phát triển.

4.4.1.4.Nhu cầu phân bón đa lượng ở các loại đất và kỹ thuật canh tác
làm tăng lượng N,P,K trong đất:
+Phân đạm: Xác định lượng đạm bón cho lúa phụ thuộc nhiều vào thời
tiết, vụ trồng hơn là phụ thuộc vào đất. Vì trong lớp đất canh tác 20cm,
số lượng đạm huy động từ đất là rất ít. Cho nên, có thể nói, năng suất lúa
cao hay thấp phụ thuộc nhiều vào lượng đạm bón.
-Bón đạm chôn vùi sâu dưới đất, khỏi tầng oxid hóa trên lớp đất mặt thì
đạm ít bị mất mát.
+Phân lân: Cây chỉ hút một phần lượng lân bón vào đất (tối đa khoảng
30%), lượng lân còn lại được cây trồng vụ sau sử dụng.
Ở những chân ruộng thôi chua, đất giàu sét, nhiều kim loại nặng (Fe,
Al…), cần phải bón nhiều lân hơn so với chân đất khác và bón thêm một
lượng vôi tả.
Có thể bón nhiều hơn mức cây cần một ít để tránh trường hợp thiếu lân
mà phân đạm không phát huy hết hiệu quả


*Lưu ý:
+Sau khi thu hoạch lúa Đông Xuân, đất được cày phơi ải đủ thời
gian (ít nhất ba tuần) trong mùa nắng cho mùn hoá, khoáng hóa
chất hữu cơ thì lượng dưỡng chất hữu dụng trong đất gia tăng.
+ Phân kali:
-Đất không trồng màu, để ải giàu kali hơn đất trồng màu; đất sét
giàu kali hơn đất cát; đất kiềm > đất chua, đất nặng > đất nhẹ…
-Đất được bón nhiều phân chuồng giàu kali hơn đất không được
bón, đất được vùi rơm rạ hoặc thân lá cây màu giàu kali hơn đất
không được vùi.
Lưu ý khi bón phân đạm:

 Lưu ý khi bón phân đạm:

Khi bón phân, không nên bón khi ruộng khô nẻ rồi cho nước vào
ruộng thì một phần phân đạm sẽ biến thành khí bốc hơi bay đi. Ngược
lại nếu bón đạm cho đất ngập nước thường xuyên làm thay đổi dạng
đạm (dạng đạm này dễ chuyển thành thể khí bay lên).

Khi quan sát thấy trời sắp mưa không nên bón đạm vì như vậy
lượng đạm vừa bón sẽ dễ bị rửa trôi; khi nắng nóng gay gắt vào buổi
trưa, đầu giờ chiều cũng không nên bón đạm vì đạm dễ bị bay hơi. Trời
quang đãng, vào buổi sáng hoặc chiều tối là thời điểm bón đạm tốt nhất.

Không nên bón khi lá lúa còn ướt bởi phân đạm sẽ dính lại trên lá
ướt và với lượng nhiều có thể gây cháy lá; phân đạm đã hòa tan vào
những giọt nước trên lá lúa sẽ bị mất vào không khí khi các giọt nước
đó bốc hơi, khô đi.

Bón phân với liều lượng phù hợp dựa vào màu sắc lá lúa, ta dùng

bảng so màu lá lúa để xem cây đang ở trạng thái thừa,thiếu hay đủ
đạm.

4.4.1.4.1.Phân đạm:

Thời tiết lạnh, ít mưa cần bón nhiều đạm cho lúa hơn (vụ xuân > vụ mùa.

Khi thời tiết ấm dần lên (giai đoạn giữa vụ) đạm ở chất hữu cơ được
phân giải,nếu bón đạm thêm lúc này cây lúa dễ bị lốp đổ do thừa đạm.

4.4.1.4.Nhu cầu phân bón đa lượng ở các vụ lúa:
4.4.1.4.2.Phân lân:
Ngoài vai trò là dinh dưỡng thiết yếu, phân lân còn có vai trò cải tạo đất,
cung cấp dinh dưỡng cho vi sinh vật nên nhu cầu phân lân cho lúa vụ hè thu
cao hơn vụ đông xuân.
4.4.1.4.1.Phân Kali:

Trong vụ xuân, nhiệt độ đầu vụ thấp nên ưu tiên bón Kali sớm và nhiều
hơn vụ khác. Nếu đất được trồng nhiều vụ (3- 4 vụ/năm), thời gian đất được
nghỉ ngắn cần chú ý bón lót kali.

Ngược lại, những chân ruộng chỉ cấy 02 vụ lúa và có điều kiện cày ải
trong vụ đông thì chỉ cần bón ít và thúc vào các thời kì cây cần nhất (đứng
cái làm đòng và trước trổ).

4.4.2 .Triệu chứng thừa, thiếu các nguyên tố đa lượng:
4.4.2.1. Phân Đạm:

Thiếu đạm: cây phát triển còi cọc, nẩy chồi kém, lá nhỏ và
ngắn về sau chuyển sang màu vàng nhạt, cây lùn, bông ngắn

và cho năng suất thấp.

Dư đạm: thân lá phát triển mạnh, cây mềm yếu dễ bị lốp và
đổ ngã trong mùa mưa (vụ hè thu), ảnh hưởng đến thời gian
sinh trưởng kéo dài, trổ và chín chậm, sâu bệnh phát triển
mạnh. Hình ảnh

Hình1: lúa sắp chín, mà cây lá vẫn còn xanh, ta biết lượng phân
đạm Urê (N) quá thừa, nhưng lại thiếu các loại phân Lân, Kali cần
để phát triển bông dài, phát triển hạt lúa chắc nịch, nên ta không
thấy bông, chỉ thấy lá nếu đầu tư phân đúng cách thì bông vượt
lên khỏi lá, khi lúa chín ta thấy toàn bông. Mật độ cây lúa (độ dày)
như trên là tốt, nhưng sản lương vẫn chưa đạt yêu cầu tối đa,
thời gian lúa chín sẽ dài ngày hơn bình thường
Hình2: bông lúa dài, gần vượt khỏi lá lúa, nên ta thấy bông rỏ
ràng hơn h1, nhưng mật độ cây lúa còn quá thưa, lúa gần gặt,
mà cây lá vẫn còn xanh, ta biết là dư đạm, kết quả vẫn chưa đạt


Thiếu Kali: Lá lúa có màu vàng da cam, vàng nâu, Vệt vàng phát
sinh từ đỉnh phiến lá rồi lan theo mép lá xuống phía gốc lá. Nhiều khi
trên phiến lá xuất hiện các đốm nâu. Phần phiến lá không bị vết bệnh
có màu xanh đen. Bệnh thiếu kali thường xảy ra trên chân đất lầy thụt,
bón quả nhiều đạm, bón ít kali.


Nếu quá thừa kali sẽ kìm hãm quá trình hút nước, ngăn cản hấp thu
Mg, ức chế quá trình hấp thu đạm.
4.4.2.2. Phân Kali:


4.4.2.3. Phân lân:

Thiếu lân: cây lúa phát triển còi cọc, nở bụi kém. Lá lúa nhỏ
và ngắn về già chuyển sang màu mâu đỏ và màu tía, số
lượng hạt trên bông thấp và năng suất giảm.

Thừa lân: không gây tác hại gì chỉ lưu tồn trong vụ sau.

4.4.3.3. Nhu cầu và vai trò các nguyên tố đa lượng đối với cây
ngô :
4.4.3.3.1.Vai trò của nguyên tố Nitơ đối với cây ngô:

Đạm là yếu tố dinh dưỡng rất quan trọng nhất, đóng vai trò
tạo năng suất và chất lượng. Đạm được tích luỹ trong hạt 66%.
Cây ngô hút đạm tăng dần từ khi cây có 3-4 lá tới trước trổ cờ.

Ở nước ta, một số kết quả nghiên cứu cho thấy thời kỳ hút
đạm mạnh nhất là 6-12 lá và trước khi trổ cờ, nếu các giai đoạn
này mà thiếu đạm thì năng suất giảm rõ rệt.

Cây ngô hút đạm trong suốt quá trình sinh trưởng và phát
triển. Nhưng hút tập trung vào giai đoạn 25-75 ngày sau gieo (với
giống có thời kỳ sinh trưởng 120-125 ngày),giai đoạn này cây hút
tới 56% tổng lượng cây hút trong suốt cả mùa vụ. Từ khi gieo đến
25 ngày sau gieo và giai đoạn 25 ngày trước khi chín hòan
tòanhút khoảng 18-20% tổng lượng N cây hút cả vụ.

Thời kỳ còn lại từ 75 ngày sau gieo đến 100 ngày sau khi gieo
cây hút 20-26% .


4.4.3.3.2.Vai trò của nguyên tố Phôtpho đối với cây ngô:

Lân là yếu tố quan trọng đối với sinh trưởng và phát triển
của cây, tuy nhiên khả năng hút lân ở giai đoạn cây non lại rất
yếu.

Thời kỳ 3-4 lá, cây ngô hút không được nhiều lân, đó là
thời kỳ khủng hoảng lân của ngô, nếu thiếu lân trong giai đoạn
này sẽ làm giảm năng suất nghiêm trọng.

Cây ngô hút nhiều lân nhất (khoảng 62% tổng lượng lân
yêu cầu) ở thời kỳ 6-12 lá sau đó giảm đi ở các thời kỳ sau.
Đặc điểm hút lân của cây ngô:

Thời kỳ từ mọc đến 25 ngày sau gieo, cây ngô hút khỏang 9-
10% tổng lượng cây hút cả vụ.

Thời kỳ 25-50 ngày đầu cây ngô hút 40-43%.

Thời kỳ trổ cờ đến phun râu, cây ngô hút 28-33% tổng lượng
lân cây hút cả vụ.

Từ làm hạt đến phun râu, hút 14-17% tổng lượng lân.

4.4.3.3.3.Vai trò của nguyên tố Kali đối với cây ngô:

Kali có vai trò rất quan trọng tới sự sinh trưởng, phát triển và
năng suất của ngô. Kali tích luỹ nhiều ở thân lá (khoảng 80%) và
tích luỹ trong hạt ít hơn. Cây ngô hút kali mạnh ngay từ giai
đoạn sinh trưởng ban đầu. Từ khi cây mọc tới trổ cờ ngô đã hút

khoảng 70% lượng kali cây cần. Đặc điểm hút Kali
Đặc điểm hút kali của cây ngô:

Từ 0- 25 ngày, cây ngô hút 25-30% tổng lượng Kali cây hút
cả vụ.

Từ 25-60 ngày, cây hút 60-65% tổng lượng cây ngô hút cả vụ.

4.4.3.4. Triệu chứng thừa, thiếu các nguyên tố đa lượng ở cây
ngô :
4.4.3.4.1 Triệu chứng thừa, thiếu nitơ:

Bón thừa đạm: sẽ kéo dài thời kỳ sinh trưởng của cây, lá xanh
thẩm, khả năng chống chịu của cây kém.Cây yếu ớt, dễ đổ khi có
gió to.

Triệu chứng thiếu đạm: cây thấp, lá nhỏ có màu vàng, các lá
già có vệt xém đỏ, cây sinh trưởng chậm, cằn cỗi, cờ ít, bắp nhỏ,
năng suất thấp.
Hình ảnh:


4.4.3.4.2.Triệu chứng thừa, thiếu photpho:

Khi thừa lân rất khó phát hiện, khả năng sử dụng lân của cây
kém hơn, vì trong trường hợp này rất nhiều lân nằm ở dạng vô
cơ, nhất là các bộ phận sinh trưởng, cây chín sớm.Tuy nhiên
thừa lân dễ làm cho cây thiếu kẽm và đồng. .

Triệu chứng thiếu lân của ngô biểu hiện bằng màu huyết dụ

trên bẹ lá và gốc cây, trái cong queo. Trường hợp thiếu nặng lá
sẽ chuyển vàng và chết.

4.4.3.4.2.Triệu chứng thừa, thiếu kali:

Bón quá nhiều kali có thể gây tác động xấu lên rễ cây, làm
cây teo rễ. Nếu bón quá thừa phân kali trong nhiều năm, có thể
làm cho mất cân đối với natri, magiê. Khi xảy ra trường hợp này
cần bón bổ sung các nguyên tố vi lượng magiê, natri.

Thiếu kali các chất prôtit và sắt sẽ tích tụ gây cản trở quá trình
vận chuyển chất hữu cơ. Thiếu kali là nguyên nhân rễ ngang phát
triển mạnh, rễ ăn sâu kém phát triển do đó cây dễ đổ ngã. Thiếu
kali thể hiện ở các triệu chứng như chuyển nâu và khô dọc theo
mép lá và chóp lá, bắp nhỏ, nhiều hạt lép ở đầu bắp (bắp đuôi
chuột), năng suất thấp.
Hình ảnh:

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×