Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình hình thành ứng dụng điều chỉnh quy trình quốc hữu hóa doanh nghiệp tư bản tư nhân p3 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.58 KB, 10 trang )


Trong nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở
nớc ta sở dĩ thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo bởi vì
những lý do chính sau:
Thứ nhất, chúng ta đều biết chính trị là biểu hiện tập
trung của kinh tế . Nền chính trị của Việt Nam do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với mục tiêu da nớc ta tiến
lên CNXH, thực hiện dân giàu nớc mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh. Thành phần KTNN của nớc ta
mà trớc hết là các doanh nghiệp Nhà nớc cũng phải phục
vụ cho nhiệm vụ này.
Trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nớc ta do hạn
chế của trình độ lực lợng sản xuất phát triển còn thấp, các
quan hệ sở hữu còn tồn tại dới nhiều hình thức, do đó nền
kinh tế nớc ta ở giai đoạn này là một nền kinh tế hỗn hợp
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng. Tuy vây,
cơ chế thị trờng không phải là hiện thân của sự hoàn hảo.
Bên cạnh những u điểm to lớn của nó mà không ai có thể
phủ nhận thì nó cũng tồn tại những khuyết tật nh: gây ra
sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, khủng hoảng kinh tế,
các tệ nạn xã hội vv điều đó đòi hỏi cơ chế thị trờng phải

có bàn tay quản lý, điều tiết của Nhà nớc. Và công cụ hữu
hiệu nhất mà thông qua nó nhà nớc thể hiện vai trò điều
tiết của mình đó là thành phân KTNN. Chỉ có KTNN mới
có thể bảo đảm vững chắc định hớng XHCN, đảm bảo cho
lợi ích của ngời lao động, khắc phục những tiêu cực,
khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trờng, phân phối lại
thu nhập quốc dân một cách công bằng là động lực thúc đẩy
phát triển và tăng trởng kinh tế, gắn liền với cải thiện đời
sống nhân dân, với tiến bộ và công băng xã hội. Vai trò đó


của KTNN đã đợc chứng minh qua thc tiễn phát triển
kinh tế và ổn định xã hội ở nớc ta sau đổi mới đến nay:
Đầu những năm 1990 mặc dù gặp phải hoàn cảnh hết
sức khó khăn, khắc nghiệt nh: thể chế xã hội ở Liên Xô và
các nớc Đông Âu sụp đổ. Mĩ thực hiện chính sách bao
vây, cấm vận, khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực 1997
1998 tác động mạnh, thiên tai liên tiếp xảy ra việc
chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị
trờng định hớng XHCN có những thời cơ và thuận lợi
mới nhng bao hàm cả những khó khăn thách thức. Song
chúng ta vẫn đạt đợc những thành tựu to lớn và rất quan
trọng GDP năm 2000 tăng gấp 2 lần năm 1990, tình hình

chính trị xã hội cơ bản ổn định, đời sống của các tầng lớp
nhân dân đợc cải thiện, quốc phòng an ninh đợc tăng
cờng, sức mạnh về mọi mặt của nớc ta đã lớn hơn nhiều
so với 10 năm trớc. Kết quả trên có đợc là do sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng, trong đó KTNN góp phần rất to lớn.
Năm 2000 DNNN làm ra 39,5% GDP và đóng góp 39,2%
tổng thu ngân sách, chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu
DNNN là đối tác chủ yếu trong hợp tác đầu t nớc ngoài,
chiếm 98% số dự án liên doanh với nớc ngoài. DNNN có
năng lực sản xuất kinh doanh lớn, cơ cấu ngày càng hoàn
thiện và từng bớc mở rộng thị trờng trong và ngoài nớc.
Các tổng công ty có quy mô lớn tuy chỉ chiếm 24,8% tổng
số DNNN nhng nắm giữ 65% tổng số vốn và 61% số lao
động, trình độ công nghệ quả lý có nhiều tiến bộ. Chất
lợng, hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN đợc nâng lên,
góp phần chủ yếu để KTNN thực hiện đợc vai trò chủ đạo,
đảm bảo ổn định chính trị xã hội. Đây cũng là lực lợng

quan trọng thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu
quả thiên tai và đảm bảo sản xuất dịch vụ thiết yếu cho an
ninh quốc phòng. Có thể khẳng định KTNN nói chung và
các DNNN nói riêng đã góp phần quan trọng vào thành tựu
to lớn của sự nghiệp đổi mới đa đất nớc thoát ra khỏi

khủng hoảng kinh tế xã hội. Đứng vững trớc những tác
động của khủng hoảng kinh tế quốc tế, khu vực. Tạo tiền đề
cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo
định hớng XHCN.
Thứ hai là KTNN luôn nắm giữ những vị trí then chốt,
trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân do đó chỉ có KTNN
mới có khả năng chi phối, dẫn dắt các thành phần kinh tế
khác, đảm bảo đợc các mục tiêu phát triển KT-XH, thực
hiện CNH-HĐH trong điều kiện thị trờng vẫn cha hoàn
thiện, ngời dân có thu nhập thấp, tích luỹ không đủ tạo
nguồn đầu t cơ bản, kinh tế t nhân còn nhỏ bé thì DNNN
có vai trò huy động vốn đầu t xây dựng những công trình
lớn, hiện đại. Mặt khác với sự phát triển ngày càng cao của
nền kinh tế đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng tốt để bảo
đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh và bền vững.
Nhng thờng thì những ngành này đòi hỏi phải có vốn đầu
t lớn, thời gian thu hồi vốn chậm hoặc có lãi suất thấp nh
các ngành: giao thông vận tải, giáo dục, y tế, năng lợng
vvĐể thực hiện đợc điều đó đòi hỏi Nhà nớc phải đầu
t trực tiếp vào các lĩnh vực này nhằm củng cố thêm nội lực
cho thành phần KTNN để đạt đợc các mục đích: dẫn dắt

nền kinh tế phát triển theo định hớng XHCN, đảm bảo cho
nền kinh tế phát triển một cách toàn diện, vững chắc, chống

khủng hoảng kinh tế, ngăn ngừa những đột biến xấu trong
nền kinh tế. Ngoài ra DNNN là lực lợng vật chất chủ lực
để nhà nớc can thiệp, bình ổn thị trờng, hạn chế ảnh
hởng xấu của ngành nghề độc quyền tự nhiên có tác hại
lớn cho nền kinh tế.
Thứ ba, trong xu thế toàn cầu hoá hội nhập kinh tế
quốc tế, chỉ có DNNN là những đơn vị tổ chức kinh tế lớn
của quốc gia là có đủ khả năng hợp tác liên doanh với các
công ty lớn quốc tế đồng thời làm đối trọng với họ trên thị
trờng trong nớc và vơn ra thị trờng quốc tế, góp phần
quan trọng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của đất
nớc.
Không chỉ riêng Việt Nam mà Trung Quốc cũng là
nớc chủ trơng xây dựng CNXH thông qua phát triển nền
kinh tế thị trờng mà KTNN giữ vai trò chủ đạo, với tỉ trọng
trên70% của chế độ công hữu trong toàn bộ nền kinh tế
song Trung Quốc vẫn giữ mức tăng trởng kinh tế vào loại
cao nhất thế giới, đạt khoảng trên dới 10% liên tục trong

nhiều năm và đang có dự báo cho rằng trong tơng lai
không xa Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế số một thế
giới, lớn hơn cả Mỹ về giá trị tuyệt đối. Ngay chính ở các
nớc t bản, DNNN cũng còn có vai trò không nhỏ. Theo
đánh giá của UNDP, DNNN trong các nớc t bản phát
triển vẫn còn chiếm khoảng 10%.
Từ những lý do trên ta có thể khẳng định KTNN có vai
trò chủ đạo và sự tồn tại của KTNN là một tất yếu khách
quan và chỉ có phát huy vai trò chủ đạo của KTNN thì
chúng ta mới có một nền kinh tế độc lập tự chủ. Bởi vì
KTNN nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế cho nên tạo

ra khối lợng hàng hoá dịch vụ công cộng lớn chi phối giá
cả thị trờng, dẫn đát giá cả thị trờng bằng chính chất
lợng, giá cả của sản phẩn dịch vụ do mình cung cấp.
Thông qua đó Nhà nớc có thể kiểm soát đợc thị trờng,
xây dựng nền kinh tế nớc ta trở thành một nền kinh tế
vững mạnh toàn diện luôn chủ động hội nhập vào nền kinh
tế thế giới và có sức cạnh tranh cao trên thị trờng quốc tế.
1.Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc

Nh chúng ta đã biết vai trò chủ đạo của KTNN trong
nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN là một tất yếu
khách quan và trong thời kỳ quá độ hiên nay vai trò ấy lại
đợc thể hiên sâu sắc và cấp thiết hơn bao giờ hết. Đại hội
Đảng VIII đã khẳng định KTNN có 4 vai trò:
- Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trởng kinh tế và giải
quyết các vấn đề xã hội.
- Mở đờng, hớng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế
khác cùng phát triển.
- Là lực lợng vật chất để thực hiện chức năng quản lý
điều tiết vĩ mô.
- Tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.
Với hình thức tổ chức đa dạng và phạm vi rộng khắp ở các
lĩnh vực kinh tế trong nền kinh tế đất nớc. Tính chất chủ
đạo của KTNN thể hiện qua các nội dung chính sau đây:

Nội dung thứ nhất cũng là nội dung quan trọng nhất
của KTNN đó là KTNN thực hiện chức năng điều tiết hệ
thống kinh tế xã hội thông qua các công cụ xã hội khác
nhau trong đó DNNN là công cụ thiết yếu.
ở nớc ta các DNNN đợc hình thành ở các lĩnh vực sản

xuất kinh doanh đợc coi là không hấp dẫn bởi khả năng
sinh lời thấp. Chẳng hạn là khu vực sản xuất sản phẩm công
cộng. Thực hiện chức năng điều tiết của DNNN theo hớng
này tạo ra tính cân đối giữa các ngành của nền kinh tế quốc
dân. Với t cách là công cụ điều tiết, việc hình thành và tồn
tại của các DNNN trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào
đó không cố định, luôn đợc nhà nớc thực hiện theo
phơng châm: ở đâu, khi nào nền kinh tế kinh quốc dân
dang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng cụ thể
nào đó mà các doanh nghiệp dân doanh hoặc không đủ sức
kinh doanh hoặc chối từ thì ở đó và khi đó cần có sự có mặt
của DNNN. Đến một lúc nào đó khi các doanh nghiệp dân
doanh đã đủ sức đáp ứng nhu cầu thị trờng, DNNN có thể
rút khỏi thị trờng đó nhờng chỗ cho các doanh nghiệp
dân doanh, quá trình đó diễn ra một cách liên tục, lặp đi lặp

lại ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế hình thành vai trò điều
tiết của DNNN.
Chức năng điều tiết của DNNN còn thể hiện ở việc
điều tiết kinh tế trong phạm vi từng vùng. ở từng vùng cũng
diễn ra hiện tợng các doanh nghiệp dân doanh chỉ đổ xô
vào kinh doanh các mặt hàng dễ sinh lợi nhuận nên dẫn đến
những mất cân đối trong sản xuất kinh doanh của từng
vùng. Chính DNNN cũng phải xuất hiện ở các ngành mà
những vùng kinh tế của đất nớc đang đòi hỏi nhằm điều
tiết cung cầu ở các vùng đó. Chức năng điều tiết vùng của
DNNN đặc biệt quan trọng đối với các vùng xa, vùng sâu
và vùng nông thôn.
Nội dung thứ hai. Do KTNN nắm giữ phần lớn tài sản
của nền kinh tế nên tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ công

cộng khả dĩ chi phối đợc giá cả thị trờng, dẫn dắt giá cả
thị trờng bằng chính chất lợng và giá cả của sản phẩm và
dịch vụ do mình cung cấp đồng thời tạo ra các sản phẩm và
dịch vụ có tác dụng thúcđẩy các ngành và các thành phần
kinh tế khác phát triển.

Nội dung thứ ba. KTNN kiểm soát các hoạt động của
thị trờng vốn và thị trờng tiền tệ để đảm bảo khả năng ổn
định kinh tế vĩ mô của nhà nớc. Các công cụ tài chính, tiền
tệ, tín dụng là các công cụ chính yếu của nhà nớc trong
quản lý kinh tế vĩ mô.
Nh vậy, thành phần KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở
chỗ: chi phối các thành phần kinh tế khác, làm biến đổi các
thành phần kinh tế khác theo đặc tính của mình (dẫn dắt các
thành phần kinh tế khác phát triển theo định hớng XHCN)
tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hàng hoá, chiếm giữ các
ngành kinh tế then chốt và trọng yếu của xã hội, làm đòn
bẩy đẩy nhanh tăng trởng kinh tế gắn liền với công bằng
xã hội. Đóng góp phần lớn vào tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) của toàn xã hội. Do đó xác định nội dung chủ đạo
của khu vực KTNN theo các tính chất nêu trên sẽ giúp
chúng ta trong việc định hớng đúng việc sắp xếp lại các tổ
chức kinh tế hiện có, định hớng cho hoạt động đầu t của
Ngân Hàng Nhà Nớc và thiết lập các định chế yểm trợ
phát triển chung

×