Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.01 KB, 32 trang )

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI
Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
GVHD: Ths. Phạm thị Bích Duyên
SVTH: Nguyễn Thị Bích Liên
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
  
Ngày nay, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu trong tiến
trình toàn cầu hóa nền kinh tế. Có thể thấy việc gia nhập tổ chức thương mại
thế giới (WTO) chính là cơ hội để Việt Nam tiến sâu vào hội nhập và phát
triển bình đẳng với các quốc gia trên thế giới. Song nhìn về đặc điểm, trình
độ, các mối quan hệ kinh tế hiện hữu và năng lực điều hành kinh tế vi mô, vĩ
mô, thì chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức không phải là nhỏ.
Gắn với công cụộc đổi mới và mở cửa ở nước ta, có nhiều yêu cầu phải giải
quyết cùng một lúc: vừa ổn định, vừa phát triển kinh tế trong nước, vừa mở
rộng giao lưu quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài… Vì vậy cần
phải có những bước đi thận trọng với những chính sách linh hoạt để tránh
những “cơn sốc” hay “khủng hoảng” đối với kinh tế Việt Nam trên con đường
hội nhập.
Chính sách tiền tệ (CSTT) là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực
kỳ quan trọng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng
lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm
phát… Để đạt được các mục tiêu của CSTT thì việc sử dụng các công cụ của
nó có vai trò cơ bản, quyết định. Từ khi đổi mới đến nay, các công cụ của
CSTT dang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
2


Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
nền kinh tế. Việc lựa chọn các công cụ sao cho phù hợp và việc sử dụng
chúng sao cho hiệu quả nhất trong từng giai đoạn kinh tế luôn là một vấn đề
mà Nhà nước quan tâm theo dõi và đưa ra các quyết định cụ thể. Đặc biệt
trong bối cảnh hiện nay, thì việc nghiên cứu các công cụ của CSTT là vấn đề
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “Các
công cụ của CSTT ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” để
tìm hiểu và nghiên cứu.
Ngoài phần mở bài và kết luận, đề tài gồm 03 chương với bố cục như
sau:
Chương 1: Tổng quan về CSTT trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng việc sử dụng các công cụ của CSTT ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện các công cụ của CSTT
ở Việt Nam hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo
ThS. Phạm Thị Bích Duyên đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Vì kiến thức cũng như kinh nghiệm còn non trẻ và thời gian hạn hẹp
nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được sự góp ý của cô
để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Ngọc Liên

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
3
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

I. Khái niệm, vị trí và đặc trưng của CSTT
1. Khái niệm
CSTT của NHTƯ là tập hợp những chủ trương, biện pháp, nguyên tắc
cũng như các công cụ mà NHTƯ sử dụng để điều tiết, điều hòa khối lượng
tiền trong nền kinh tế nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, tạo
nền tảng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống của người dân.
Điều 2, Luật NHTƯVN quy định: CSTTQG là một bộ phận của chính
sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm
chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.
Tùy theo điều kiện mỗi nước, CSTT có thể được xác lập theo hai
hướng: CSTT mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất
kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng – CSTT chống thất nghiệp)
hoặc CSTT thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản
xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng – CSTT ổn
định giá trị đồng tiền).
2. Vị trí
Vị trí CSTT: Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước
thì CSTT là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
4
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các
chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khóa, chính sách thu nhập,
chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với NHTƯ việc hoạch định và thực thi CSTT là hoạt động cơ bản
nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho CSTT quốc gia được thực hiện
có hiệu quả hơn.
3. Đặc trưng của CSTT

CSTT là một bộ phận hữu cơ cấu thành chính sách tài chính quốc
gia.
Mức độ tiền tệ hóa cao hay thấp còn thể hiện trình độ phát triển kinh tế
một nước. Vì vậy, tiền tệ đã trở thành một yếu tố rất quan trọng trong một nền
kinh tế. CSTT là một bộ phận trung tâm của các chính sách kinh tế - tài chính
quốc gia.
CSTT là công cụ thuộc tầm vĩ mô.
Khối lượng tiền tệ là đối tượng mà một số NHTƯ xem là yếu tố cần
tác động chính, từ đó tác động đến lãi suất, đầu tư, ảnh hưởng đến sản xuất và
lưu thông hàng hóa. Vì vậy, CSTT là một chính sách thuộc tầm vĩ mô.
NHTƯ là người đề ra và vận hành CSTT.
CSTT hướng đến việc thay đổi lượng tiền cung ứng và lưu thông sao
phù hợp với mục tiêu, vì vậy chủ thể nào cung ứng tiền thì chủ thể đó phải
trực tiếp vạch ra CSTT.
II. Mục tiêu của CSTT
1. Ổn định giá cả
NHTƯ thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị
đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên hai mặt:
Sức mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hóa dịch vụ trong nước) và
sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Ổn định
giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để định hướng sự phát triển kinh tế của quốc
gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi trường kinh tế
vĩ mô. Mức lạm phát thấp và ổn định thúc đẩy nhu cầu đầu tư và đảm bảo sự
phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả. Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn
định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát = 0 vì vậy nền kinh tế

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
5
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
không thể phát triển được, để có một tỷ lệ lạm phát giảm phải chấp nhận một

tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
2. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi Chính phủ trong việc
hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng
trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng,
nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ. CSTT phải đảm bảo sự
tăng lên của GDP thực tế. Nếu mức gia tăng GDP thực tế cao hơn nhịp độ
tăng trưởng dân số thì nền kinh tế thật sự có tăng trưởng. Một nền kinh tế
phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định là mục tiêu vĩ mô của bất kỳ
mọi quốc gia.
3. Tạo việc làm
CSTT phải quan tâm đến khả năng tạo công ăn việc làm, giảm thất
nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này CSTT hướng vào việc khuyến khích đầu
tư, gia tăng sản xuất, làm tăng việc làm. Ngược lại khi nền kinh tế được mở
rộng sẽ có tác dụng chống suy thoái, đạt được những tăng trưởng ổn định.
Như vậy, CSTT mở rộng hay thu hẹp đều có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử
dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh
hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm
thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
Sự phối hợp ba mục tiêu: ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, tạo công
ăn việc làm là rất quan trọng. Vì giữ các mục tiêu có sự mâu thuẫn với nhau,
nên NHTƯ không thể theo đuổi tất cả các mục tiêu trên trong một khoảng
thời gian nhất định. Do vậy, khi đặt ra các mục tiêu cho CSTT, cần phải có sự
dung hòa. Cụ thể là phải tùy lúc, tùy thời, tùy điều kiện cụ thể mà sắp xếp thứ
tự ưu tiên. Muốn vậy NHTƯ phải luôn nắm bắt được thực tế diễn biến của
quá trình thực hiện các mục tiêu, nhằm điều chỉnh chúng khi có sự thay đổi
bằng những giải pháp thích hợp.
III. Các công cụ của CSTT
Để thực thi CSTT, thực hiện chức năng và vai trò của mình, NHTƯ đã
sử dụng hàng loạt các công cụ như: lãi suất, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín

dụng, cho vay tái chiết khấu… Mỗi loại công cụ có cơ chế vận hành riêng và

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
6
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
có ưu nhược điểm khác nhau. Do đó, tùy thuộc vào điều kiện thực tế của nền
kinh tế để sử dụng nó một cách phù hợp, hiệu quả. Nhìn chung, các công cụ
này tác động đến hai đầu mối chủ yếu là ngân hàng trung gian và thị trường
mở.
1. Lãi suất
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, việc thay đổi của lãi suất sẽ
kéo theo sự biến đổi của chi phí tín dụng, từ đó tác động đến việc thu hẹp hay
mở rộng khối lượng tín dụng trong nền kinh tế. Do đó, lãi suất là một trong
những công cụ chủ yếu của CSTT. Thực tế cho thấy, tùy theo điều kiện thực
tế và trình độ phát triển của thị trường tài chính, NHTƯ có thể sử dụng công
cụ lãi suất để điều hành CSTT theo các chính sách:
- NHTƯ kiểm soát trực tiếp lãi suất thị trường bằng cách quy định các
loại lãi suất như: Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay theo từng kỳ hạn; hoặc
sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay để tạo nên khung lãi suất giới hạn;
hoặc công bố lãi suất cơ bản cộng với biên độ giao dịch…
- NHTƯ áp dụng chính sách tự do hóa để lãi suất tự hình thành theo cơ
chế thị trường, NHTƯ có thể gián tiếp can thiệp thông qua các chính sách:
công bố lãi suất cơ bản để hướng dẫn lãi suất thị trường; hoặc sử dụng công
cụ lãi suất tái cấp vốn và kết hợp với lãi suất thị trường mở để can thiệp và
điều chỉnh lãi suất thị trường.
Có thể nói, lãi suất vừa là đối tượng quản lý, vừa là một công cụ quan
trọng của CSTT. Lãi suất nếu được sử dụng đúng đắn và phù hợp với những
điều kiện, tình hình kinh tế trong từng thời kỳ nhất định, sẽ có tác dụng trực
tiếp đến kiểm soát lạm phát, kích thích tiết kiệm và đầu tư phát triển, cũng
như ảnh hưởng đến những thay đổi của tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với

cán cân thanh toán quốc tế. Ngược lại, nếu sử dụng nó cứng nhắc không phù
hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế, lãi suất trở thành vật cản kìm hãm,
trói buộc nền kinh tế.
2. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các NHTM phải đưa vào dự trữ
theo luật định. Mức DTBB cao hay thấp tùy thuộc vào tỷ lệ DTBB – do
NHTƯ quy định – cao hay thấp. Tỷ lệ DTBB là tỷ lệ phần trăm trên lượng

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
7
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
tiền gửi mà NHTM huy động được, phải để dưới dạng dự trữ. Như vậy, mỗi
ngân hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ phần dự trữ bắt
buộc. Qua đó, việc tăng hay giảm tỷ lệ DTBB, NHTƯ có thể hạn chế hoặc
bành trướng khối lượng tiền tệ mà hệ thống ngân hàng có khả năng cung ứng
cho nền kinh tế.
Khi tỷ lệ DTBB tăng hoặc giảm thì hệ số tạo tiền của hệ thống NHTM
giảm hoặc tăng dẫn đến khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế giảm hoặc
tăng. Đây là công cụ mang tính hành chính của NHTƯ. Ưu điểm của nó là có
thể tác động đến tất cả các NHTM như nhau và tác động một cách đầy quyền
lực. Bên cạnh đó việc thay đổi tỷ lệ DTBB sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu
doanh lợi của các NHTM.
3. Hạn mức tín dụng
Công cụ hạn mức tín dụng là một công cụ can thiệp trực tiếp mang tính
hành chính của NHTƯ. Bằng công cụ hạn mức tín dụng, NHTƯ quy định cho
các NHTM một hạn mức tăng tín dụng tối đa. Như vậy, biện pháp này cho
phép NHTƯ ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế
trong một thời gian nhất định. Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng
kể. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế nhất định như:
- Có thể làm tăng lãi suất, bởi vì cung hạn chế.

- Làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng.
- Gây ra tiêu cực trên thị trường vốn.
- Hạn mức tín dụng cũng gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ vì
các ngân hàng thường chọn doanh nghiệp lớn dể cho vay nhằm giảm chi phí
và bảo đảm an toàn trong giới hạn tín dụng được phép.
4. Tái cấp vốn
Tái cấp vốn là một phương pháp mà qua đó NHTƯ sẽ cung ứng tiền
cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các NHTM trên cơ sở nhận
tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá của các NHTM .
NHTƯ điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết
khấu phù hợp với mục tiêu thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó làm giảm hoặc
tăng lượng tiền trong lưu thông. Nếu chính sách của NHTƯ là muốn bành
trướng khối tiền tệ, NHTƯ khuyến khích các NHTM trong việc đi vay bằng

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
8
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
cách hạ thấp lãi suất tái chiết khấu và những điều kiện tái chiết khấu cũng dễ
dãi. Ngược lại, khi NHTƯ muốn giảm bớt cơ hội làm tăng khối tiền tệ, sẽ
thực hiện nâng lãi suất tái chiết khấu, thay đổi điều kiện tái chiết khấu theo
hướng khó khăn hơn.
NHTƯ cũng sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp về mặt
lượng đối với dự trữ của hệ thống NHTM.
5. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động giao dịch, mua bán các chứng
khoán của NHTƯ với các đối tác được lựa chọn trên thị trường tiền tệ, ảnh
hưởng đến khối lượng dự trữ của các NHTM, từ đó tác động trực tiếp đến khả
năng cung ứng tín dụng của các NHTM và gián tiếp đến lãi suất thị trường
nhằm điều tiết mức cung tiền thông qua những ảnh hưởng về mặt lượng và
giá.

Khi NHTƯ đem chứng khoán ra thị trường mở bán nó sẽ thu được tiền
mặt và séc về. Điều này có nghĩa là khối lượng tiền mặt cung ứng cho lưu
thông giảm, dự trữ của các NHTM giảm, làm giảm khả năng cung ứng tín
dụng của các NHTM và như thế, cung ứng tiền trong nền kinh tế bị thắt chặt
hơn. Bên cạnh đó, việc NHTƯ bán chứng khoán ra thị trường mở sẽ làm tăng
cung chứng khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng
khoán này sẽ hạ, và do vậy, lãi suất chứng khoán tăng lên. Lãi suất chứng
khoán tăng buộc các NHTM phải tăng lãi suất ngân hàng lên theo để tránh
trình trạng công chúng khỏi rút tiền ra khỏi ngân hàng đem đầu tư vào chứng
khoán, nghĩa là gián tiếp thắt chặt thêm khối tiền tệ.
Ngược lại khi NHTƯ đem tiền mặt hoặc séc mua chứng khoán trên thị
trường mở, thì lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên, đự trữ của các NHTM
tăng lên. Mặt khác, việc NHTƯ mua chứng khoán sẽ làm tăng cầu về chứng
khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng khoán sẽ tăng,
dẫn đến lãi suất chứng khoán giảm, và đến lượt lãi suất ngân hàng giảm, kích
thích doanh nghiệp đi vay, khối tiền tệ tăng lên.
Với cách vận hành như trên, thì nghiệp vụ thị trường mở có một số ưu
điểm hơn các công cụ khác trong CSTT là: NHTƯ có thể can thiệp chủ động
vào thị trường tiền tệ, từ đó tác động trực tiếp đến khả năng cung ứng tín dụng

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
9
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
của các NHTM. Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức
độ nào. Dễ dàng thay đổi tình thế khi có quyết định sai lầm trong việc sử dụng
công cụ này. Việc thực hiện có thể được tiến hành nhanh chóng ngay trong
phiên giao dịch.
Tuy nhiên, công cụ này còn có mặt hạn chế là tính tự nguyện tham gia
của các đối tác chưa cao.
6. Tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái là đại lượng biểu thị mối tương quan về mặt giá trị giữa
hai đồng tiền. Nói cách khác, tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ
nước này được biểu hiện bằng một số lượng đơn vị tiền tệ nước khác.
Sự biến động của tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt
động kinh tế, từ hoạt động xuất nhập khẩu đến sản xuất kinh doanh và tiêu
dùng trong nước qua biến đổi của giá cả hàng hóa. Do vậy, tỷ giá hối đoái là
một công cụ để NHTƯ thực thi CSTT của mình. Tuy nhiên, khi vận dụng
công cụ này, NHTƯ không đẩy tỷ giá lên cao hay kéo tỷ giá xuống thấp mà là
ổn định tỷ giá ở mức phù hợp với đặc điểm, điều kiện thực tế của quốc gia
trong từng giai đoạn.
Khi vận hành tỷ giá hối đoái, NHTƯ có thể ấn định tỷ giá cố định, hoặc
thả nổi tỷ giá theo quan hệ cung – cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Các
loại tỷ giá như: tỷ giá cố định, tỷ giá thả nổi hoàn toàn, tỷ giá thả nổi có sự
quản lý của Nhà nước.
Tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi hoàn toàn đều có những nhược điểm cơ
bản. Cụ thể, cung – cầu ngoại hối biến đổi không ngừng, do vậy, nếu NHTƯ
ấn định một mức tỷ giá cố định thì tác động đến quy luật cung – cầu trên thị
trường. Còn nếu thả nổi tỷ giá thì sự biến động của tỷ giá có ảnh hưởng lớn
đến nền kinh tế, có thể làm cho nền kinh tế phát triển nhưng cũng có thể đưa
nền kinh tế lâm vào trình trạng khoảng hoảng trầm trọng.
Tỷ giá thả nổi có quản lý là tỷ giá được hình thành trên cơ sở quan hệ
cung – cầu ngoại hối, nhưng khi cần thiết NHTƯ có thể can thiệp bằng những
biện pháp thích hợp, tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quan hệ
cung - cầu ngoại tệ từ đó ổn định được tỷ giá.

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
10
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
Biện pháp chủ yếu mà các NHTƯ thường dùng để can thiệp vào cung –
cầu ngoại tệ là sử dụng dự trữ ngoại hối và quỹ bình ổn hối đoái.

Cụ thể, khi tỷ giá hối đoái tăng cao, NHTƯ tung ngoại tệ ra bán, làm
cho cung ngoại tệ trên thị trường tăng lên, trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi, thì tỷ giá sẽ từ từ giảm xuống. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm,
NHTƯ hút ngoại tệ về bằng cách mua vào, trong khi các yếu tố khác vẫn
không đổi thì tỷ giá sẽ dần tăng lên. Để áp dụng biện pháp này hiệu quả, đòi
hỏi quốc gia phải có khối lượng dự trữ ngoại hối đủ lớn. Vì vậy, đối với
những nước đang phát triển, chẳng hạn như nước ta thì việc áp dụng công cụ
này có những hạn chế nhất định.

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
11
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CSTT
Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
I. Khái quát chung về quá trình thực hiện các công cụ của CSTT trong
những năm qua
Nhìn chung, năm 2007 thực thi CSTT của NHTƯ là cực kỳ khó khăn
bởi tác động bất lợi của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam quá lớn
trong năm, cùng với những diễn biến phức tạp của giá cả những mặt hàng chủ
yếu và những nhu cầu hội nhập của nền kinh tế. Mặc dù vậy, về cơ bản, điều
hành CSTT đã đạt được sự ổn định tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng
kinh tế, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho phát triển kinh tế, song năm 2008,
thực thi CSTT vẫn tiếp tục phải đối mặt với những thách thức do dòng vốn
đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục gia tăng và những biến động khó lường của thị
trường tài chính quốc tế, cùng với biến động của giá cả thế giới. Điều đó đòi
hỏi NHTƯ tiếp tục thực hiện CSTT chặt chẽ và cần có những giải pháp mang
tính dài hạn để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động bất lợi của những
thách thức phải đối mặt.
Năm 2008, Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn, thách thức

chưa từng có trong hơn 20 năm đổi mới. Một năm mà diễn biến kinh tế hàm
chứa cả hai thái cực nóng và lạnh, sự chuyển đổi giữa hai thái cực này cũng
diễn ra hết sức nhanh chóng.
Trước bối cảnh phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước trong 6
tháng đầu năm 2008, NHTƯ đã có những phản ứng kịp thời, sử dụng đồng bộ

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
12
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
và quyết liệt về điều hành CSTT thắt chặt nhằm kìm chế lạm phát có hiệu quả
và ổn định kinh tế vĩ mô. Các công cụ CSTT được điều hành linh hoạt để hút
tiền từ lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế, điều
hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu thị trường. NHTƯ đã tăng cường công tác
thanh tra, giám sát hoạt động của thị trường ngoại hối và của các tổ chức tín
dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng có thể gây mất an toàn hệ thống
của các tổ chức tín dụng. Đến cuối năm 2008, để chủ động ngăn chặn sự suy
giảm kinh tế, CSTT thắt chặt được chuyển dần sang nới lỏng một cách thận
trọng.
Trong năm, NHTƯ đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Cơ
chế điều hành tỷ giá ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử.
Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/- 0,75% lên +/- 3%; tỷ giá bình quân liên ngân
hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh vào tháng 6 và cuối tháng 12. Bên cạnh đó, đã
thực hiện tốt 8 nhóm giải pháp của Chính phủ về ưu tiên kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực thi các giải
pháp điều hành tiền tệ của NHTƯ có thời điểm còn thiếu đồng bộ; thị trường
tiền tệ, ngoại hối trong những tháng đầu năm còn có những biến động gây khó
khăn nhất định cho hoạt động của các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp; chất
lượng dịch vụ ngân hàng còn có những bất cập.

Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với
nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác
động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế.
Trước những tác động bất lợi như vậy, NHTƯ đã thực thi CSTT một
cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị
trường.
Từ đầu năm 2009, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư
trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần
của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các
NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHTƯ đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ
14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%.

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
13
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
II. Thực trạng sử dụng các công cụ của CSTT trong những năm qua
Mục tiêu năm 2007 là phấn đấu đạt tăng trưởng kinh tế cao ở mức
8,5%; triển khai điều hành tốt CSTT để đảm bảo ổn định tiền tệ, kiểm soát
lạm phát; vận hành các công cụ CSTT theo cơ chế thị trường; đồng thời, có
những cảnh báo sớm về diễn biến thị trường để tránh gây đột biến, dẫn tới đỗ
vỡ trên tổng thể. Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực
tăng giá VND gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Trong phạm vi khối lượng tiền cung ứng tăng được Chính phủ phê
duyệt năm 2007, NHTƯ đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết
có hiệu quả khối lượng tiền cung ứng này, nhằm đạt mục tiêu mua ngoại tệ
tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam, góp
phần bình ổn thị trường ngoại hối, nhưng đồng thời cũng hút mạnh lượng tiền
đã cung ứng ra cho mục đích mua ngoại tệ để giảm mức độ dư thừa vốn khả
dụng của các NHTM, hạn chế sự giá tăng của tổng phương tiện thanh toán
qua đó giảm áp lực lạm phát. Cụ thể:

- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTƯ đã hút được một lượng
tương đối lớn vốn khả dụng dư thừa của các TCTD, đồng thời vẫn điều tiết
kịp thời sự thiếu hụt vốn mang tính thời điểm của một số TCTD, đảm bảo duy
trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất thị trường.
- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của
năm 2006 để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó
hạn chế tăng trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép
tăng lạm phát trong những tháng cuối năm.
- Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHTƯ công bố, nhằm
phát tín hiệu ổn định lãi suất thị trường.
- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện
cho vay chiết khấu trong hạn mức phân bổ.
Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở
cửa thị trường tài chính.
- Ngay từ đầu năm 2007, NHTƯ bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ
giá từ 0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên
0,75%.

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
14
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
- NHTƯ đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục
tiêu thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà
nước tính theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào
thời điểm cuối năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007.
Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín
dụng, tăng tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.
Năm 2008, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Cụ thể:
- Trong 6 tháng đầu năm, áp lực lạm phát gia tăng mang tính toàn cầu,
trước tình hình đó, NHTƯ đã tăng tỷ lệ DTBB và mở rộng diện tiền gửi phải

DTBB ở tất cả các kỳ hạn; phát hành tín phiếu bắt buộc 20.300 tỷ đồng cho
các NHTM
- NHTƯ đã tăng tính thanh khoản cho thị trường bằng cách bơm mạnh
tiền qua nghiệp vụ thị trường mở, chuyển từ đấu thầu lãi suất sang đấu thầu
khối lượng, tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động tín dụng của các
NHTM.
- Tuy nhiên, các biện pháp chính sách trên chưa ngăn chặn được đà
tăng lãi suất huy động và mở rộng tín dụng của các NHTM, do vậy buộc
NHTƯ phải quy định trần lãi suất huy động tiền gửi của các NHTM không
được quá 12%.
- Một diễn biến bất lợi khác trên thị trường ngoại hối trong tháng
5/2008 là với mức thâm hụt thương mại lớn, lạm phát tăng cao.
Để bình ổn thị trường ngoại hối, NHTƯ đã thực hiện hàng loạt biện pháp, như
nới rộng biên độ tỷ giá từ ±1% lên mức ±2% tạo sự linh hoạt tỷ giá sát với
cung - cầu thị trường; thực hiện mở rộng đối tượng bán ngoại tệ cho các
NHTM, việc can thiệp dựa vào trạng thái ngoại tệ của các NHTM trong ngày,
thực hiện minh bạch các thông tin về dự trữ ngoại hối.
- Trong tình hình kinh tế thế giới như vậy, mặc dù những tháng cuối
năm 2008 mức độ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến
nền kinh tế Việt Nam, nhất là thị trường tài chính Việt Nam còn nhỏ, song để
ngăn chặn ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu và giảm áp lực lạm phát
vẫn diễn ra ở Việt Nam đến tận tháng 9, NHTƯ đã phải tiếp tục áp dụng một

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
15
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
số biện pháp hổ trợ thị trường như nâng cao lãi suất tín phiếu bắt buộc, trả lãi
cho tiền gửi DTBB bằng VND.
Để kích thích kinh tế chống lại nguy cơ giảm phát, bắt đầu từ tháng 10,
các loại lãi suất chỉ đạo đã liên tục được hạ xuống theo một lộ trình thích hợp.

Lãi suất cơ bản từ mức 14%/năm sau 4 lần hạ hiện xuống còn 8,5%, lãi suất
tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ tương ứng, biên độ dao động
tỷ giá được nâng lên.
- Các chỉ số thị trường tiền tệ (tốc độ tăng M2, tín dụng và lãi suất) và
các chỉ số kinh tế đạt được trong những tháng cuối năm cho thấy việc thực thi
CSTT của NHTƯ năm 2008, mặc dù có những bất cập nhất định, nhưng thực
sự đã có những tác động rất rõ nét đến việc ổn định thị trường tiền tệ, ngăn
chặn đà lạm phát đang gia tăng rất cao, tạo thế chủ động cho NHTƯ trong
thực thi CSTT, thiết lập được kỷ luật trên thị trường tiền tệ mà trước đây rất
lỏng lẻo, làm thay đổi thái độ và hành vi ứng xử của các thành viên thị trường
theo chiều hướng tích cực.
Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm
2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các
doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.
Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng
VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp
không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến
nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng
thẳng.
Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHTƯ đã triển khai
quyết liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán
USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá
bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu
ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt
hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hòa ngoại tệ trên
thị trường ngoại tệ trên ngân hàng

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
16

Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
Tuy nhiên, diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách
thức cho thực thi CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải
thiện mà vẫn tiếp tục gia tăng (theo số liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 113,6 tỷ USD, giảm 14,7% so với
cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu là 51,33 tỷ USD, giảm 11,5% và nhập
khẩu là 62,28 tỷ USD, giảm 17%).
Cán cân thương mại hàng hóa 11 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD bằng
21,3% xuất khẩu), nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn đầu
tư trực tiếp nước ngoài giảm sút mạnh so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước
ngoài không tăng mà còn giảm; nguồn kiều hối cũng giảm do khủng hoảng
kinh tế toàn cầu do vậy dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tình hình này
tiếp tục gây bất lợi cho việc ổn định tỷ giá.
Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt
ngân sách ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà
gây áp lực giảm giá VND.
Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập, mâu thuẫn
nhau: Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay
vốn của doanh nghiệp, VND vẫn khan hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất,
thanh khoản VND mỏng manh.
Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá.
Nhưng chính sách điều tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ,
trần lãi suất cho vay ) gây áp lực giảm giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu
sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền
đồng, gây áp lực cho NHTƯ phải cung ứng thêm tiền đồng. Điều này tiếp tục
gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh của giá vàng cũng
có những tác động bất lợi đến tỷ giá.
Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHTƯ đã thực hiện nâng các mức lãi
suất chỉ đạo lên thêm 1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình
hình thực tế, vừa có tác dụng tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng

thời chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt ổn định thị trường
ngoại hối.

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
17
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
III. Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của CSTT trong những
năm qua
1. Những thành tựu đạt được
Mặc dù trong giai đoạn vừa qua (2007 – 2009) nền kinh tế Việt Nam có
nhiều biến động thăng trầm, phải đối phó với lạm phát ở mức cao, phải chống
chọi lại cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu (năm 2008), sang năm 2009 nền
kinh tế lại có dấu hiệu giảm phát tuy nhiên với việc thực thi CSTT linh hoạt,
hiệu quả của NHTƯ đã từng bước đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và
dần dần đang trên đà hồi phục. Cụ thể:
Năm 2007, với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục
tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ
mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này
thể hiện ở những kết quả sau:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xảy ra những
cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị
trường tài chính quốc tế
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh nhưng
mặt bằng lãi suất trong năm ổn định.
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm, trong bối
cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND
và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái
danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm
soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.
Nhìn chung, việc điều hành chính sách tiền tệ trong hai năm 2008 -

2009 đã thực sự thành công. NHTƯ đã có những quyết định hết sức nhanh
nhạy, kịp thời trong điều hành lãi suất, tỷ giá, … và những liệu pháp đó đã
nhanh chóng có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Cụ thể:
- Về lãi suất
Sau hơn hai năm giữ ổn định ở mức 8,25%/năm, lãi suất cơ bản (LSCB)
đã được NHTƯ điều chỉnh tăng lên mức 8,75% từ 01/02/2008 và nhảy vọt lên
mức 12% từ 19/05/08. Chưa đầy 1 tháng sau đó, từ ngày 11/06/09, LSCB đã
được đẩy lên mức đỉnh – 14%. Cùng với LSCB, lãi suất tái chiết khấu, lãi

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
18
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
suất tái cấp vốn cũng liên tiếp được điều chỉnh tăng với đỉnh tương ứng là
13% và 15%. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD cũng được điều chỉnh
tăng trong khi lãi suất DTBB bị điều chỉnh giảm. NHTƯ còn phát hành trên
20.000 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các NHTM.
Hình 1: Diễn biến LSCB của Việt Nam thời gian qua
Nguồn: NHNN Việt Nam
Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã
tạo ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh
cấp tín dụng từ các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn
đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm). Tỷ lệ
lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%.
Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHTƯ đã
từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức
quan trọng. LSCB từ từ giảm xuống, cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV cũng
được điều chỉnh giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ
lệ dự trữ bắt buộc được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất
DTBB. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức
cung tiền cho nền kinh tế.

- Về tỷ giá
Diễn biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 đến nay là hết
sức phức tạp. Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng
xuống dưới 16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
19
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
ngân hàng. Nhưng chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã
lên tới 19.500.
NHTƯ đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày
26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt
các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông, công bố dự trữ ngoại hối
của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam), … Nhờ đó, tỷ giá đã dần
dịu lại và duy trì ở mức 16.500 cho đến hết quý 3/08.
Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến
nguồn cung ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý giữ ngoại tệ của dân cư
và các thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho
tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức 18.000. NHTƯ đã thêm hai lần
điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08 và +5% từ 23/03/09) và
triển khai một số công cụ can thiệp khác. Vì vậy, tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn
định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán những mặt hàng thiết yếu được đáp
ứng cơ bản đầy đủ.
- Hỗ trợ lãi suất
Đầu năm 2009, Chính Phủ đã đưa ra gói kích cầu bao gồm các nhóm
giải pháp cơ bản:
- Với doanh nghiệp: giảm, giãn thuế TNDN, hỗ trợ lãi suất ở mức 4%.
- Với dân cư: trợ cấp người nghèo, giãn/miễn thuế TNCN, giảm VAT,
đào tạo lao động.
- Về phía Chính Phủ: tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi tiêu công, đẩy

mạnh xúc tiến thương mại để tăng xuất khẩu.
Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách hỗ trợ lãi suất mà ở đó
vai trò của hệ thống ngân hàng và các công cụ chính sách tiền tệ một lần nữa
lại được phát huy mạnh mẽ.
Để đối phó với suy thoái, Chính Phủ của hầu hết các nước đều đưa ra
các gói hỗ trợ lên tới hàng ngàn tỷ USD với cách thức chủ yếu là hỗ trợ trực
tiếp: mua tài sản xấu, sở hữu vốn của các tập đoàn tài chính và tập đoàn công
nghiệp lớn; chi tiền cho người nộp thuế, người tiêu dùng; thưởng tiền cho
người hủy xe cũ, mua xe mới, … Gói hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam được
định lượng là 1 tỷ USD với cách làm rất sáng tạo, rất linh hoạt. Phần lớn tiền

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
20
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
hỗ trợ không được chi trực tiếp mà được hỗ trợ gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi
suất. Bằng cách này chúng ta đã kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng, giúp
các doanh nghiệp có được nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản
phẩm, duy trì ổn định sản xuất, kích thích được nhu cầu trong nước, …
2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân
2.1 Hạn chế
Có thể nói, điều hành CSTT năm 2007 về cơ bản, đạt được mục tiêu đặt
ra, tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, cùng với
việc Việt Nam gia nhập WTO nên việc điều hành CSTT đã phải đối mặt với
nhiều thách thức làm cho việc thực hiện mục tiêu ban đầu còn có hạn chế nhất
định.
Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là
dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều. (Theo số liệu thống kê đến tháng
10/2007, doanh số phát sinh tiền gửi bằng VND của người không cư trú tại
các NHTM thì có khoảng 13 tỷ USD của người không cư trú được chuyển
cho người cư trú cho mục đích đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào

bất động sản và chi tiêu các nhu cầu tiêu dùng khác trong nước). Tình hình
này đã có tác động làm tăng tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế
(tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép làm VND lên giá; dự trữ vượt
của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân tố thúc đẩy tín dụng tăng
nhanh; dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động thúc đẩy thị
trường chứng khoán phát triển mạnh hơn, và một lượng vốn nhất định của dân
cư cũng như từ hệ thống ngân hàng được đầu tư trên thị trường chứng khoán,
qua đó đã làm tăng dư nợ cho vay nền kinh tế.
Cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài là sự tăng giá
khó lường mang tính toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thô, giá
lương thực, bên cạnh đó là hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có
tác động mạnh đến mức mức giá tiêu dùng nói chung. Trong bối cảnh trên,
CSTT phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ tích cực cho tăng
trưởng kinh tế đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng là
cực kỳ khó khăn. Giải pháp ổn định lãi suất hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng
kinh tế và ổn định thị trường tiền tệ không để xảy ra sự dịch chuyển dòng

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
21
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
vốn, nhưng lại rất khó khăn để kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế và
kiềm chế lạm phát.
Năm 2007 dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào ào ạt, việc hạn chế dòng
vốn này vào Việt Nam là vấn đề không đơn giản khi Việt Nam đã gia nhập
WTO, thị trường tài chính từng bước tự do hóa. Vì vậy, việc hạn chế sự gia
tăng nguồn vốn nước ngoài nằm ngoài tầm kiểm soát của NHTƯ, mà đòi hỏi
phải có chính sách vĩ mô đồng bộ để đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn nước
ngoài có hiệu quả, giám sát chặt chẽ luồng vốn đầu tư gián tiếp, hạn chế tình
trạng đầu cơ trên thị trường chứng khoán,… nhằm hạn chế những tác động
bất lợi của dòng vốn này.

Năm 2008, NHTƯ đã thực hiện một loạt các biện pháp mạnh nhằm trị
bằng được “cơn ho” lạm phát. Việc thắt chặt tiền tệ với các biện pháp như
tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu… là phù
hợp với xu thế tự do hóa và thông lệ quốc tế, ở đó, NHTƯ cần thực thi chính
sách tiền tệ của mình thông qua các công cụ gián tiếp. Thế nhưng, các liệu
pháp trên vẫn chưa đủ liều và hình như chưa đủ răn đe.
Chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua việc phát hành tín phiếu trên thị
trường mở thì không có gì lạ, song điều mà nhiều người dễ nhận thấy là tần
suất thực hiện các liệu pháp tiền tệ là quá dày và mang tính mệnh lệnh hành
chính không phù hợp với xu thế thị trường.
2.2 Nguyên nhân
Một là, NHTƯ quá bị động và đôi khi còn chủ quan trong việc thực thi
chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát. Sự bị động này một phần là do
NHTƯ thiếu tính độc lập và tự chủ trong việc quyết định và thực thi các chỉ
tiêu tiền tệ. Cần tăng cường tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của NHTƯ
trong việc thực thi chính sách tiền tệ.Thường trước khi thông qua một số
Quyết định nào đó, NHTƯ phải xin phép hoặc hỏi ý kiến Chính phủ. Điều
này tất yếu dẫn đến sự chậm trễ trong việc triển khai chính sách tiền tệ, trong
khi đó, các chính sách tiền tệ luôn có độ trễ của nó trừ các chính sách hành
chính. Bên cạnh đó, do công tác dự báo yếu kém cộng với sự chậm trễ trong
việc công bố các chỉ tiêu kinh tế nên khi hiện tượng lạm phát có khuynh
hướng bùng phát nhanh thì NHTƯ không kịp trở tay.

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
22
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
Hai là, các công cụ chính sách tiền tệ được vận dụng không hợp lý nên
bản thân chúng tỏ ra không đủ lực để kiểm soát lạm phát hiệu quả. Chẳng hạn
đối với công cụ dự trù bắt buộc, NHTƯ đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp
đôi từ 5% lên 10% (tiền gửi dưới 12 tháng) bởi Quyết định số 1141 vào giữa

năm 2007, trong khi đó lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu thì sau hơn 2 năm
(từ tháng 12/2005 đến 1/2008) mới có điều chỉnh mới.
Việc chia các tỷ lệ dự trù bắt buộc theo các kỳ hạn tiền gửi cũng không
hợp lý, bởi theo nguyên tắc thì loại tiền gửi không kỳ hạn với đặc tính rủi ro
cao và khả năng tạo tiền lớn thì tỷ lệ dự trữ phải lớn hơn so với các kỳ hạn
khác, trong khi đó NHTƯ áp dụng chung một mức tỷ lệ cho loại tiền gửi dưới
12 tháng kể cả tiền gửi không kỳ hạn. Chính điều này nên NHTƯ cũng không
biết khả năng hệ thống ngân hàng có thể tạo thêm bao nhiêu tiền tín dụng trên
1 đồng tiền cơ sở tăng thêm. Hay nói các khác là số nhân tiền tệ đã bị bóp
méo.
Bên cạnh đó là nghiệp vụ thị trường mở với tư cách là một công cụ hiện
đại bởi tính thị trường của nó. Trong thực tế hoạt động, số thành viên tham
gia trên thị trường mở cũng hạn chế với khoảng 2 - 3 thành viên/ phiên trong
số hơn 40 ngân hàng cổ phần lẫn quốc doanh đang hoạt động hiện nay tại Việt
Nam (chưa kể các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh),
thậm chí có phiên giao dịch không có thành viên nào.
Ba là, tính bất lực của các công cụ chính sách tiền tệ hướng thị trường.
Thực tế, NHTƯ đã thay dần các công cụ chính sách tiền tệ mang tính hành
chính như hạn mức tín dụng, kiếm soát trực tiếp lãi suất Song khi hệ thống
thể chế hỗ trợ thị trường còn manh nha, yếu kém và thiếu đồng bộ thì việc
chuyển sang sử dụng các công cụ kiểm soát gián tiếp đã làm cho NHTƯ bị
“hụt tay”. Khi đó, NHTƯ chỉ có một con đường là lại tìm về các công cụ hành
chính. Quyết định 306 về việc buộc các NHTM phải mua tín phiếu và phân bổ
chỉ tiêu cho từng NHTM là minh chứng rõ nét nhất.
Bên cạnh đó, do thiếu năng lực và kinh nghiệm điều hành chính sách
trong bối cảnh mở cửa và hội nhập. Việc tiếp cận nền tài chính quốc tế và
dòng chảy tài chính bên ngoài đổ vào tăng cao đã làm cho đồng nội tệ có xu
hướng lên giá đe dọa sự thâm hụt nghiêm trọng của cán cân thương mại. Mặc

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O

23
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
dù tính chung thì cán cân thanh toán Việt Nam thặng dư do được bù đắp từ sự
dồi dào của cán cân vốn, song với chiến lược khuyến khích xuất khẩu thì việc
để cho tiền đồng bị lên giá là khó chấp nhận, đặc biệt với các doanh nghiệp
xuất khẩu.
Bốn là, sự thiếu nhất quán và tính hay dao động trong việc thực thi các
chính sách tiền tệ do thiếu tầm nhìn dài hạn. Việc NHTƯ ban hành Chỉ thị 03
nhằm kiểm soát an toàn trong hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán của hệ
thống ngân hàng thương mại là cần thiết, điều này mặc dù có tác động lớn đến
sự sụt giảm của thị trường chứng khoán, nhưng xét đến độ rủi ro của nó cũng
như cái giá phải trả khi rủi ro này thực sự xảy ra cho nền kinh tế, thì việc thắt
chặt là đúng.
Thực tế, không ít các ngân hàng đã tăng dư nợ tín dụng lên để đáp ứng
con số 3% của NHTƯ. Hơn nữa, việc tăng nhanh dư nợ tín dụng trong điều
kiện vốn tự có không tăng mấy thì sẽ dẫn đến vi phạm chỉ tiêu an toàn vốn tự
có 8% trên tổng tài sản có rủi ro đã điều chỉnh - một chỉ tiêu mà không mấy
ngân hàng Việt Nam đạt được.
Năm là, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý còn lỏng lẻo và thiếu cơ
chế hợp tác, đặc biệt là giữa NHTƯ và Bộ Tài chính.
Trong khi NHTƯ đang ra sức thắt chặt tiền tệ bằng các giải pháp có thể
thì Bộ Tài chính (cùng với Bộ Công thương) lại cùng thông quan quyết định
điều chỉnh giá xăng dầu. Việc điều chỉnh giá xăng dầu tiệm cận với giá thế
giới là phù hợp với xu thế, song lựa chọn thời điểm nào là quan trọng.

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
24
Đề án chuyên ngành GVHD: ThS. Phạm Thị Bích Duyên
CHƯƠNG III:
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC CÔNG

CỤ CỦA CSTT HIỆN NAY
I. Định hướng
Bước sang thế kỷ 21, đất nước chúng ta có những điều kiện thuận lợi để
phát triển, đó là: sự ổn định về chính trị - xã hội, sự phát huy các lợi thế so
sánh của đất nước phục vụ cho sự phát triển. Tuy vậy, nền kinh tế của chúng
ta từ khi đổi mới đến nay sau những năm phát triển liên tục cao thì lại đang có
xu hướng chững lại tình hình giảm phát đã thể hiện rõ điều này. Trong xu
hướng tiếp tục hoàn thiện CSTT thì việc nâng cao hiệu quả các công cụ của
CSTT cho phù hợp điều kiện thực tiễn Việt Nam là vấn đề cần phải quan tâm.
Một là, việc vận hành các công cụ của CSTT một mặt từng bước hòa
nhập với thông lệ quốc tế, mặt khác cần đảm bảo tính độc lập tự chủ theo
đúng định của Đảng và Nhà nước.
Hai là, nhất quán quan điểm cơ bản: từng bước một chuyển đổi từ việc
sử dụng các công cụ trực tiếp sang gián tiếp để quản lý mức cung tiền có hiệu
quả hơn.
Ba là, việc áp dụng điều chỉnh các công cụ của CSTT phải chú ý đến
tính thực tiễn, đó là thực trạng của nền kinh tế Việt Nam và đặt trong mối
quan hệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác để đảm bảo sự phát triển ổn
định của nền kinh tế.
II. Các giải pháp hoàn thiện
1. Giải pháp về việc tạo môi trường, điều kiện thuận lợi
Việc hoạch định CSTT cũng như các công cụ của CSTT cần đặt nó
trong một chỉnh thể thống nhất có tính đến sự linh hoạt của thị trường. CSTT
cần được độc lập với CSTC và đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống các
chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.

 SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Liên - - Lớp NHA-K3O
25

×