Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Đề bài " Tìm hiểu cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thời kì 2000 – 2006 " pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.51 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VẬN TẢI BIỂN
Bộ môn Kinh Tế
********o0o********
BÀI TẬP LỚN
Môn kinh tế vĩ mô 1
Đề bài: Tìm hiểu cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thời kì 2000 –
2006
Ngày giao đề: 09/11/2009
Ngày hoàn thành: 23/11/2009
Sinh viên: Phùng Công Hưng
Lớp : KTB49-ĐH2
Trưởng bộ môn Giáo viên hướng dẫn
Nguyễn Lan Hương Nguyễn Kim Loan

Hải Phòng 2009


1.Lời mở đầu
Các vấn đề kinh tế xuất hiện do chúng ta mong muốn nhiều hơn so với
cái mà chúng ta có thể nhận được. Chúng ta muốn một thế giới an toàn và hòa
bình. Chúng ta muốn có không khí trong lành và nguồn nước sạch. Chúng ta
muốn sống lâu và khỏe. Chúng ta muốn có các trường đại học, cao đẳng và phổ
thông chất lượng cao. Chúng ta muốn sống trong các căn hộ rộng rãi và đầy đủ
tiện nghi. Chúng ta muốn có thời gian để thưởng thức âm nhạc, điện ảnh, chơi
thể thao, đọc truyện, đi du lịch, giao lưu với bạn bè, …
Việc quản lí nguồn lực của xã hội có ý nghĩa quan trọng vì nguồn lực có
tính khan hiếm. Kinh tế học là môn học nghiên cứu cách thức sử dụng các
nguồn lực khan hiếm nhằm thỏa mãn các nhu cầu không có giới hạn của chúng
ta một cách tốt nhất có thể.
Kinh tế học vĩ mô là một phân ngành của kinh tế học, nghiên cứu về


cách ứng xử nói chung của mọi thành phần kinh tế, cùng với kết quả cộng
hưởng của các quyết định cá nhân trong nền kinh tế đó. Những vấn đề then chốt
được kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên cứu bao gồm mức sản xuất, lạm phát,
thất nghiệp, mức giá chung và cán cân thương mại của một nền kinh tế…
Việt Nam tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa từ một đất nước nghèo vừa
thoát khỏi chiến tranh, nền kinh tế lạc hậu, cơ sở vật chất thiếu thốn. Đã có giai
đoạn vấp phải những sai lầm do chủ quan nóng vội đưa kinh tế đất nước xuống
mức suy yếu và trì trệ nghiêm trọng. Đảng và Nhà nước đã kịp thời nhận ra
những khuyết điểm sai lầm, tìm con đường đổi mới để khôi phục kinh tế. Thực
tế đã khẳng định Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành quả do đổi mới mang lại
thể hiện ở tốc độ tăng trưởng kinh tế và quan trọng hơn sự phát triển đó là vì
mục tiêu con người. Tuy nhiên làm thế nào để giữ cho sự phát triển đó được
nhanh, bền vững, ổn định? Đó là câu hỏi được đặt ra không phải chỉ đối với các
nhà hoạch định kinh tế mà đó là trách nhiệm của mỗi công dân, đặc biệt hơn là
với sinh viên - thế hệ trẻ và là tương lai của đất nước.
Việc học tập nghiên cứu kinh tế học là việc cần thiết quan trọng trang bị
cho sinh viên những lý thuyết cơ bản về tình hình kinh tế của đất nước nói riêng
và thế giới nói chung. Kinh tế học vĩ mô là bộ phận quan trọng trong phân
ngành kinh tế học với những lý thuyết về các chính sách thu nhập, chính sách
tài khoá, chính sách tiền tệ… mà đất nước đã học tập và áp dụng trong thời kỳ
xây dựng kinh tế những năm qua. Thế hệ trẻ, đặc biệt là một sinh viên khoa
kinh tế cần nhận thức rõ được tình hình kinh tế của đất nước, học tập và nắm
vững những kiến thức cơ bản để tương lai trở thành một nhà hoạch định kinh tế
có tầm nhìn và kiến thức sâu rộng để góp phần xây dựng đất nước
2. Nội dung chính
Chương 1: Cán cân thanh toán quốc tế
và các nhân tố ảnh hưởng
A. Giới thiệu môn học, vị trí môn học trong chương trình học
đại học.
A1. Giới thiệu môn học

• Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô
- Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào
nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất hàng hoá và dịch vụ thoả mãn nhu
cầu của cá nhân và toàn xã hội
- Kinh tế học vã mô - một phân ngành của kinh tế học – nghiên cứu sự vận
động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Phương pháp nghiên cứu kinh tế học vĩ mô gồm:
+ Phương pháp phân tích cân bằng tổng hợp
+ Tư duy trừu tượng
+ Phân tích thống kê số lớn
+ Mô hình hoá kinh tế
•Hệ thống kinh tế vĩ mô
Có nhiều cách mô tả hoạt động của nền kinh tế. Theo cách tiếp cận hệ thống
- gọi là hệ thống kinh tế vĩ mô hệ thống này được đặc trưng bởi ba yếu tố:
Đầu vào, đầu ra và hộp đen kinh tế vĩ mô
Các yếu tố đầu vào bao gồm:
- Những tác động từ bên ngoài bao gồm chủ yếu các biến tố phi kinh tế: thời
tiết, dân số, chiến tranh…
- Những tác động chính sách bao gồm các công cụ của Nhà nước nhằm điều
chỉnh hộp đen kinh tế vĩ mô, hướng tới cscs mục tiêu đã định trước.
Các yếu tố đầu ra bao gồm: sản lượng, việc làm, giá cả, xuất-nhập khẩu. Đó
là các biến do hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô tạo ra.
Yếu tố trung tâm của hệ thống là hộp đen kinh tế vĩ mô, còn gọi là nền kinh
tế vĩ mô. Hoạt động của hộp đen như thế nào sẽ quyết định chất lượng của
các biến đầu ra. Hai lực lượng quyết định sự hoạt động của hộp đen kinh tế
vĩ mô là tổng cung và tổng cầu
+ Tổng cung bao gồm tổng khối lượng sản phẩm quốc dân mà các doanh
nghiệp sẽ sản xuất và bán ra trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, khả
năng sản xuất và chi phí sản xuất đã cho. Tổng cung liên quan đến khái niệm

sản lượng tiềm năng. Đó là sản lượng tối đa mà nền kinh tế có thể sản xuất
ra trong điều kiện toàn dụng nhân công, mà không gây nên lạm phát. Sản
lượng tiềm năng phụ thuộc vào việc sử dụng các yếu tố của sản xuất, đặc
biệt là lao động.
+ Tổng cầu là tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ ( tổng sản phẩm quốc
dân ) mà các tác nhân trong nền kinh tế sẽ sử dụng tương ứng với mức giá
cả, thu nhập và các biến số kinh tế khác đã cho
• Mục tiêu và công cụ trong kinh tế vĩ mô:
+ Mục tiêu
- Mục tiêu sản lượng:
Đạt đựoc sản lượng thực tế cao, tương ứng với mức sản lượng tiềm năng
Tốc độ tăng trưởng cao và bền vững
- Mục tiêu việc làm
Tạo đựoc nhiều việc làm tốt
Hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp
- Mục tiêu ổn định giá cả
Hạ thấp và kiểm soát được lạm phát trong điều kiện thị trường tự
do.
- Mục tiêu kinh tế đối ngoại:
Ổn định tỷ giá hối đoái
Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế
- Phân phối công bằng: Dây là một trong những mục tiêu quan trọng
Lưu ý:
- Những mục tiêu trên thể hiện trạng thái lý tưởng và các chính
sách kinh tế vĩ mô chỉ có thể tối thiểu hoá các sai lệch thực tế so với các
trạng thái lý tưởng
- Các mục tiêu trên thường bổ sung cho nhau, trong chừng mực
chúng hướng vào đảm bảo tăng trưởng sản lượng của nền kinh tế. Song
trong từng trường hợp có thể xuất hiện những xung đột, mâu thuẫn cục bộ
- Về mặt dài hạn thứ tự ưu tiên giải quyết các mục tiêu trên cũng

khác nhau giữa các nước. Ở các nước đang phát triển, tăng trưởng thường có
vị trí ưu tiên số 1.
+ Công cụ
Để đạt được những mục tiêu trên kinh tế vĩ mô trên, Nhà nước có thể sử
dụng nhiều công cụ chính sách khác nhau. Mỗi chính sách lại có công cụ
riêng biệt. Dưới đây là một số chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu mà chính
phủ ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thường sử dụng trong
lịch sử lâu dài và đa dạng của họ.
* Chính sách tài khoá: Là việc chính phủ sử dụng thuế khoá và chi tiêu công
cộng để tác động đến nền kinh tế hướng nền kinh tế tới mức sản lượng và
việc làm mong muốn
Công cụ: chi tiêu của chính phủ (G)
thuế (T)
Đối tượng: Quy mô của chi tiêu công cộng
Chi tiêu của khu vực tư nhân
Sản lượng
Mục tiêu: Ngắn hạn: ổn định nền kinh tế
Dài hạn : hướng nền kinh tế đến sự phát triển lâu dài
* Chính sách tiền tệ: tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế tới mức
sản lượng và việc làm mong muốn
Công cụ: Mức cung tiền (MS)
Lãi suất (i)
Đối tượng: Tác động đến đầu tư (I)
Chi tiêu của hộ gia đình (C)
Tiết kiệm (S)
Tỷ giá hối đoái (e)
Mục tiêu (giống chính sách tài khoá)
* Chính sách thu nhập: bao gồm các biện pháp mà chính phủ sử dụng nhằm
tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả và để kiềm chế lạm phát
Công cụ: Tiền lương danh nghĩa (Wn)

Đối tượng: Chi tiêu của các hộ gia đình (C)
Tổng cung ngắn hạn
Mục tiêu: Kiềm chế lạm phát
* Chính sách kinh tế đối ngoại: Nhằm ổn định tỷ giá hối đoái, giữ cho thâm
hụt cán cân thanh toán quốc tế ở mức có thể chấp nhận được
Công cụ: Thuế quan
Hạn ngạch
Tỷ giá hối đoái
Đối tượng Hoạt động xuất-nhập khẩu và đầu tư nước ngoài
Mục tiêu: Chống suy thoái, lạm phát
Ổn định tỷ giá và cán cân thanh toán quốc tế
• Một số khái niệm và mối quan hệ giữa các biến số kinh té vĩ mô cơ bản
- Tổng sản phẩm quốc dân và sự tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm quuốc dân (GNP) là giá trị của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ
mà một quốc gia sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định
Tổng sản phẩm quốc dân là thước đo cơ bản hoạt động của nền kinh tế
Tổng sản phẩm tính theo giá hiện hành gọi là tổng sản phẩm danh nghĩa
Tổng sản phẩm tính theo giá cố định gọi là tổng sản phẩm thực tế
- Chu kỳ kinh doanh và sự thiếu hụt sản lượng
Nền kinh tế thị trường của các nước công nghiệp phát triển tiêu biểu thường
phải chống đối với vấn đề chu kỳ kinh tế. Liên quan đến chu kỳ kinh tế là sự
đình trệ sản xuất, thất nghiệp và lạm phát.
Chu kỳ kinh tế là sự giao động của GNP thực tế xung quanh xu hướng tăng
lên của sản lượng tiềm năng
Độ lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế gọi là sự thiếu hụt
sản lượng
Thiếu hụt sản lượng = Sản lượng tiềm năng - Sản lượng thực tế
-Tăng trưởng và thất nghiệp
Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên
nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Như vậy tăng

trưởng nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm đi
- Tăng trưởng và lạm phát
Sự kiện lịch sử của nhiều nước cho thấy những thời kỳ kinh tế phát đạt, tăng
trưởng cao thì lạm phát có xu hướng tăng lên và ngược lại. Song mối quan
hệ giữa tăng trưởng và lạm phát như thế nào, đâu là nguyên nhân, đâu là kết
quả? Vấn đề này kinh tế vĩ mô chưa có câu trả lời rõ ràng.
- Lạm phát và thất nghiệp
Các nhà kinh tế cho rằng, trong thời kỳ ngắn thì lạm phát càng cao, thất
nghiệp càng giảm. Trong thời kỳ dài chưa có cơ sở nói rằng lạm phát và thất
nghiệp có mối quan hệ “ trao đổi”. Trong thời kỳ dài tỷ lệ thất nghiệp phụ
thuộc một cách cơ bản vào tỷ lẹ lạm phát trong suốt thời gian đó
Trong điều kiện nước ta, quá trình chuyển đổi kinh tế chưa hoàn tất, các yếu
tố thị trường còn non yếu và chưa phát triển đồng bộ, Nhà nước đóng vai trò
quan trọng trong việc quản lý và điều tiết nền kinh tế. Vì vậy khi nghiên cứu
những mối quan hệ này trong điều kiện nước ta cần chú ý những đặc điểm
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, tránh rập khuôn máy móc.
A2. Vị trí của môn học trong chương trình học đại học
Kinh tế học vĩ mô là một trong hai bộ phạn hợp thành kinh tế học
Trong chương trình học đại học kinh tế học vĩ mô có vai trò quan trọng
trong việc tiếp tục bổ sung cho kinh tế học vi mô, đồng thời trang bị cho
sinh viên tầm nhìn kinh tế sâu rộng hơn trên phạm vi kinh tế quốc gia với
vai trò của một nhà hoạch định kinh tế cho đất nước. Vì vậy, việc học tập và
nghiên cứu kinh tế vĩ mô là cần thiết với tất cả sinh viên nói chung, đặc biệt
hơn là với sinh viên học kinh tế, để có một kiến thức và tầm nhin tổng quát
về kinh tế trong điều kiện kinh tế hội nhập hiện nay.
Kinh tế học vĩ mô là một trong những chủ đề quan trọng nhất đối với
sinh viên vì tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống của sinh
viên. Mức việc làm và mức thất nghiệp chung sẽ quyết định khả năng tìm
kiếm việc làm sau của chúng ta sau khi tốt nghiệp, khả năng thay đổi công
việc và khả năng thăng tiến trong tương lai. Mức lạm phát sẽ ảnh hưởng đến

lãi suất mà chúng ta có thể nhận được từ khoản tiết kiệm của chúng ta trong
tương lai.
Kinh tế vĩ mô sẽ giúp cung cấp cho chúng ta những nguyên lý cần thiết
để hiểu rõ tình hình kinh tế của đất nước, đánh giá các chính sách kinh tế mà
Chính phủ đang thực hiện và dự đoán các tác động của những chính sách đó
tới đời sống của chúng ta như thế nào?
Trong bối cảnh nền kinh tế Viêt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế
thế giới, đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO,
trong đó tất cả hàng hóa và dịch vụ được lưu chuyển qua biên giới các quốc
gia.Lần đàu tiên mọi người đều chơi theo một luật chơi chung “ Luật chơi của
kinh tế thị trường toàn cầu “ Đây là một thách thức rất lớn. Người thắng sẽ có
lợi nhuận ,thu nhập cao, thành đạt trong cuộc sống và kẻ thua cuộc sẽ tụt lại
đằng sau nhiều khi còn dẫn đến phá sản. Vì vậy , vị trí bộ môn kinh tế trong các
trường đại học có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó trang bị cho sinh viên
những kiến thức cơ bản về kinh tế học. về kinh tế vi mô hay kinh tế vĩ mô. Nó
giúp cho sinh viên làm quen với các khái niệm kinh tế .
B. Kết cấu của cán cân thanh toán quốc tế và các nhân tố ảnh
hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán, hay cán cân thanh toán quốc tế, ghi chép những
giao dịch kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới trong một
thời kỳ nhất định. Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các cá
nhân, các doanh nghiệp cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó.
Đối tượng giao dịch bao gồm các loại hàng hóa, dịch vụ, tài sản thực, tài sản
tài chính, và một số chuyển khoản. Thời kỳ xem xét có thể là một tháng, một
quý, song thường là một năm. Những giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía
người cư trú trong nước tới người cư trú ngoài nước được ghi vào bên tài sản
nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú ở ngoài nước
cho người cư trú ở trong nước được ghi vào bên tài sản có.
Các yếu tố ảnh hưởng đến CCTTQT đó là: cán cân thương mại, lạm
phát, thu nhập quốc dân, tỷ giá hối đoái, sự ổn định chính trị của đất nước,

khả năng trình độ quản lý kinh tế của chính phủ.
Theo quy tắc mới về biên soạn biểu cán cân thanh toán do IMF đề ra
năm 1993, cán cân thanh toán của một quốc gia bao gồm bốn thành phần
sau.
* Tài khoản vãng lai:
Tài khoản vãng lai ghi lại các giao dịch về hàng hóa, dịch vụ và một số
chuyển khoản.
Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh
toán của một quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa
người cư trú trong nước với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn
tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước
được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ được ghi bằng mực đỏ).
Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài nước cho
người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng
dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ.
Theo quy tắc mới về biên soạn báo cáo cán cân thanh toán quốc gia
do IMF soạn năm 1993, tài khoản vãng lai bao gồm:
1. Cán cân thương mại hàng hóa
1. Xuất khẩu
2. Nhập khẩu
2. Cán cân thương mại phi hàng hóa
1. Cán cân dịch vụ
1. Vận tải
2. Du lịch
3. Các dịch vụ khác
2. Cán cân thu nhập
1. Kiều hối
2. Thu nhập từ đầu tư
3. Các chuyển khoản
Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được

gộp chung vào trong tính toán này.
Đối với phần lớn các quốc gia thì cán cân thương mại là thành phần quan
trọng nhất trong tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia có
phần tài sản hay tiêu sản ở nước ngoài lớn thì thu nhập ròng từ các khoản
cho vay hay đầu tư có thể chiếm tỷ lệ lớn.
Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và xuất
khẩu ròng thì bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong
nước, nên tài khoản vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này.
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân
thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất
khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định
(quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa
chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng
dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có
thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái
cân bằng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại
-Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng
nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng
nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn
chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPZ bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm
thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập
khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng
hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá
thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa
đạp sản xuất tại Việt Nam tăng tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì
người dân có xu hướng tiêu thụ nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn đến nhập
khẩu mặt hàng này cũng tăng.
-Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc
gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do

vậy nó chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn
hàng. Chính vì thế trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu
là yếu tố tự định.
-Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó
ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng
hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng
lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng
xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá
đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu
dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ
giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất
khẩu ròng tăng lên. Ví dụ, một bộ ấm chén sứ Hải Dương có giá 70.000
VND và một bộ ấm chén tương đương của Trung Quốc có giá 33 CNY
(Nhân dân tệ). Với tỷ giá hối đoái 2.000 VND = 1 CNY thì bộ ấm chén
Trung Quốc sẽ được bán ở mức giá 66.000 VND trong khi bộ ấm chén
tương đương của Việt Nam là 70.000 VND. Trong trường hợp này ấm chén
nhập khẩu từ Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh hơn. Nếu VND mất già và tỷ
giá hối đoái thay đổi thành 2.300 VND = 1 CNY thì lúc này bộ ấm chén
Trung Quốc sẽ được bán với giá 75.900 VND và kém lợi thế cạnh tranh hơn
so với ấm chén sản xuất tại Việt Nam
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư
thương mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư
thương mại mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất
khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là
thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập
khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương
mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán
quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ.
Cùng với tài khoản vốn, và thay đổi trong dự trữ ngoại hối, nó hợp
thành cán cân thanh toán.

Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu,
hay khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư. Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt
khi quốc gia nhập nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài khoản
vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp hạn chế trong tìm nguồn tài chính để thực
hiện nhập khẩu và đầu tư một cách bền vững. Theo cách đánh giá của IMF,
nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai tính bằng phần trăm của GDP lớn hơn
5, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành mạnh
*Tài khoản vốn:
Tài khoản vốn ghi lại các giao dịch về tài sản thực và tài sản tài chính.
Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ phận của cán cân thanh
toán của một quốc gia. Nó ghi lại tất cả những giao dịch về tài sản (gồm tài
sản thực như bất động sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền
tệ) giữa người cư trú trong nước với người cư trú ở quốc gia khác. Khi
những tuyên bố về tài sản nước ngoài của người sống trong nước lớn hơn
tuyên bố về tài sản trong nước của người sống ở nước ngoài, thì quốc gia có
thặng dư tài khoản vốn (hay dòng vốn vào ròng). Theo quy ước, dòng vốn
vào ròng phải bằng thâm hụt tài khoản vãng lai.
Tài khoản tài chính (hay tài khoản đầu tư) là một bộ phận của tài khoản vốn
ghi lại những giao dịch về tài sản tài chính.
-Tài khoản vốn và lãi suất
Giả sử ban đầu tài khoản vốn cân bằng tương ứng với mức lãi suất trong nước r.
Khi lãi suất tăng lên mức r', tài khoản vốn trở nên thặng dư. Nếu lãi suất hạ
xuống mức r, tài khoản vốn trở nên thâm hụt.
Vì vốn có quan hệ mật thiết với lãi suất. Vì thế, cân đối tài khoản vốn cũng có
quan hệ mật thiết với lãi suất.
Khi lãi suất trong nước tăng lên, đầu tư vào trở nên hấp dẫn hơn, vì thế dòng
vốn vào sẽ gia tăng, trong khi đó dòng vốn ra giảm bớt. Cán cân tài khoản vốn,
nhờ đó, được cải thiện. Ngược lại, nếu lãi suất trong nước hạ xuống, cán cân
vốn sẽ bị xấu đi.
Khi lãi suất ở nước ngoài tăng lên, cán cân tài khoản vốn sẽ bị xấu đi. Và, khi

lãi suất ở nước ngoài hạ xuống, cán cân vốn sẽ được cải thiện.
-Tài khoản vốn và tỷ giá hối đoái
Khi đồng tiền trong nước lên giá so với ngoại tệ, cũng có nghĩa là tỷ giá hối
đoái danh nghĩa giảm, dòng vốn vào sẽ giảm đi, trong khi dòng vốn ra tăng lên.
Hậu quả là, tài khoản vốn xấu đi. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước mất giá
(tỷ giá tăng), tài khoản vốn sẽ được cải thiện
Thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước
Dự trữ ngoại hối nhà nước, thường gọi tắt là dự trữ ngoại hối hoặc dự trữ ngoại
tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan hữu trách tiền tệ
của một quốc gia hay lãnh thổ nắm giữ. Đây là một loại tài sản của Nhà nước
được cất giữ dưới dạng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh như: Dollar Mỹ,
Euro, Yên Nhật, v.v ) nhằm mục đích thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ giá trị
đồng tiền quốc gia.
Mức tăng hay giảm trong dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương. Do tổng
của tài khoản vãng lai và tài khoản vốn bằng 0 và do mục sai số nhỏ, nên gần
như tăng giảm cán cân thanh toán là do tăng giảm dự trữ ngoại hối tạo nên.
Dự trữ ngoại hối nhà nước
Dự trữ ngoại hối nhà nước, thường gọi tắt là dự trữ ngoại hối hoặc dự trữ ngoại
tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan hữu trách tiền tệ
của một quốc gia hay lãnh thổ nắm giữ. Đây là một loại tài sản của Nhà nước
được cất giữ dưới dạng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh như: Dollar Mỹ,
Euro, Yên Nhật, v.v ) nhằm mục đích thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ giá trị
đồng tiền quốc gia.
-Hình thức dự trữ
Ngoại hối có thể được dự trữ dưới hình thức:
• Tiền mặt
• Số dư của tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài
• Hối phiếu, trái phiếu hoặc các giấy tờ ghi nợ khác của chính phủ nước
ngoài, ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
• Vàng

• Các loại ngoại hối khác
-Tiêu chí đánh giá quy mô dự trữ
Có ba tiêu chí chính:
-Tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối và giá trị một tuần nhập khẩu trong năm tiếp theo
Nói cách khác, quy mô dự trữ ngoại hối được tính bằng số tuần nhập khẩu. Tiêu
chí này cho thấy mức độ hỗ trợ thanh toán quốc tế của dự trữ ngoại hối. Theo
đánh giá của IMF, dự trữ ngoại hối có quy mô tương đương 12 đến 14 tuần
nhập khẩu thì quốc gia sẽ được coi là đủ dự trữ ngoại hối.
Tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối và nợ ngắn hạn nước ngoài
Tiêu chí này cho thấy khả năng đối phó của quốc gia khi có hiện tượng tấn công
ngoại tệ hoặc rút tiền ra nước ngoài.
Tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối và mức cung tiền rộng
Tiêu chí này cho thấy khả năng can thiệp tỷ giá hối đoái của ngân hàng trung
ương. Tỷ lệ từ 10% đến 20% được coi là đủ dự trữ ngoại hối.
*Mục sai số
Do khó có thể ghi chép đầy đủ toàn bộ các giao dịch trong thực tế, nên giữa
phần ghi chép được và thực tế có thể có những khoảng cách. Khoảng cách này
được ghi trong cán cân thanh toán như là mục sai số.
**Các nước thường sử dụng các biện pháp sau đây để cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế khi bi thâm hụt:
Vay nợ nước ngoài: Đây là biện pháp truyền thống và phổ biến. Biện pháp
này thông qua các nghiệp vụ qua lại với các ngân hàng đại lý ở nước ngoài
để vay ngoại tệ cần thiết nhằm bổ sung thêm lượng ngoại hối cung cấp cho
thị trường. Ngày nay việc vay nợ không còn giới hạn bởi quan hệ giữa ngân
hàng nước này với nước kia, mà nó đã được mở rộng ra nhiều ngân hàng
khác, đặc biệt là với các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế trên cơ sở các
hiệp định đã được ký giữa các bên.
Thu hút tư bản ngắn hạn từ nước ngoài: Ngân hàng Trung ương của các
nước thường áp dụng những chính sách tiền tệ, tín dụng cần thiết thích
hợp để thu hút được nhiều tư bản ngắn hạn từ các thị trường nước ngoài

di chuyển đến nước mình, làm tăng thêm phần thu nhập ngoại tệ của cán
cân thanh toán, thu hẹp khoản cách về sự thiếu hụt giữa thu và chi trong
cán cân thanh toán đó. Trong số những chính sách tiền tệ tín dụng được sử
dụng để thu hút tư bản vào, thì chính sách chiết khấu được sử dụng phổ
biến hơn.
Để thu hút được một lượng tư bản từ thị trường nước ngoài vào nước mình
thì Ngân hàng Trung ương sẽ nâng lãi suất chiết khấu, dẫn đến lãi suất tín
dụng trên thị trường tăng lên làm kích thích tư bản nước ngoài dịch
chuyển vào.
Thế nhưng biện pháp này chỉ góp phần tạo ra sự cân bằng cho cán cân
thanh toán trong trường hợp bội chi không lớn lắm và cũng chỉ giải quyết
nhu cầu tạm thời.
Cần lưu ý rằng, biện pháp nâng lãi suất chiết khấu chỉ có hiệu quả khi tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia đó tương đối ổn định, tức là ít
rủi ro trong đầu tư tín dụng.
Phá giá tiền tệ: Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay, một số
nước tư bản đã sử dụng chính sách phá giá tiền tệ như là một công cụ hữu
hiệu, góp phần cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và bình ổn tổng giá hối
đoái.
Phá giá tiền tệ là sự công bố của Nhà nước về sự giảm giá đồng tiền của
nước mình so với vàng hay so với một hoặc nhiều đồng tiền nước khác. Phá
giá tiền tệ để tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu từ
đó cải thiện điều kiện cán cân thanh toán.
Nhưng chúng ta cũng cần nhận thấy rằng, phá giá tiền tệ chỉ là một trong
những yếu tố có tính chất tiền đề cho việc đẩy mạnh xuất khẩu mà thôi.
Còn kết quả hoạt động xuất khẩu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như
năng lực sản xuất, khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Như vậy, có nhiều biện pháp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, song
việc lựa chọn phương pháp nào thì phải xuất phát từ kết quả phận tích
những nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng thiếu hụt của cán cân, phải

xem xét tình hình cụ thể, toàn diện của quốc gia đó cũng như tình hình
quốc tế có liên quan để lựa chọn và sử dụng biện pháp thích hợp và hữu
hiệu
Chương 2: Đánh giá cán cân thanh toán quốc tế của Việt
Nam thời kì 2000-2006
A.Nhận xét chung tình hình kinh tế Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đã có những bước
phát triển vượt bậc,nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều mặt yếu kém, đã trải
qua hầu hết các loại lạm phát như lạm phát phi mã trong thời kỳ 1986-1988
với tỷ lệ lạm phát trung bình năm đạt 463,9%/năm; lạm phát cao trong thời
kỳ 1989 - 1992, với tỷ lệ lạm phát bình quân năm tương ứng là 46,7%/năm;
lạm phát thấp trong thời kỳ 1996 - 1999 và 2001 - 2003 với tỷ lệ lạm phát
tương ứng là 4,4%/năm và 4,3%/năm; thậm chí là giảm phát trong năm 2000
(-0,6%).
Năm 2000 là năm đầu tiên Hiệp định Thương mại Song phương
Việt- Mỹ vừa mới được ký kết (tháng 7/2000), cho nên được hy vọng là sẽ
tạo ra “cú hích” đẩy nền kinh tế nước ta phát triển vượt bậc nhờ hai nguồn
động lực. Đó trước hết là xuất khẩu sẽ tăng đột biến nhờ thị trường nhập
khẩu có thể ví như “chiếc thùng không đáy” so với năng lực xuất khẩu cực
kỳ nhỏ của nước ta (kim ngạch xuất khẩu của nước ta ở thời điều này chỉ
bằng 1,12% kim ngạch xuất khẩu của Mỹ).
Tiếp theo, đó là chỉ cần một phần rất nhỏ trong nguồn vốn đầu tư
cũng cực kỳ lớn của “người khổng lồ” này cũng có thể khiến nền kinh tế
nước ta tăng tốc. Mục tiêu tăng trưởng vượt bậc 7,5% năm 2001 của các nhà
quản lý sau khi nền kinh tế thoát khỏi tình trạng liên tục “tụt dốc” do những
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực đạt được tốc độ phát triển
ngoạn mục 6,79% năm 2000 có lẽ không ngoài ý tưởng nắm bắt thời cơ này
để “thừa thắng xông lên”. Tuy nhiên, trên thực tế, sự kiện ngày 11/9 đúng
vào lúc nền kinh tế thế giới đang trên đà giảm tốc chính là “thủ phạm chính”
khiến cho mục tiêu này đã không trở thành hiện thực.

Trước hết, các số liệu thống kê xuất khẩu hàng hoá của nước ta
cho thấy, tính đến hết tháng 8/2001, tốc độ tăng của đầu ra này vẫn còn đạt
11,5% và với “tập quán đủng đỉnh” trong những tháng đầu năm, để rồi tăng
tốc vào những tháng cuối năm, chúng ta có thể hy vọng đạt được mục tiêu
tăng 16% cả năm, nhưng ngay trong tháng 9, tốc độ tăng xuất khẩu đã bắt
đầu “rơi tự do” và cứ sau mỗi tháng lại “tụt dốc” thêm một bậc.
Hiển nhiên, tuy thị trường Mỹ khổng lồ nhất thế giới, nhưng ở thời
điểm này, tác động trực tiếp của nó đối với việc xuất khẩu của nước ta “rơi
tự do” như vậy là rất nhỏ, bởi hai lẽ. Trước hết, xét về quy mô, kim ngạch
xuất khẩu của nước ta sang thị trường Mỹ năm 2001 chỉ mới đạt 1,065 tỷ
USD và chỉ chiếm 7,09% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Những điều đó có nghĩa là, những tác động gián tiếp của sự kiện
11/9 đến sự “tụt dốc” của “đoàn tàu xuất khẩu” nước ta mới là chủ yếu. Bởi
lẽ, trong khi kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang thị trường Mỹ tăng phi
mã như vậy, thì xuất khẩu sang hầu như tất cả các thị trường khác, trước hết
là các thị trường chủ yếu ở khu vực châu Á, hoặc là giảm, hoặc “giậm chân
tại chỗ hoặc chỉ giảm nhẹ. Sở dĩ như vậy là do xuất khẩu của hầu hết các
quốc gia này cũng có “đích đến” rất quan trọng là thị trường Mỹ, và một khi
“đích đến” này bị thu nhỏ, tất yếu sẽ gây ra tình trạng trì trệ dây chuyền.
Việc tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu năm 2000 tăng phi mã 13,28%,
nhưng năm 2001 đột ngột giảm 3,86%, còn thị trường Mỹ chiếm tới 19-
19,5%, “rổ hàng hoá nhập khẩu” này thì cặp số liệu tương ứng là 18,74% và
-6,15% cho thấy rất rõ điều đó.
Bên cạnh đó, khoảng thời gian hơn một năm cũng là quá ngắn để các
nhà đầu tư Mỹ có thể tăng vốn đầu tư vào thị trường nước ta.
Bằng chứng là, sau khi sự kiện 11/9 khiến cả thế giới rung chuyển đã
diễn ra được gần 3 tuần lễ, nhưng dựa trên tốc độ xuất khẩu ước thực hiện
10,5% của 9 tháng, Tổng cục Thống kê vẫn cho rằng sẽ không diễn ra các
bước “tụt dốc” nói trên, cho nên đã dự báo cả năm 2001 đạt 16 tỷ USD,
tương ứng với tốc độ tăng “không tưởng” 10,7%, nhưng thực tế chỉ đạt xấp

xỉ 3,8% và đây cũng là một căn cứ rất quan trọng để đưa ra một dự báo
“không tưởng” khác là tốc độ tăng GDP cả năm sẽ đạt 7,1% (thực tế chỉ đạt
6,89%), bởi khoản kim ngạch xuất khẩu bị “hụt” so với dự báo gần 1 tỷ
USD, tương ứng với 3,05% GDP của năm này.
Trong khi đó, cảnh báo về tác động dây chuyền khiến tốc độ xuất khẩu
của nước ta “rơi tự do” dẫn đến sự giảm tốc của nền kinh tế thì bị coi là “lạc
lõng”, là dự báo bi quan.
Ước tổng vốn đầu tư đưa vào nền kinh tế 4 năm 2001-2004 (tính theo
giá 2000) khoảng 731.000 tỷ đồng, đạt khoảng 88% kế hoạch 5 năm đề ra.
Trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chiếm 21,9%; vốn tín dụng
đầu tư của nhà nước chiếm 14,7%, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước
chiếm 17,7%; vốn đầu tư của tư nhân và dân cư chiếm 25,7%; vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài chiếm 17,3%. Trong 4 năm 2001-2004 cam kết ODA
dự kiến đạt khoảng 10,5tỷ USD; giải ngân ODA ước đạt khoảng 6,2 tỷ
USD.
Các quan sát viên kinh tế thế giới đã nhìn thấy những dấu hiệu từ cuối
năm 2000 về tăng trưởng chậm lại trên toàn cầu, mà chủ yếu là do kinh tế
Mỹ tăng chậm lại đáng kể, những quan ngại về sự phục hồi trong kinh tế
Nhật Bản, viễn cảnh tăng trưởng ở mức vừa phải của châu Âu, và khả năng
suy giảm tăng trưởng ở một số nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là những nền
kinh tế có mối liên hệ mật thiết với công nghệ và viễn thông toàn cầu, sau
cuộc sụt giá nặng nề của các cổ phiếu trong ngành công nghệ thông tin và
viễn thông từ tháng 3-2000, nhất là sau biến cố khủng bố tại Mỹ vào ngày
11-9-2001. Do đó, mức tăng trưởng cho nền kinh tế thế giới năm 2001 đã
liên tục được ước lượng thấp đi, từ 3,4% (ước lượng tháng 4-2001 bởi IMF)
xuống chỉ còn 2,4% vì ảnh hưởng của khủng bố, theo tính toán sau cùng
(tháng 12-2001) của IMF, so với mức tăng của năm 2000 là 5%, và năm
1998 với khủng hoảng tài chính châu Á là 6%.
Trong nước, vấn đề ngoại thương còn nhiều yếu kém:quy mô còn nhỏ
bé, cơ cấu xuất khẩu lạc hậu, thị trường bấp bênh, nhiều doanh nghiệp chưa

giữ được chữ tín với doanh nghiệp nước ngoài, công tác quản lí còn nhiều
bất cập. Bên cạnh đó phải nói đến chất lượng các mặt hàng xuất khẩu của
Việt Nam còn kém .
Về tình hình thiên tai; lũ lụt đặc biệt ở các tỉnh miền Trung năm nào
cũng gây ra những mất mát rất lớn về tính mạng và tài sản cho nhân dân nơi
đây. Các đợt nắng nóng ở miền Bắc làm ảnh hưởng đến sản lượng lúa, ảnh
hưởng đến đới sống nông dân.
Tóm lại: nền kinh tế việt nam trong giai đoạn này tuy có nhiều điều
kiện thuận lợi hơn các giai đoạn trước nhưng cũng có nhiều khó khăn cần
khắc phục. Lạm phát tuy đã giảm nhưng vẫn còn ảnh hưởng đén nền kinh tế,
Hơn nữa đây là giai đoạn chịu nhiều ảnh hưởng của tình hình thế giới, đặc
biệt về lĩnh vực kinh tế ngoại thương thì càng chịu nhiều ảnh hưởng do các
đối tác nước ngoài của chúng ta rơi vào khó khăn. Vì có những bất ổn về
kinh tế như vậy, CP Việt Nam phải kịp thời đưa ra các chính sách kinh tế vĩ
mô đặc biệt chính sách kinh tế đối ngoại trong giai đoạn này là rất cần thiết
để vừa giữ gìn sự ổn định của nền kinh tế vừa thực hiện mục tiêu tăng
trưởng, vừa hội nhập, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế vừa bảo vệ nền kinh
tế nước nhà trước những cơn biến động của thế giới.
B. Thu thập số liệu về các khoản mục trong cán cân thanh
toán quốc tế thời kì 2000-2006.
Ngân hàng Nhà nước đã từng công bố cán cân thanh toán quốc tế của
VN năm 2005 thặng dư khoảng 1,9 tỷ USD, gấp hơn hai lần so với mức 863
triệu USD năm trước. Đóng góp một phần không nhỏ vào kết quả này là 750
triệu USD vốn nước ngoài vay được sau đợt phát hành trái phiếu quốc tế hồi
tháng 11.
Theo nhận định của Ngân hàng Nhà nước, diễn biến cán cân thanh toán
quốc tế của VN năm 2005 chịu nhiều tác động bởi việc giá cả hàng hoá tăng
cao, thiên tai, bão lụt liên tiếp xảy ra trên nhiều vùng trong cả nước.
Bên cạnh đó, tình hình kinh tế quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, giá
dầu tăng mạnh, giá vàng và lãi suất trên thị trường quốc tế có chiều hướng

tăng, dịch cúm gia cầm có nguy cơ lan rộng trên toàn thế giới. Tuy nhiên,
thâm hụt cán cân vãng lai tiếp tục được thu hẹp và cán cân vốn thặng dư ở
mức cao, góp phần cải thiện tình hình cán cân thanh toán nói chung.
Dự kiến, cán cân vãng lai cả năm thâm hụt khoảng 270 triệu USD
(chiếm 0,5% GDP) giảm mạnh so với mức thâm hụt 969 triệu USD (2,1%
GDP) của năm 2004, chủ yếu do cán cân thương mại và dịch vụ được thu hẹp.
Kim ngạch xuất khẩu năm nay ước đạt 31,8 tỷ USD, tăng 20% so với
năm 2004, trong khi chỉ tiêu đề ra là 30,7 tỷ USD. Đồng thời, chuyển tiền tư
nhân (chủ yếu là chuyển tiền kiều hối), đạt 3 tỷ USD, tiếp tục duy trì thặng dư
ở mức cao, tương đương mức thặng dư của cán cân vốn.
Cán cân vốn dự kiến đạt thặng dư ở mức 3 tỷ USD, tăng mạnh so với
năm 2004 do các luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam (FDI, ODA, vay
thương mại trung dài hạn) tiếp tục tăng lên, việc phát hành 750 triệu USD trái
phiếu Chính phủ, qua đó đã góp phần tăng cung ngoại tệ.
Do môi trường đầu tư của VN tiếp tục được cải thiện, năm 2005 vốn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài (vốn đăng ký mới) ước đạt 1,8 triệu USD, cao
hơn so với mức 1,61 tỷ USD của năm 2004. Vay trả nợ nước ngoài trung và
dài hạn thặng dư 850 triệu USD, giảm so với mức 1,061 tỷ USD của năm
2004 do giải ngân vốn ODA và vay của doanh nghiệp qua hệ thống ngân hàng
giảm, trong khi trả nợ tăng so với năm 2004.
Đặc biệt, trong năm 2005 lần đầu tiên VN đã phát hành 750 triệu
USD trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế nên đầu tư vào giấy tờ có giá
thặng dư ở mức 750 triệu USD. Số tiền này được cho Vinashin vay lại qua tài
khoản mở tại Ngân hàng Đầu tư & phát triển VN, qua đó góp phần tăng huy
động ngoại tệ của hệ thống ngân hàng thương mại, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ
trong nước.
Theo ngân hàng Nhà nước, thặng dư cán cân thanh toán quốc tế tăng
cao góp phần làm giảm sức ép điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ và kiềm chế lạm phát
trong nước. Trong năm qua, có những thời điểm nền kinh tế có hiện tượng
cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ. Vào những thời điểm đó, Ngân hàng Nhà

nước đã can thiệp bằng cách mua ngoại tệ nhằm tăng quỹ dự trữ ngoại hối
Nhà nước. Đến nay, dự trữ ngoại hối Nhà nước của VN đã đạt ở mức trên 10
tuần nhập khẩu hàng hoá, tăng so với mức 9 tuần vào cuối năm 2004.
**Cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam trước bối cảnh gia nhập WTO
Quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam đã trải qua 11 năm. Việc
thực hiện 12 vòng đàm phán đa phương và kết thúc đàm phán song phương
với 28 đối tác cho thấy khả năng gia nhập WTO đã cận kề. Việc Việt Nam
trở thành thành viên WTO là cần thiết theo xu hướng của thời đại hội nhập
kinh tế và toàn cầu hoá. Tuy nhiên, với trình độ phát triển kinh tế còn thấp
nhưng độ mở cửa thị trường cao, Việt Nam gia nhập WTO trong thời gian tới
có những thuận lợi và đứng trước những khó khăn, thách thức đan xen nhau
đến mọi mặt của nền kinh tế, đặc biệt tác động lớn đến cán cân thanh toán
quốc tế. Có thể dự báo những xu hướng vận động của cán cân thanh toán khi
Việt Nam gia nhập WTO như sau:
Ngay sau khi gia nhập WTO, cán cân thương mại tiếp tục xu hướng thâm
hụt và có thể ở mức cao hơn giai đoạn 2001-2005.
- Về xuất khẩu, trong giai đoạn 2001-2005, xuất khẩu đạt mức tăng trưởng
cao, bình quân 16,3%/năm. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu đạt 32,4 tỷ USD
(bằng khoảng 60% GDP), 6 tháng đầu năm 2006 đạt 18,7 tỷ USD, tăng 26%
so với cùng kỳ năm ngoái. Khi gia nhập WTO Việt Nam phải cắt giảm thuế
quan, xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan (hạn ngạch, cấp phép xuất- nhập
khẩu) xoá bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường, tạo sân chơi bình đẳng cho các
doanh nghiệp trong và ngoài nước (gọi là dành sự đối xử quốc gia), bảo đảm
vệ sinh, an toàn thực phẩm, tài sản trí tuệ và bản quyền. Điều đó tạo thuận lợi
cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia trên sân chơi chung và được đối xử
công bằng. Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước còn
thấp, trong khi đó đối tác nước ngoài đi trước rất xa về thời gian, trình độ
công nghệ, kinh nghiệm,
Do đó, nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực có thể sẽ biến động mạnh theo
hướng cơ cấu các mặt hàng công nghiệp tăng nhanh, mặt hàng chủ lực truyền

thống tăng chậm. Nhóm hàng có kim ngạch thấp hiện nay như hàng máy vi
tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, túi xách, ô
dù, mũ, vali, sản phẩm gốm sứ, dây điện và dây cáp điện, xe đạp và phụ tùng
xe đạp chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch xuất khẩu, sẽ tham gia vào thị
trường rộng lớn hơn, có thể tăng tốc.
Hàng dệt may, giày dép chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch gặp khó khăn
hơn trong việc tăng nhanh kim ngạch do phải cạnh tranh trực tiếp với hàng
dệt may của Trung Quốc, Ấn Độ Bởi vì, hàng dệt may của Việt Nam là
loại gia công, hàng cấp trung bình cùng đẳng cấp với hàng dệt may các nước
trong khu vực. Đồng thời, thuế suất đối với hàng dệt may Việt Nam trung
bình là 15%, bằng mức thuế của các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan. Đặc
biệt, hàng Việt Nam phải cạnh tranh với hàng của nhóm các nước Caribe,
Canada và Mexico chỉ chịu thuế 0%. Theo các chuyên gia kinh tế, năng lực
cạnh tranh hàng Việt Nam không thể bằng Trung Quốc, nhưng hiện nay hàng
dệt may Trung Quốc đang bị áp đặt các biện pháp hạn chế nên hàng Việt
Nam có thể tận dụng cơ hội để tăng cao.
Nhóm hàng chủ lực truyền thống như cao su, gạo, cà phê, dầu thô, than đá,
rau quả chiếm khoảng 35%, tiếp tục đạt tăng trưởng cao do được tham gia
trực tiếp và bình đẳng hơn vào các thị trường lớn. Khi Việt Nam vào WTO,
hàng thuỷ sản không có chuyển biến nổi bật, mức độ thách thức và cơ hội
cho ngành thuỷ sản ở một chừng mực nào đó đã có từ lâu. Về thách thức, tính
minh bạch, rõ ràng về chất lượng sản phẩm, nguồn gốc nguyên liệu, chứng
chỉ kiểm soát quá trình chế biến, sản xuất, thông tin liên quan đến tiêu chuẩn,
hệ thống chất lượng ở các thị trường xuất khẩu là vấn đề khó khăn đối với
doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Theo các chuyên gia, WTO là phương tiện để đưa đất nước tiến lên, mốc
quan trọng nhưng không phải là mốc cuối cùng. Mở cửa thị trường trong
nước, chấp nhận cạnh tranh từ bên ngoài trên hầu hết các lĩnh vực hàng hoá,
dịch vụ, nhân lực tác động đến cán cân thương mại. Nhưng sân chơi WTO là
sân chơi cho xuất khẩu, phải hướng vào xuất khẩu để tăng quy mô thương

mại (xuất khẩu của Việt Nam hiện nay khoảng 33 tỷ USD trong khi xuất
khẩu toàn cầu là 10.000 tỷ USD, cho thấy xuất khẩu của Việt Nam còn nhỏ
bé).
Về nhập khẩu, kim ngạch giai đoạn 2001-2005 đạt mức tăng bình quân
17,4%/ năm. Kim ngạch nhập khẩu năm 2005 đạt 37 tỷ USD (chiếm 70,2%
GDP), tăng 15,7% và 6 tháng đầu năm 2006 kim ngạch nhập khẩu đạt 20,7 tỷ
USD, tăng 14%. Khi gia nhập WTO, kim ngạch nhập khẩu sẽ tăng trưởng
mạnh mẽ. Nguyên nhân chủ yếu là do hàng công nghiệp, nông sản tăng do
việc giảm thuế mạnh mẽ trong các ngành nông nghiệp và công nghiệp, trong
khi đó chi phí sản xuất trong nước còn cao do nhiều ngành công nghiệp còn
non trẻ, điểm xuất phát thấp, năng suất lao động thấp, cơ cấu kinh tế lạc hậu,
năng lực cạnh tranh còn hạn chế, chất lượng nguồn nhân lực thấp, hệ thống
giáo dục đào tạo kém, chịu nhiều sức ép hơn các nước đang phát triển khác
do chưa phải là nền kinh tế thị trường.
Khi gia nhập WTO, nhập khẩu hàng dệt may từ Trung Quốc, ASEAN, Đài
Loan tăng nhanh do thuế suất sẽ giảm từ 40-50% xuống còn 5-15%, đồng
thời khâu phân phối của các nước này tốt hơn của Việt Nam. Quyền kinh
doanh của họ trên thị trường nội địa nước ta như quyền phân phối hàng hoá,
chất lượng, giá cả được ưu đãi do làm tốt khâu phân phối, hoá hàng sẽ lan toả
nhanh, thương hiệu phổ biến rộng rãi trên thị trường Việt Nam.
Cán cân dịch vụ tiếp tục có xu hướng thâm hụt. Năm 2005, tổng thu, chi
dịch vụ chiếm khoảng 14% tổng kim ngạch thương mại hàng hoá dịch vụ và
triển vọng có thể đạt tỷ trọng 20% trong thời gian tới. Thu các ngành dịch vụ
du lịch, hàng không, tài chính tăng nhanh do gia nhập WTO, Việt Nam đã
cam kết mở cửa hầu hết ngành dịch vụ. Hầu hết các ngành dịch vụ hỗ trợ
kinh doanh như tư vấn kế toán, thiết kế, kiến trúc, xây dựng, dịch vụ liên
quan đến máy tính, văn hoá giải trí được mở cửa ngay cho nhà đầu tư nước
ngoài. Hiện nay còn hạn chế nhà đầu tư nước ngoài vào một số ngành dịch vụ
như bảo hiểm phi nhân thọ, vận tải, dịch vụ quảng cáo, phần mềm máy
tính Trong ngành viễn thông, công ty nước ngoài được sở hữu phần lớn

trong các liên doanh cung cấp dịch vụ viễn thông cố định, di động thực hiện
thông qua thuê đường truyền, hệ thống dữ liệu, dịch vụ vệ tinh và cáp ngầm
dưới biển của công ty Việt Nam. Do đó, xu hướng thu hút FDI trong lĩnh vực
dịch vụ tăng mạnh sẽ góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ. Tuy nhiên,
chi dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, đặc biệt là dịch vụ vận tải và bảo
hiểm hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng do kim ngạch nhập khẩu tăng.
Thâm hụt cán cân thu nhập gia tăng do phần thu của các hạng mục thu
nhập đầu tư (gồm thu lãi tiền gửi của hệ thống ngân hàng, thu cổ tức từ hoạt
động đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài và đầu tư vào chứng khoán
do người không cư trú phát hành) tăng với tốc độ thấp hơn tốc độ tăng chi
của các hạng mục này. Bởi vì, hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài
mới ở giai đoạn đầu nên khả năng thu lãi và cổ tức chưa cao, trong khi luồng
vốn FDI và vay nợ nước ngoài được thu hút trong thời gian qua tăng và sẽ
tiếp tục mở rộng sau khi gia nhập WTO sẽ khiến các khoản lãi phải trả cho
các khoản vay nước ngoài, lợi nhuận chia cho các nhà đầu tư nước ngoài sẽ
tăng mạnh, đặc biệt là lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
khai thác dầu khí.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục gia tăng do môi trường
đầu tư kinh doanh được cải thiện hơn, lợi thế về chi phí đầu tư như chi phí
lao động, giá điện đang cạnh tranh với các nước trong khu vực. Đặc biệt, việc
tăng cường công tác xây dựng pháp luật trong thời gian qua theo yêu cầu của
việc gia nhập WTO phù hợp với luật quốc tế và thực tế Việt Nam thể hiện
việc chấp nhận luật chơi chung. Trong giai đoạn 2001-2005, cam kết đầu tư
FDI bình quân tại Việt Nam đạt trên 3 tỷ USD/năm, đặc biệt năm 2005 đạt
5,7 tỷ USD và năm 2006 dự kiến đạt trên 6 tỷ USD. Giải ngân nguồn vốn
FDI cũng đạt bình quân trên 3 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, chất lượng các dịch

×