31
TẠP CHÍ KHOA HỌC, ðại học Huế, Số 66, 2011
VÀI NHẬN XÉT VỀ TỔ CHỨC CỘNG ðỒNG NGƯỜI HOA
Ở NAM TRUNG BỘ (CÁC TỈNH QUẢNG NGÃI, BÌNH ðỊNH, PHÚ YÊN)
Nguyễn Văn ðăng
Trường ðại học Khoa học, ðại học Huế
TÓM TẮT
Do những yếu tố ñặc thù của quá trình di cư, của các tổ chức cộng ñồng, của các hoạt
ñộng kinh tế và văn hóa so với vùng khác (Bắc Trung Bộ và Nam Bộ) nên việc nghiên cứu về
người Hoa ở vùng ñất Nam Trung Bộ chưa ñạt ñược kết quả như mong muốn.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của các tác giả ñi trước, ñặc biệt là các tác giả tại các
ñịa phương Quảng Ngãi, Bình ðịnh, Phú Yên và kết quả ñiều tra ñiền dã của bản thân; chúng
tôi muốn bước ñầu nêu lên vài nhận ñịnh chung về người Hoa trên một số nét chính yếu về quá
trình ñịnh cư, về tổ chức cộng ñồng ở vùng ñất mới trong quá trình cộng cư, hòa nhập vào cộng
ñồng quốc gia, dân tộc Việt Nam trước năm 1945. Từ ñó góp phần ñịnh hướng cho công cuộc
nghiên cứu và phát huy bản lĩnh kinh tế và bản sắc văn hóa của cộng ñồng người Hoa trong
tương lai.
1. ðặt vấn ñề
Người Hoa với tư cách là một tộc người thiểu số ñặc biệt ñã ñược nhiều người
nghiên cứu. Vai trò của họ trong các hoạt ñộng kinh tế văn hóa ở một số ñô thị miền
Trung ñã ñược nhiều người quan tâm như ở Thanh Hà (Huế), Hội An (Quảng Nam),
Biên Hòa, Bến Nghé (thành phố Hồ Chí Minh), Mỹ Tho (Tiền Giang)… Tuy nhiên, do
những yếu tố ñặc thù của quá trình di cư, của các tổ chức cộng ñồng, của các hoạt ñộng
kinh tế và văn hóa so với vùng khác (Bắc Trung Bộ và Nam Bộ) nên việc nghiên cứu về
người Hoa với tư cách là một cộng ñồng công dân Việt Nam
1
nói chung ở vùng ñất
Nam Trung Bộ chưa ñược quan tâm nhiều và chưa ñạt ñược kết quả như mong muốn.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của các tác giả ñi trước tại các ñịa phương Quảng Ngãi,
Bình ðịnh, Phú Yên và kết quả ñiều tra ñiền dã; chúng tôi muốn bước ñầu nêu lên vài
nhận ñịnh chung về người Hoa trên một số nét chính yếu về quá trình ñịnh cư, về tổ
1
Dựa theo quan niệm của GS. Mạc ðường Khái niệm người Hoa ở ñây ñược xem là một cộng ñồng
công dân (community of citizen) là một nhóm tộc người thiểu số (ethnic group) có nguồn gốc từ một
quốc gia khác, nhưng ñã góp phần khai phá và phát triển những vùng không gian xã hội của quốc gia
khác trong quá trình lịch sử lâu dài và sau này ñã hòa nhập với cư dân quốc gia cư trú hoặc nhận quốc
tịch của quốc gia cư trú. Xem Mạc ðường (1994), “Người Hoa trong quá trình phát triển ở thành phố Hồ
Chí Minh”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.3-12.
32
chức cộng ñồng ở vùng ñất mới trong quá trình cộng cư, hòa nhập vào cộng ñồng quốc
gia, dân tộc Việt Nam trước năm 1945.
2. Quá trình ñịnh cư của người Hoa ở các tỉnh Nam Trung Bộ
2.1. Về thời ñiểm di cư, nhìn chung, cư dân người Hoa ñến Nam Trung Bộ muộn
hơn so với vùng Bắc Trung Bộ. Ở Hội An (Quảng Nam), người Nhật ñến sớm nhất, sau
ñó người Hoa ñến ñịnh cư bắt ñầu vào cuối thế kỷ XVI ñến ñầu thế kỷ XVII. Còn ở
Nam Trung Bộ, do tình hình tài liệu hiếm hoi nên việc xác ñịnh thời ñiểm ñịnh cư của
người Hoa ñến các tỉnh chưa thật rõ ràng và chính xác.
Ở Quảng Ngãi, có thể nói người Hoa ñịnh cư ở Thu Xà, ñịa ñiểm qui tụ nhiều
người Hoa nhất ở Quảng Ngãi, là vào cuối thế kỷ XVII. Tác giả ðoàn Ngọc Khôi căn
cứ vào nội dung tờ thị: “thị tỉ phong chức của chúa Nguyễn Phúc Chu cho Trần Công
Vinh, giao cho ông này nhiều việc, trong ñó có việc quản lý trông coi dân chánh hộ
trong các huyện, tổng, xã, thôn, phường thuộc bản phủ cùng thương nhân người Hoa”
[9] viết năm Chính Hòa thứ 12 (1691) ñể suy ñoán người Minh Hương tụ cư khá ñông ở
Thu Xà trước năm 1691.
Ở Bình ðịnh, các tác giả ñều gần như khẳng ñịnh người Hoa ñến ñịnh cư ở ñây
vào ñầu thế kỷ XVII. Tuy nhiên, thời ñiểm chính xác vẫn chưa thống nhất, phần lớn các
nhà nghiên cứu cho ñó là năm 1610, năm mà thuyên buôn Trung Hoa ñã vào cửa Thị
Nại theo sông Kôn vào khu vực cảng thị Nước Mặn ñể kinh doanh góp phần làm cho
cảng thị này phồn vinh
ðối với tỉnh Phú Yên, không có cứ liệu ñể xác minh nhưng theo các vị cao niên,
người Hoa bắt ñầu ñến ñịnh cư trên ñất Phú Yên là vào khoảng cuối thế kỷ XVIII. Họ ñi
bằng thuyền buồm, cập bến và ñịnh cư ở vùng ven biển và hạ lưu các sông Mĩ Á (thôn
An Phú, huyện Tuy An), Vũng Lấm (xã Xuân Thọ 2, huyện Sông Cầu) rồi sau ñó di
chuyển dần ñến thành phố Tuy Hòa và hầu hết các ñịa phương trong tỉnh. Trong thời kì
phát xít Nhật xâm lược Trung Quốc (1937-1945), có một số người Hoa ở Hải Nam,
Triều Châu, Phúc Kiến ñến cư ngụ bằng nhiều con ñường khác nhau.
2.2. Về nguyên nhân di cư, có hai nguyên nhân cơ bản ñể người Hoa ở miền
ðông Nam Trung Quốc (các ñịa phương Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng ðông, Hải
Nam ) di cư ñến xứ ðàng Trong là lý do chính trị và lý do kinh tế. Phần lớn những
người Hoa di cư là ñể tránh nạn binh ñao, do bất mãn không chịu hợp tác với chính
quyền mới; Bên cạnh ñó, do ñời sống kinh tế, nên người Hoa thường tìm ñến những nơi
ñã có sẵn kinh tế hàng hóa phát triển trước ñó ñể ñịnh cư và tìm kế sinh nhai. Có thể nói,
người Hoa ñến ñịnh cư ở vùng Nam Trung Bộ chủ yếu bắt nguồn từ lý do kinh tế, có
nguyên nhân trực tiếp từ việc tự mình ñi tìm kế sinh nhai ở nước ngoài sau những biến
ñộng chính trị lớn ở Trung Quốc.
2.3. Về phương cách di cư ñến xứ ðàng Trong nói chung, người Hoa thường di
33
cư tập thể, mang tính tập ñoàn có tổ chức như ở Nam Bộ (Trần Thượng Xuyên và
Dương Ngạn ðịch năm 1679, Mạc Cửu ), ở Thanh Hà hoặc Hội An. Tuy nhiên, khi di
cư ñến vùng Nam Trung Bộ, tính tổ chức trong di cư của người Hoa không mạnh; họ ít
di cư tập thể (theo nhiều dòng họ, nhiều tập ñoàn) mà chủ ñộng rời bỏ quê gốc một cách
tự phát. Dựa trên ñiều kiện thuận lợi về cửa cảng nhiều của vùng ven biển Nam Trung
Bộ, người Hoa tụ cư ở vùng này theo từng nhóm, từng gia ñình lẻ tẻ. Lúc ñầu, người
Hoa có thể qui tụ ở một vài ñiểm thuận lợi cho sinh kế của họ nhưng sau ñó, do nhiều
biến ñộng tự nhiên, dân cư, lịch sử phức tạp khác nhau, người Hoa dần dần lan tỏa ra
các thị tứ, thị trấn khắp các tỉnh và ñóng vai trò quan trọng trong kinh tế - xã hội ở các
tỉnh này.
ðại Nam nhất thống chí thời Tự ðức cho biết ở Quảng Ngãi có 2 cửa biển là Sa
Kỳ và ðại Cổ Lũy. ðó là những “cửa biển lớn, nước sâu, cạn, tàu thuyền ra vào ñều do
ñấy ” từ giữa thế kỷ ñã có chợ và phố: “Chợ Xích Thổ (huyện Chương Nghĩa) có phố
Minh Hương”[2]. Từ 2 cửa này, người Hoa nhập cư; lúc ban ñầu họ cư trú xen kẽ với
người Việt, ñông nhất ở làng Tiên Sà, sau ñó mới hình thành tổ chức Minh Hương xã,
mua ñất lập phố Thu Xà. Dựa theo ñinh bạ (số ñinh) của người Minh Hương Thu Xà
làm năm Gia Long thứ 2 (1803) còn lưu giữ ở chùa Ông, số dân Minh Hương xã gồm
108 người, trong ñó một số cư trú ở Thu Xà còn phần lớn sinh sống xen kẽ với người
Việt ở các huyện. Theo gia phả một số họ tộc thì người Hoa ñến trong nhiều thời ñiểm
khác nhau bắt ñầu vào cuối thế kỷ XVII. Trong số 18 họ tộc Minh Hương cùng ñóng
góp lập chùa Ông
2
thì các họ Hoàng, Trần, ðỗ, Vưu ñược xem là ñến ñịnh cư sớm hơn.
Họ Từ 13 ñời có gốc ở làng Giang ðông, phủ Chương Châu, Phúc Kiến nhập tịch Cựu
Minh Hương (xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa) nhưng có từ ñường ở thị trấn Chợ Chùa,
huyện Nghĩa Hành. Họ Tăng nay ñược 8 ñời nhưng ñã dừng chân ngụ tại Mỹ Khê,
huyện Sơn Tịnh 1 ñời trước khi tiếp tục vào ñịnh cư ở Cựu Minh Hương.
Ở Bình ðịnh, cùng với ñịa ñiểm ñầu tiên là cảng thị Nước Mặn, người Hoa ñã
lần lượt ñến ñịnh cư sinh sống ở nhiều nơi khác. Nhiều thị tứ, thị trấn mới trong tỉnh lần
lượt ra ñời với sự ñịnh cư và buôn bán của người Hoa như Gò Bồi, An Thái, ðập ðá,
Gò Găng, Bình ðịnh và cảng thị Qui Nhơn
3
Ngoài cửa Kẻ Thử, họ còn vào cửa ðề
Gi (Phù Cát) lập Trà Quang phố, vào cửa Kim Bồng (Bồng Sơn) lập Hòa Quang phố
Cũng thời kỳ ñó, còn có những nhóm vài ba chục hoặc một vài trăm người ñến buôn
bán làm ăn rải rác khắp trong tỉnh, ở lại lập nghiệp, sinh con ñẻ cháu và lập thành những
làng Minh Hương. Quá trình tụ cư ñó càng ñược ñẩy mạnh, tăng cường khi vua Minh
Mạng có chỉ dụ cho phép người Hoa ñịnh cư một cách hợp pháp ở Bình ðịnh vào năm
1832.
2
ðược công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo Quyết ñịnh số 43VH/Qð ngày 7/1/1993.
3
Theo các hồ sơ khảo sát thực ñịa và Báo cáo thực tập Tốt nghiệp của sinh viên khoa Sử, trường ðại học
Tổng hợp Hà Nội năm 1991 còn lưu tại các thị tứ, thị trấn này.
34
Cũng như các ñịa phương khác, người Hoa ở Phú Yên phần lớn là người Hải
Nam, Phúc Kiến, Triều Châu và một số người Quảng ðông, người Hẹ (Gia Ứng) và sau
này có một số người Thượng Hải. Khoảng cuối thế kỉ XIX ñầu thế kỉ XX, thì cộng ñồng
người Hoa hình thành trên ñất Phú Yên, cư trú ở hầu khắp các huyện trong tỉnh nhưng
mật ñộ khác nhau:
Người Hoa cư trú ở 6 xã ở huyện Tuy Hòa, 7 xã và thị trấn Chí Thạnh ở huyện
Tuy Hòa, 4 xã và thị trấn La Hai ở huyện ðồng Xuân, 4 xã và thị trấn Sông Cầu ở
huyện Sông Cầu. Ở thành phố Tuy Hòa: người Hoa cư trú ở các phường nội thị và các
xã Bình Kiến, Hòa Kiến. Một ít người Hoa cư trú ở 2 huyện Sơn Hòa và Phú Hòa.
Theo số liệu thống kê tháng 11 năm 1975, Phú Yên có khoảng 3500 người Hoa;
riêng ở thành phố Tuy Hòa có 2.300 người. Năm 2000 thống kê ñược 536 người. Nhìn
chung, dân số người Hoa ở Phú Yên ñang có xu thế giảm dần do sự di cư ñến nơi khác.
Mặc khác, do quá trình ñồng hóa tự nhiên, những người Hoa sống ở vùng nông thôn khi
khai báo hoặc làm giấy tờ hành chính họ ñều tự nhận mình là người Việt.
Vào những năm ñầu của thập niên 50 của thế kỷ XIX, khi ở Trung Quốc xảy ra
những sự kiện chính trị lớn như Chiến tranh Nha Phiến, phong trào Thái Bình Thiên
Quốc thất bại thì làn sóng di cư của người Hoa ra nước ngoài nói chung, ñến Nam
Trung Bộ nói riêng, càng trở nên ồ ạt và ñông ñảo. Dưới thời Pháp thuộc, số người Hoa
ñến Việt Nam càng ñông ñảo thêm; một bộ phận ñịnh cư, một bộ phận khá lớn tạm trú,
cất hàng về Trung Quốc hoặc giữa các nước trong khu vực mà không ñịnh cư hẳn Khi
ñến Nam Trung Bộ ñịnh cư, người Hoa ñã mua ñất, xây nhà, lập phố, mở cửa hiệu buôn
bán trên các trục ñường lớn, gần các chợ.
3. Các tổ chức cộng ñồng của người Hoa ở Nam Trung Bộ
Dù ñi bất cứ nơi ñâu, do mang trong mình ý thức tự tôn dân tộc mạnh mẽ, ñồng
thời ñể có thể bảo vệ ñược các quyền lợi chính trị, cạnh tranh về kinh tế và bảo lưu
những sắc thái văn hóa Trung Hoa truyền thống ở môi trường sinh sống mới, người Hoa
ñã liên kết lại với nhau thành từng nhóm cộng ñồng theo các nhu cầu về nghề nghiệp,
theo ngôn ngữ, theo quan hệ thân tộc và ñồng hương bên Trung Quốc. Các nhóm cộng
ñồng ñó ñược nhà nước quân chủ Việt Nam công nhận và thể chế hóa thành các tổ chức
xã, bang.
3.1. Tổ chức Minh Hương xã
Như chúng tôi ñã có lần ñề cập [3, 14], “người Hoa” bao gồm người Việt gốc
Hoa (trong ñó có Minh Hương xã) và Hoa kiều. “Minh Hương xã” là xã hiệu của cộng
ñồng người Việt gốc Hoa sau khi người Hoa tự nguyện nhập quốc tịch Việt Nam. Còn
Hoa kiều mà sử sách thường gọi là “khách trú” là những người Hoa vẫn giữ nguyên
quốc tịch Trung Hoa mà phần lớn họ là thương nhân ñến buôn bán ở các cảng thị. Các
làng Minh Hương ñược giao quyền tự quản cao hơn, ñược ñặc ân về sưu dịch, binh lính
35
và hoạt ñộng kinh doanh nhưng ñáp lại phải chịu số thuế cao hơn người Việt dưới thời
các chúa Nguyễn và Tây Sơn.
Về tên gọi “Minh Hương”, Sổ ñinh của nhà Nguyễn giải thích: Người Minh
Hương là người Trung Quốc di cư vào Việt Nam cuối thời Minh ñầu thời Thanh. Nhưng
theo ðào Trinh Nhất thì làng Minh Hương chủ yếu là người Trung Quốc lấy vợ Việt
Nam và con cháu họ. ðể tiện việc quản lý, chúa Nguyễn ñã cho lập làng của người
Minh Hương, lập bộ hộ tịch riêng của người Hoa kiều. Từ ñó làng của người Hoa ñược
chính thức thừa nhận gọi là Minh Hương hoặc Minh Hương xã. Lúc ñầu những quần thể
tụ cư này còn nằm trong phạm vi hẹp, tự phát, sau ñó lan rộng ra thành làng và ñược
vua Gia Long thể chế hóa năm 1814 [6].
Về sau, vào giữa thế kỷ XIX, có thêm một số người Hoa ñến lập nghiệp, vua
Nguyễn cũng cho lập làng cho nhóm người mới ñến này là Minh Hương xã Tân thuộc.
Thêm hai chữ Tân thuộc ñể phân biệt người Minh Hương mới nhập cư với người Minh
Hương ñã cư trú lâu ñời (Cựu thuộc). Riêng người Hoa ñến Việt Nam lập nghiệp từ cuối
thế kỷ XIX ñầu thế kỷ XX thì xưng là Hoa kiều chứ không gọi Minh Hương bởi vì họ
giữ quốc tịch Trung Hoa. Có lẽ lúc này chuyện nhà Thanh hay nhà Minh cũng ñã nhạt
dần trong tâm thức của họ. Mối bận tâm của người Hoa bây giờ là ñịnh cư, giữ quan hệ
tốt với người Việt, buôn bán thuận lợi.
Trong quá trình ñiền dã, có thể nhận thấy rằng ở Quảng Ngãi và Bình ðịnh có
hai loại tổ chức Minh Hương là Minh Hương cựu xã và Minh Hương tân thuộc. Ông
Quách Thế Hải, người Bình ðịnh, trong một ñặc san riêng của người Hoa ñã phân biệt:
“Chỉ những người Trung Hoa cuối ñời Minh hoặc ñầu ñời Thanh ñến lập nghiệp ở Việt
Nam dưới thời các Chúa Nguyễn (1558 – 1802) mới gọi là Minh Hương. Những người
ñến lập nghiệp thế kỷ XIX vào ñời các vua Nguyễn (từ 1802) cũng gọi là Minh Hương
nhưng là “Minh Hương tân thuộc”. Những người Trung Hoa ñến Việt Nam lập nghiệp
cuối thế kỷ XIX ñầu thế kỷ XX thì gọi là Hoa Kiều, không gọi là người Minh Hương”[7].
Ở Quảng Ngãi, sách ðại Nam nhất thống chí ñời Tự ðức ñã nhắc ñến Minh
Hương xã, ðồng Khánh ñịa dư chí có ñề cập ñến hai làng: xã Minh Hương tân thuộc và
Minh Hương Cựu thuộc, tổng Nghĩa Hà, huyện Chương Mỹ. Trong sách Danh sách xã
thôn Trung Kỳ
4
có ghi: Minh Hương xã, Tân Thanh (tên gọi mới của Minh Hương Tân
thuộc) bên cạnh các ñịa danh Thu Xà phố, Tiên Xà xã, Hà Khê thôn thuộc tổng Nghĩa
Hà, phủ Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi (ngày nay các làng này ñều thuộc xã Nghĩa Hòa,
huyện Tư Nghĩa). Thực tế, ñiền dã tại Quảng Ngãi cho thấy Minh Hương ñã ra ñời
trong thế kỷ XVIII, dành cho những người Hoa ñịnh cư sớm. Tuy có xã hiệu nhưng
không có ñịa giới rõ ràng, họ phân tán thành từng nhóm cư trú xen lẫn với người Việt.
4
Bản in Ronéo, ñóng dấu triện “Trung phần, Quốc Gia Việt Nam”, viết dưới thời Bảo ðại, khoảng năm
1943.
36
ðến ñầu thế kỷ XIX, họ mua ñất của thôn Hà Khê và xã Tiên Xà ñể lập phố, xây dựng
chùa Ông (1821), chùa Bà và các ñền miếu khác.
Minh Hương tân thuộc ở Quảng Ngãi ñược tách ra từ Minh Hương Cựu thuộc,
tập trung phần lớn người Hoa di cư sang cuối thế kỷ XVIII ñến ñầu thế kỷ XIX. Thời
ñiểm tách ra là năm 1843 khi căn cứ vào tờ ñơn của thuộc trưởng Cô ðăng Long năm
Thiệu Trị thứ 3 (1843). Những người Hoa ñến Thu Xà thời nhà Thanh (bên Trung
Quốc) xin vua Thiệu Trị ñược phép lập nên xã Minh Hương mới gọi là Minh Hương tân
thuộc. Cả Minh Hương tân thuộc và Cựu thuộc ñều có thể lấy vợ người Việt, ñịnh cư
lâu dài ñể thuận tiện cho việc buôn bán. Các ñiểm cư trú của người Minh Hương ngoài
phố Thu Xà thường là các thị tứ quan trọng như Châu Ổ, Trà Xuân, ðồng Ké, Ba Gia,
Chợ Chùa và các làng nghề như ñúc ñồng Chú Tượng, ñường phổi Vạn Tượng, nghề
gốm Mỹ Thiện….[9].
Minh Hương xã ở Bình ðịnh hình thành tương ñối sớm, chỉ sau Hội An (Quảng
Nam) và cùng thời với Thanh Hà (Huế) trong thế kỷ XVII. Bình ðịnh lúc ban ñầu có
Minh Hương xã Nước Mặn phố (ngày nay thuộc xã Phước Quang, Tuy Phước), Minh
Hương xã Trà Quang phố (thị trấn Phù Mỹ), Minh Hương xã Hòa Quang phố (Tam
Quan Bắc, Hoài Nhơn) và Minh Hương xã An Thái phố (Nhơn Phúc, An Nhơn). ðến
ñời chúa Nguyễn Phúc Chu (1698), làng của người Minh Hương gọi là trang, trưởng
làng người Minh Hương gọi là Trang trưởng (tương ñương Lý trưởng của người Việt).
Do vậy, Minh Hương xã Nước Mặn phố có tên làng gọi là Minh Hương xã Vĩnh An
trang, Minh Hương xã An Thái phố có tên làng là Minh Hương xã An Hòa trang, Minh
Hương xã Trà Quang phố có tên làng là Minh Hương xã Trà Quang trang và Minh
Hương xã Hòa Quang phố có tên làng là Minh Hương xã Hòa Quang trang. Ngoài ra,
người Minh Hương còn ở ñịnh cư rải rác ở Phú Phong, Vĩnh Thạnh, An Khê (nay thuộc
tỉnh Gia Lai)…[15]. Khác với làng người Việt, làng người Minh Hương có số dân nhất
ñịnh nhưng không có không gian nhất ñịnh, nói cách khác là làng Minh Hương có dân
mà không có ñất. Người Minh Hương thuộc trang Vĩnh An ở Nước Mặn nhưng có
người cư trú ở Gò Bồi, Cảnh Hàng, Phú ða hay ðập ðá.
Làng Minh Hương ở Nước Mặn (Minh Hương xã Nước Mặn phố) là Minh
Hương cựu thuộc ñược thành lập sớm nhất ở Bình ðịnh. ða phần người Hoa ñến Bình
ðịnh làm nghề buôn bán, bốc thuốc bắc, làm một số nghề thủ công… Họ nhanh chóng
trở nên giàu có và cung nạp các thứ thuế rất nặng. Bù lại họ ñược miễn thuế thân, miễn
trừ quân dịch, sưu dịch, tạp dịch. ðến năm Thành Thái thứ 10 năm (1898), thuế lệ của
người Minh Hương mới giống người Việt. Tuy nhiên, việc thu thuế thân và cấp bài chỉ
(biên nhận) vẫn do Trang trưởng thu rồi nộp cho phủ vì huyện không quản lý người
Minh Hương.
Trường hợp của tỉnh Phú Yên thì tổ chức Minh Hương tương ñối muộn do cư
dân người Hoa ñến ñây muộn hơn các tỉnh khác. Trong Danh sách xã thôn Trung kỳ
giữa thế kỷ XX có ghi lại thôn Minh Hương tổng Xuân Bình, huyện ðồng Xuân. Còn
37
trong các tài liệu của tỉnh Phú Yên thì ghi nhận rằng: tại Vũng Lấm người Hoa ñã phát
triển thành thương cảng khá sầm uất, thuyền buôn trong và ngoài nước thường cập bến
ñể thu mua và trao ñổi hàng hóa; và cũng tại nơi ñây ngày xưa người Hoa ñã xây dựng
thành một làng Minh Hương khá phát triển (nay thuộc xã Xuân Thọ 2 huyện sông Cầu).
Những người cầm ñầu làng Minh Hương ñược tuyển chọn qua các kỳ thi và
ñược vua, chúa bổ nhiệm. ðứng ñầu Minh Hương là Trang trưởng. Vài ba trang lập
thành một thuộc, người ñứng ñầu thuộc là thuộc trưởng (tương ñương Chánh tổng).
Trang trưởng do ðại hội trang bầu lên và trình quan ñứng ñầu phủ (hay tỉnh sau này)
chuẩn y. Minh Hương xã trước kia trực thuộc hệ thống hành chính tổng, huyện phủ sở
tại; nhưng ñến năm 1827, vua Minh Mạng cho Minh Hương xã trực tiếp lệ thuộc vào
cấp trấn (tỉnh); khi có việc, quan phải ñến ngay tỉnh mà không lệ thuộc vào phủ, huyện,
tổng. Một ñặc ñiểm riêng là nếu dân Minh Hương có làm gì phi pháp thì phải giao về
cho người ñứng ñầu của Minh Hương xã xem xét.
Về tư pháp, người Minh Hương ñược hưởng một số ñặc quyền: Nếu họ bị kiện
phải do Trấn thủ xử chứ Tri huyện, Tri phủ không có quyền xử. Việc sinh, tử, học hành
và làm mọi việc liên quan ñến kê khai lý lịch, tư pháp tự làm sổ bộ riêng và báo cáo
Trấn thủ.
Tuy nhiên, do biến ñộng lịch sử, số phận người Hoa ở làng Minh Hương cũng
“ba chìm bảy nổi” theo. ðặc biệt trong thế kỷ XIX, triều ñình nhà Nguyễn cũng ñã có
những chính sách khác nhau ñối với bộ phận cư dân này.
Với chính sách ưu ñãi của vua Gia Long, người Hoa ñịnh cư ngày càng ñông ở
Việt Nam; trong ñó, miền Trung thu hút khá lớn. Họ càng nhúng tay vào việc buôn bán
bất hợp pháp như buôn gạo, buôn thuốc phiện là những thứ bị cấm ñoán. Những ñiều ñó
ñã khiến vua Minh Mạng phải thi hành những chính sách cứng rắn ñối với người Hoa.
Năm 1843, vua Minh Mạng chia người Hoa thành hai nhóm ñể ñánh thuế thân: Nhóm
Minh Hương gồm những người ñịnh cư, lấy vợ Việt Nam và sinh con ñẻ cái, có nhiều
công trong việc giúp triều Nguyễn nên ñược ñánh thuế nhẹ. Nhóm người Thanh ña số là
thương nhân và dân nghèo ñi làm thuê vẫn giữ quốc tịch Trung Hoa. Hoa kiều này phải
ñóng thuế nặng, bị kiểm soát gắt gao, cư trú cố ñịnh. Minh Mạng còn cấm Hoa kiều tự
do tiếp xúc với người Minh Hương. Sau này những việc làm của Thiệu Trị và Tự ðức
ñã làm cho người Minh Hương ngày càng gắn bó, hòa nhập với vùng ñất họ ñịnh cư.
Thời Pháp thuộc, các làng Minh Hương không có nhiều biến ñổi, tính tự trị yếu dần và
ñi vào quỹ ñạo của làng xã Việt Nam nói chung.
Ngay từ lúc gọi Minh Hương xã, chúng ta thấy yếu tố Việt ñã xuất hiện và xâm
nhập mạnh vào người Minh Hương. Minh Hương xã là kiểu tổ chức tương tự làng
truyền thống của người Việt. Ở ñình làng Việt Nam có ñền thờ các ông khai canh nhưng
Tiên hiền làng Việt cũng ñóng vai trò như làng Minh Hương. Những nghi lễ trong làng
Minh Hương lúc ñầu do chính người Minh Hương tổ chức và thực hiện, sau ñó do quá
38
trình giao lưu văn hóa với người Việt nên những nghi lễ của họ nhạt dần theo thời gian.
Sau này, khi dân Việt ñịnh cư tại làng Minh Hương, tuy là dân ngụ cư, nhưng ñược
hưởng mọi quyền lợi như dân Minh Hương. Thực tế ñiền dã cho thấy yếu tố Việt hóa tỏ
ra rất mạnh mẽ ở vùng Nam Trung Bộ mà ñặc biệt là ở tỉnh Bình ðịnh.
3.2. Tổ chức Bang
Trong khi Minh Hương ñược tiếp tục hưởng quy chế cũ như thời chúa Nguyễn,
ñược mang quốc tịch Việt Nam, người Hoa nhập cư làm ăn buôn bán nhưng không nhập
tịch Việt Nam thì triều Nguyễn quản lý họ theo tổ chức Bang; cơ chế này ñược ban hành
từ ñầu triều Gia Long (1802). Những người trong Bang ñược hưởng chế ñộ tự trị cao
hơn - kiều dân nhưng phải ñóng thuế nặng hơn. Khác với Minh Hương xã, hình thức
liên kết Bang của người Hoa ñược tổ chức khá chặt chẽ; họ liên kết lại với nhau thành
những nhóm theo phương ngữ hay cùng nguồn gốc huyết thống. Tên gọi của Bang
mang tên các ñịa phương như bang Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng ðông, Hải Nam….
Nhưng cũng có những trường hợp ñặc biệt, thành viên của Bang có thể bao gồm nhiều
nhóm phương ngữ khác nhau. Trong trường hợp này, thường có thêm một Bang phó ñại
diện cho những thành viên thuộc nhóm phương ngữ khác nhau ñó. Cũng khác với một
số nước, ở Việt Nam, Bang mở rộng cho tất cả những người cùng quê quán không kể họ
là thương nhân hay không. Có thể nói rằng, Bang vừa là tổ chức xã hội (hội ñồng hương,
tương tế) vừa là hiệp hội thương mại (hội họp, kho hàng), vừa là trung tâm tín ngưỡng
của Hoa kiều. Trụ sở của các Bang là các hội quán.
Thực tế ñiền dã tại hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình ðịnh cho thấy, tổ chức bang ra
ñời vào ñầu thế kỷ XIX mà biểu hiện cụ thể là các hội quán của các bang sớm nhất ñược
xây dựng trong giai ñoạn này. Ở Nam Trung Bộ, người Hoa chủ yếu có 4 bang là Phúc
Kiến (ñông nhất), Triều châu, Quảng ðông và Hải Nam, không có bang Hẹ (hay Gia
Ứng) như ở Nam Bộ hay Hội An.
Ở Quảng Ngãi, do phố cảng Thu Xà ñã suy tàn khi nơi ñây là vùng tranh chấp ác
liệt thời chống Pháp và chống Mỹ nên mọi dấu tích còn lại khá mờ nhạt. Cư dân ñịa
phương cho biết rằng: Cư dân Minh Hương (cựu) ñã mua ñất của làng La Khê và Tiên
Xà ñể lập phố buôn bán ñồng thời xây dựng chùa Ông, chùa Bà. Còn cư dân Minh
Hương tân thuộc (hay Tân Thanh) và những Hoa kiều mới ñến cư ngụ buôn bán trên ñất
Thu Xà ñã mua một phần ñất của làng Phú Cường ñể xây riêng chùa Ông và ñặc biệt là
4 hội quán ñể thờ tự và sinh hoạt cộng ñồng. Trong ñó, có Tứ bang hội quán (chung) và
3 hội quán Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng ðông rất khang trang với qui mô lớn, còn hội
quán Hải Nam ñược xây dựng trên ñất La Khê.
Về sau khi phố thị Thu Xà suy tàn, sông Vực Hồng, một nhánh của sông Vệ, bị
xói lở làm cho chùa Bà và Hội quán Hải Nam không còn. Các hội quán khác trên ñất
làng Phú Cường bị triệt hạ bởi chiến tranh tàn phá chỉ còn nền ñất. Cư dân trong bang
Hải Nam và Triều Châu xây dựng lại hội quán ở ñường Lê Văn Sĩ và ñường Lê Trung
39
ðình, thành phố Quảng Ngãi khi họ chuyển cư ñến ñây, còn các hội quán khác ở Phú
Cường về cơ bản vẫn hoang phế như cũ, hoặc có xây dựng lại ñơn sơ (như Quảng ðông
hội quán). Ở Phú Cường, chúng tôi còn tìm thấy một số nghĩa ñịa riêng cho từng Bang,
ñặc biệt nghĩa ñịa Triều Châu, có qui mô lớn và còn ñược giữ gìn rất cẩn trọng. ðiều ñó
nói lên rằng, tổ chức Bang của người Hoa ở ñây khá chặt chẽ, nhưng khi phố Thu Xà
suy tàn giữa thế kỷ XX, ñại bộ phận cư dân chuyển ñi nơi khác, thì hoạt ñộng tại các hội
quán cũng không còn ñược duy trì.
Trên ñất Bình ðịnh, người Hoa ñến cư ngụ ngày càng nhiều, buôn bán của họ
diễn ra ngày càng mạnh mẽ, nên từ những năm 40 của thế kỷ XIX, tổ chức “Bang”
người Hoa cũng ñã ra ñời. Trên ñất Quy Nhơn, các Hoa kiều ñến từ các tỉnh Hải Nam,
Quảng ðông, Phúc Kiến, Triều Châu. Dấu tích của các bang chính là các hội quán còn
lại khá nguyên vẹn:
Quỳnh Phủ hội quán (còn gọi là Hải Nam hội quán hay chùa Hải Nam) ñược xây
dựng năm 1843, ở làng Cẩm Thượng. Triều Châu hội quán ñược xây cất từ trước năm
1850, những năm này là năm trùng tu với quy mô bề thế như ñã có hiện nay. Hội quán
nằm bên ñầm Thị Nại. Phúc Kiến hội quán xây dựng sau năm 1843, trên ñất làng Cẩm
Thượng và Quảng ðông hội quán ra ñời khoảng năm 1874 – 1877, ở về phía Nam của
làng Chánh Thành, thờ Quan Thánh ðế Quân (Quan Công).
Ngoài ra có Ngũ Bang hội quán ở làng Cẩm Thượng ra ñời vào khoảng giữa thế
kỷ XIX, rộng khoảng 1600 m
2
. Ngoài sinh hoạt chung, hội quán còn thờ Thiên Hậu
Thánh Mẫu, ngôi ñền chung ở Quy Nhơn của cư dân 4 Bang và Minh Hương.
Ở các thị tứ, thị trấn Bình ðịnh, các hội quán cũng ñược xây dựng; tuy nhiên
không có qui mô lớn như ở cảng thị Quy Nhơn. Ở ñây cư dân chủ yếu lập ngũ bang hội
quán ñể sinh hoạt và thờ cúng chung như trường hợp thị trấn An Thái.
Trên ñất Phú Yên, hoạt ñộng của các Bang nổi bật hơn xã Minh Hương. Dấu tích
sinh hoạt của các Bang còn lại khá nguyên vẹn. Người Hải Nam ñã xây dựng ñền thờ
Thiên Hậu Thánh Mẫu ở Vũng Lấm, Sông Cầu năm 1862. Năm 1868, họ lập Chiêu Ứng
Từ ở Mỹ Á, thôn Long Thủy (xã An Phú, huyện Tuy An) thờ 108 người Hoa bị nạn
Năm 1943, ñền Quan Thánh ở ñường Chu Mạnh Trinh, phường 1 ñược xây lại vừa thờ
Quan Thánh, Thiên Hậu Thánh Mẫu, thờ 108 người Hải Nam tử nạn vừa dùng làm hội
quán Hải Nam.
Người Hoa Phúc Kiến xây dựng một ñền thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu ở thị trấn
sông Cầu (chùa Bà). Năm 1882, bà con người Hoa gốc Phúc Kiến, Triều Châu và
Quảng ðông cùng chung một ngôi ñền tại ñường Phan ðình Phùng, phường 1, thành
phố Tuy Hòa thường gọi là chùa Ông Quảng Phúc Triều (hoặc chùa Ngũ Bang) vừa thờ
tự vừa làm hội quán Quảng Phúc Triều (ba bang người Hoa)…
Về cơ cấu tổ chức, ñứng ñầu mỗi Bang là Bang trưởng, theo chế ñộ tuyển chọn
40
và ñược vua phê chuẩn mới ñược lên nắm quyền. Năm 1825, Minh Mạng quy ñịnh: các
Bang trưởng sau khi ñược các thành viên trong Bang bầu lên, có nhiệm kỳ 4 năm, chỉ
cần gửi ñến chính quyền ñịa phương ñể chấp nhận, không cần có sự phê chuẩn của nhà
vua. Bang trưởng chịu trách nhiệm thu thuế và nộp thuế cho chính quyền, chịu trách
nhiệm về thái ñộ chính trị, ñại diện cho nguyện vọng của những thành viên trong Bang
ñể ñề ñạt với chính quyền sở tại.
Tổ chức Bang khá chặt chẽ và tương ñối ñộc lập, trong nội bộ từng Bang có các
tổ chức trường học, bệnh viện, nhà xuất bản, câu lạc bộ, nhà thờ, ñình chùa, thậm chí
có cả cơ quan lãnh sự và nghĩa ñịa riêng, nên Bang trưởng có quyền lực khá lớn, tương
ñương với người cầm ñầu một tổ chức hành chính trong cơ cấu xã hội sở tại [6]. Các
nghĩa ñịa ở Quảng Ngãi, trường học ở các hội quán người Hoa Quảng Ngãi, Phú Yên và
Bình ðịnh là những dẫn dụ tiêu biểu cho tính ñộc lập, tự trị rất cao của tổ chức Bang
này.
Bang không chỉ là tổ chức hành chính, thương mại mà còn có các cơ sở giáo dục,
tín ngưỡng riêng. Bang trưởng không chỉ là người ñại diện cho Bang mình về phương
diện nhà nước, cộng ñồng dân tộc, tín ngưỡng của hàng Bang mà còn là người có năng
lực quản lý kinh tế giỏi. Bang trưởng do các viên bầu ra lo việc ký kết các văn bản kinh
doanh của thương quán, quan hệ với nhà nước Việt Nam; có một hoặc hai Bang phó vừa
là người thông ngôn, người giao dịch, nắm các nguồn hàng, tiếp thị trong và ngoài nước,
phụ trách về tài chính và thuế khóa. Về hoạt ñộng thương mại, hội quán còn là nơi nhận
chuyển hàng hóa từ các thương thuyền chở ñến cảng thị rồi chuyển ñến các cửa hàng;
nơi tập trung hàng hóa trong nước ñợi có thuyền xuất khẩu ra nước ngoài, trực tiếp bán
hàng hóa hoặc cử người chuyển hàng hóa ra nước ngoài [16]. Do ñó hội quán nào cũng
có kho hàng rất lớn ñể chứa hàng và có nhiều mối quan hệ với nhiều ñịa ñiểm mua bán
hàng hóa ở trong nước, liên hệ chặt chẽ với các thị trường nội ñịa ở Trung Quốc, ñặc
biệt nơi cùng nguyên quán của các Bang.
Sở dĩ thế kỷ XIX tổ chức Bang phát triển mạnh mẽ và tổ chức chặt chẽ hơn
Minh Hương xã trước ñó là vì luồng di cư của người Hoa vào thời gian này càng ngày
càng lớn và nhu cầu cố kết cộng ñồng cao hơn. Các hội quán ra ñời vừa mang tính chất
kinh tế vừa mang tính chất tín ngưỡng xã hội. Nó là nơi thờ tự tổ tiên, thờ những vị thần.
Nó ñược xem là ngôi nhà chung ñể hội họp bàn bạc các công việc quan trọng của cộng
ñồng.
4. Kết luận
4.1. Về thời ñiểm di cư, nhìn chung, cư dân người Hoa ñến Nam Trung Bộ muộn
hơn so với vùng Bắc Trung Bộ và rất khó xác ñịnh một cách chính xác thời ñiểm họ
nhập cư. Trong ñó, có thể ñoán ñịnh người Hoa ñịnh cư ở Bình ðịnh sớm hơn (ñầu thế
kỷ XVII) so với Quảng Ngãi (cuối thế kỷ XVII) và Phú Yên (vào thế kỷ XVIII).
4.2. Về nguyên nhân di cư, người Hoa ñến ñịnh cư ở vùng Nam Trung Bộ chủ
41
yếu bắt nguồn từ lý do kinh tế; họ ñi tìm kế sinh nhai ở sau những biến ñộng chính trị
lớn ở Trung Quốc. Về ñặc ñiểm di cư, dựa trên ñiều kiện thuận lợi về cửa cảng nhiều
của vùng ven biển Nam Trung Bộ, người Hoa tụ cư theo từng nhóm, từng gia ñình lẻ tẻ
so với việc di cư mang tính tập ñoàn như các vùng khác. Lúc ñầu, người Hoa có thể qui
tụ ở một vài ñiểm thuận lợi cho sinh kế của họ nhưng sau ñó, họ dần dần lan tỏa ra các
thị tứ, thị trấn khắp các tỉnh.
4.3. Về tổ chức Minh Hương, có thể nhận thấy rằng ở Quảng Ngãi và Bình ðịnh
có hai loại tổ chức Minh Hương là Minh Hương Cựu xã và Minh Hương tân thuộc. Tuy
có xã hiệu nhưng không có ñịa giới rõ ràng, họ phân tán thành từng nhóm cư trú xen lẫn
với người Việt. Tổ chức Minh Hương xã chủ yếu phát triển trước thế kỷ XIX. Từ thế kỷ
XIX, Minh Hương xã bị Việt hoá nhanh chóng, nhất là ở tỉnh Bình ðịnh; thay vào ñó,
bởi tổ chức Bang của người Hoa mới nhập cư với sự tổ chức chặt chẽ hơn.
4.4. Về tổ chức Bang, ở Nam Trung Bộ, người Hoa chủ yếu có 4 bang là Phúc
Kiến (ñông nhất), Triều Châu, Quảng ðông và Hải Nam, không có bang Hẹ (hay Gia
Ứng) như ở Nam Bộ hay Hội An. Dấu tích của các bang chính là các hội quán còn lại
khá nguyên vẹn. Ở 3 tỉnh khảo sát, ngoài hội quán riêng, luôn có hội quán chung cho cả
các Bang. “Ngũ bang hội quán” ở Quy Nhơn, ở Thu Xà, “hội quán Quảng Phúc Triều” ở
Tuy Hòa. Hiện nay, tổ chức Bang ñã ñược bãi bỏ, song trên thực tế hình thức tổ chức
cộng ñồng này vẫn tồn tại trong tâm thức của mọi người Hoa trong Bang, và hiện hữu
qua hình ảnh các hội quán của các Bang.
4.5. Người Hoa ở phía Nam Trung Hoa ñã lìa bỏ quê hương, ñịnh cư và hòa
nhập vào cộng ñồng các dân tộc Việt Nam và ở mỗi vùng miền nhập cư có những sắc
thái riêng. Bằng kinh nghiệm và bản lĩnh trong kinh doanh và sản xuất các ngành nghề
thủ công, dịch vụ, người Hoa ñã có những ñóng góp lớn lao vào quá trình ñô thị hóa
diễn ra nhanh chóng ở vùng Nam Trung Bộ. Dấu ấn về văn hóa của họ trong bản sắc
văn hóa của các ñịa phương là rất lớn. ðó là những nguồn lực quí giá trong di sản văn
hóa của những người ñi trước ñể lại cho chúng ta. ðể có thể phát huy các giá trị di sản
văn hóa vật chất và tinh thần của người Hoa cần có sự nghiên cứu công phu, nghiêm túc
hơn về vai trò kinh tế và các di sản văn hóa quí giá của người Hoa ñể lại trên mảnh ñất
Nam Trung Bộ nói riêng và cả nước nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ban công tác người Hoa thị xã Tuy Hòa, Người Hoa Phú Yên, UBMTTQVN thị xã Tuy
Hòa, Tuy Hòa, 2001.
[2]. Phan ðại Doãn, Nguyễn Hồng Quân, Thị tứ - hiện tượng ñô thị hóa (qua tư liệu tỉnh
Bình ðịnh), Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2, (1992), 15 - 26.
42
[3]. Nguyễn Văn ðăng, Người Hoa ở miền Trung - lịch sử di dân, dấu ấn văn hóa và những
vấn ñề ñặt ra, Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, Sở Khoa học Công nghệ và Môi
trường Thừa Thiên Huế, số 3 (51), (2005), 11 - 16.
[4]. Trần ðộ, Người Hoa ở Việt Nam trong một số tác phẩm của học giả Trung Quốc (xuất
bản gần ñây), Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4, (1994), 90 - 94.
[5]. Lê Quý ðôn, Phủ biên tạp lục, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977.
[6]. Châu Hải, Các nhóm cộng ñồng người Hoa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1992.
[7]. Quách Thế Hải, Minh Hương xã, làng Tàu trên ñất Việt, Kỷ yếu Tịnh Nương ðường,
(2000), 94 - 108.
[8]. Nguyễn Thừa Hỷ, ðỗ Bang, Nguyễn Văn ðăng, ðô thị Việt Nam dưới thời Nguyễn,
Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1999.
[9]. ðoàn Ngọc Khôi, Vai trò của thương cảng cổ Thu Xà trong phát triển kinh tế nông
thôn Quảng Ngãi, ðặc san Tư nghĩa 35 năm xây dựng và phát triển, (2010), 43 - 45.
[10]. Trần Tử Minh, Người Hoa 55 năm ñấu tranh cách mạng và xây dựng tỉnh Phú Yên,
UBMTTQVN tỉnh Phú Yên, Tuy Hòa, 1999.
[11]. Nguyễn Xuân Nhân, Sưu tầm và nghiên cứu về cảng thị Nước Mặn thuở phồn vinh,
Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học, Hội văn học nghệ thuật Bình ðịnh, Qui Nhơn,
2002.
[12]. Quốc sử quán triều Nguyễn, ðại Nam nhất thống chí, Bản dịch của Viện Sử học, Nxb
Thuận Hóa, Huế, tập 2, 1992.
[13]. Quốc sử quán triều Nguyễn, ðại Nam nhất thống chí, tỉnh Quảng Ngãi, Tu Trai
Nguyễn Tạo dịch, Bộ Quốc gia Giáo dục xb, Sài Gòn, 1964.
[14]. Nguyễn Văn ðăng, Người Hoa ở Thừa Thiên Huế - lịch sử di dân và tổ chức sinh
hoạt cộng ñồng, Thông tin Khoa học và Công nghệ, Sở Khoa học Công nghệ và Môi
trường Thừa Thiên Huế, số 4, (1995).
[15]. ðinh Bá Hòa, Di tích lịch sử chùa Bà, ðặc san Bảo tàng tỉnh Bình ðịnh, (2009), trang
6.
[16]. Nguyễn Văn ðăng, Tìm hiểu một số tụ ñiểm kinh tế - xã hội người Hoa ở miền Trung
thế kỷ XIX, Báo cáo tổng kết ñề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, trường ðại học
Khoa học, ðại học Huế, (2007), trang 27.
43
SOME COMMENTS ON CHINESE COMMUNITY ORGANISATIONS
IN SOUTH CENTRAL VIETNAM (QUANG NGAI, BINH DINH, PHU YEN)
Nguyen Van Dang
College of Sciences, Hue Univesity
SUMMARY
Due to typical traits of the migration process of communite organizations, of economic
and cultural activities in South Central area compared to other regions (North Central and
Southern Vietnam), the study of Chinese people in South Central Vietnam has not reached the
expectation.
Based on the studies carried out by previous researchers, especially local researchers in
Quang Ngai, Binh Dinh, Phu Yen, and our own studies, we would like to have some general
comments about the Chinese community organization in the new land, and the intergration into
the Vietnamese community before 1945. We hope that these comments will contribute to the
orientation of doing research and developing the economic strength and identity of Chinese
people in future.