Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
59
đề tàI gia đình trong văn học việt nam sau 1975
Nguyễn Công Thanh
(a)
Tóm tắt. Từ việc phân tích một số tác phẩm văn học tiêu biểu viết về đề tài gia
đình trong văn học Việt Nam sau 1975, bài báo góp phần khẳng định đề tài gia đình
là một trong những đề tài lớn đang đợc các nhà văn quan tâm khai thác và gặt hái
nhiều thành công.
1. Đề tài gia đình là một đề tài lớn
trong văn học Việt Nam hiện đại. Từ
những năm ba mơi của thế kỷ XX, các
nhà văn Tự lực văn đoàn đã khai thác
rất thành công đề tài này. Những tác
phẩm hay nhất, có nhiều đóng góp
nhất cho nền văn học nớc nhà của Tự
lực văn đoàn là những tác phẩm đấu
tranh giải phóng cá nhân, đấu tranh
cho tự do hôn nhân, cho quyền sống
của ngời phụ nữ chống lại sự ràng
buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến
trong đại gia đình phong kiến.
Sau Cách mạng tháng Tám, đất
nớc ta phải trải qua 30 năm chiến
tranh giải phóng dân tộc. Lúc này vận
mệnh đất nớc đợc đặt lên hàng đầu.
Nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt
Nam (trong đó có văn học nghệ thuật)
là phục vụ công cuộc kháng chiến kiến
quốc, cổ vũ chiến đấu. Các nhà văn trở
thành ngời chiến sĩ, chuốt nhọn vũ khí
văn chơng để phục vụ cho cách mạng.
Họ không ngần ngại làm anh tuyên
truyền viên nhãi nhép, hoà mình vào
cuộc sống công- nông-binh, ca ngợi nhân
dân, ca ngợi anh bộ đội, ca ngợi những
chiến công vang dội của dân tộc Đề tài
hôn nhân- gia đình không thích hợp
trong thời chiến nên đợc gác lại. Vì
vậy, những vấn đề tình yêu - hôn nhân -
gia đình dờng nh không đợc đề cập
nh một mảng sáng tác lớn trong văn
học cách mạng Việt Nam 1945 - 1975.
Sau chiến thắng 30/4/1975, đất
nớc ta hoàn toàn độc lập, thống nhất.
Lịch sử sang trang nhng văn học vẫn
trợt theo quán tính một thời gian nữa.
Đề tài chiến tranh cách mạng vẫn là đề
tài a thích của văn nghệ sĩ. Cảm hứng
ca ngợi vẫn là cảm hứng chủ đạo của
phần lớn tác phẩm ra đời trớc 1980.
Nhà văn say sa viết, say sa ca ngợi
chủ nghĩa anh hùng cách mạng nhng
độc giả đột nhiên lạnh nhạt, thờ ơ với
văn học. Ngời đọc mới hôm qua còn
mặn mà thế bỗng dng bây giờ quay
lng lại với anh. Họ không thèm đọc
anh nữa. Sách anh viết ra, hăm hở dày
cộp nằm mốc trên quầy. Ngời ta bỏ
anh. Ngời ta đi đọc sách Tây và đọc
Nguyễn Du [12, tr. 9].
Đến thập kỷ 80, đặc biệt sau Đại
hội Đảng lần thứ VI (1986), không khí
đổi mới - dân chủ tác động mạnh mẽ
đến đời sống văn học nghệ thuật. Văn
nghệ sĩ đợc cởi trói tự do sáng tác.
Họ có nhiều trăn trở về trách nhiệm của
ngời cầm bút trong sự nghiệp đổi mới
nền văn học nớc nhà. Khuynh hớng
sử thi, cảm hứng lãng mạn trong văn
học 1945-1975 đợc thay thế bằng cảm
hứng đạo đức - thế sự. Con ngời "sử
thi trong văn học trớc 1975 đợc thay
thế bằng con ngời "nếm trải. Vấn đề
.
Nhận bài ngày 21/11/2006. Sửa chữa xong 23/4/2007.
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
60
đời t, bản thể, tự do luyến ái, đời sống
tình dục đợc đề cao. Đề tài, chủ đề
không còn bó hẹp, thiên về khai thác
các vấn đề liên quan đến những nhiệm
vụ chính trị trớc mắt mà đợc mở rộng
từ đề tài gia đình, thân phận tình yêu,
số phận con ngời đến chiến tranh cách
mạng, sản xuất xây dựng Các nhà văn
không né tránh, ngại ngùng khi khai
thác các mặt trái, góc khuất, phần chìm
của hiện thực cuộc sống.
2. Đề tài gia đình có phần bị chìm
lấp sau Cách mạng tháng Tám đợc
khơi nguồn trở lại, tạo thành dòng chảy
chính và thu đợc những thành tựu
đáng kể. Có thể nói cha bao giờ đề tài
gia đình lại giành đợc sự quan tâm của
đông đảo giới cầm bút nh hiện nay. Từ
các thế hệ nhà văn đã thành danh trong
văn học cách mạng Việt Nam trớc
1975 đến các thế hệ cầm bút trởng
thành sau 1975, thậm chí có những
ngời còn rất trẻ, tuổi mới ngoài hai
mơi nh Nguyễn Ngọc T, Đỗ Hoàng
Diệu đều có tác phẩm viết về đề tài
gia đình. Mặt khác, đề tài gia đình
không chỉ xuất hiện trong tiểu thuyết,
truyện ngắn mà còn xuất hiện trong cả
trong tản văn (Chẳng hạn: Tập tản văn
Nhân chuyện chị Thỏ Bông của Thảo
Hảo, đã mợn hình tợng chị Thỏ Bông
để nói chuyện gia đình Việt Nam hiện
đại). Văn học thời kỳ này xuất hiện với
mật độ dày đặc tác phẩm viết về đề tài
gia đình hoặc có liên quan đến vấn đề
gia đình nh Mùa lá rụng trong vờn,
Côi cút giữa cảnh đời, Trung du, chiều
ma buồn, Trái chín mùa thu, Mẹ già,
Mẹ và con, Mất điện, Kiểm, chú bé, con
ngời, Một chốn nơng thân, Heo may
gió lộng, Bồ nông ở biển, Trăng soi sân
nhỏ, Anh thợ chữa khoá, Chọn chồng,
Anh cả tôi, ngời sung sớng, Nợ đời,
Suối mơ, Gái có con, Phép lạ thờng
ngày, Đất mầu, Nhan sắc đàn bà, Cỏ
dại (Ma Văn Kháng), Cha và con và ,
Một cõi nhân gian bé tí (Nguyễn Khải),
Thời xa vắng, Hai nhà, Sóng ở đáy sông
(Lê Lựu), Bến không chồng (Dơng
Hớng), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo
Ninh), Mảnh đất lắm ngời nhiều ma
(Nguyễn Khắc Trờng), Tớng về hu,
Không có vua, Tâm hồn mẹ (Nguyễn
Huy Thiệp) Phố, Ăn mày dĩ vãng (Chu
Lai), Tiễn biệt những ngày buồn (Trung
Trung Đỉnh), Một nửa cuộc đời, Mi-nu
xinh đẹp, Nớc mắt đàn ông, Hậu thiên
đờng (Nguyễn Thị Thu Huệ), Hồn
trinh nữ (Võ Thị Hảo), Bớc qua lời
nguyền, Lão khổ, Thiên thần sám hối
(Tạ Duy Anh), Gia đình bé mọn (Dạ
Ngân), Cánh đồng bất tận (Nguyễn
Ngọc T), Bóng đè, Dòng sông hủi, Vu
quy, Bốn ngời đàn bà và một đám tang
(Đỗ Hoàng Diệu), Cõi ngời rung
chuông tận thế (Hồ Anh Thái), Dòng
sông mía (Đào Thắng) Trong đó có
nhiều tác phẩm xuất sắc, đạt các giải
thởng cao của Hội Nhà văn và để lại
nhiều d âm trong lòng độc giả nh
Mùa lá rụng trong vờn, Thời xa vắng,
Bến không chồng, Mảnh đất lắm ngời
nhiều ma, Nỗi buồn chiến tranh, Thiên
thần sám hối, Gia đình bé mọn, Cánh
đồng bất tận.
3. Các tác phẩm viết về đề tài gia
đình trong văn học Việt Nam sau 1975
đã đi sâu khai thác các mối quan hệ
phức tạp, đa chiều của gia đình Việt
Nam trong thời mở cửa. Nhà văn tập
trung phản ánh cuộc sống cá nhân
trong mối quan hệ với gia đình và xã
hội. Vấn đề cá tính đợc tôn trọng, đợc
đề cao. Nếu nh văn học cách mạng
1945 - 1975 thờng đặt lợi ích quốc gia,
dân tộc, cộng đồng lên trên lợi ích cá
nhân thì các sáng tác về đề tài gia đình
sau 1975 lại có xu hớng nghiêng về thể
hiện vai trò của văn học đối với cá nhân
- gia đình.
Một trong những vấn đề đợc khá
nhiều nhà văn quan tâm là gia đình
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
61
Việt Nam trớc thách thức của nền
kinh tế thị trờng. Liệu quan niệm
một túp lều tranh hai trái tim vàng
một thời đợc coi là lý tởng có còn
đứng vững trớc lối sống thực dụng,
chạy theo đồng tiền, coi trọng vật chất
đang từng ngày, từng giờ luồn lách
khắp hang cùng ngõ hẽm của xã hội
Việt Nam?
Trong Tiễn biệt những ngày buồn
vợ chồng Xoay - Sơng nhiều năm chỉ
sống bằng một sổ gạo, một suất lơng
thế mà êm ấm. Nhng khi Sơng tìm
đợc việc làm tốt, thu nhập cao, đời
sống vật chất ngày một cải thiện thì gia
đình họ tan vỡ. Sơng thay đổi từ cách
ăn mặc, nói năng, cử chỉ và cuối cùng từ
giã căn phòng tập thể, tiễn biệt ngời
chồng thừa tình yêu, nhân hậu nhng
thiếu tiền tài, của cải để tìm cuộc sống
mới. Câu nói cuối cùng của Sơng với
các bạn Xoay: Em không thể chờ anh
Xoay đợc. Bố em cũng không thể chờ
chàng rể đem thuốc tốt bụng về chữa
bệnh ( ). Bây giờ thì em tự quyết định
lấy cuộc sống của mình, hạnh phúc của
mình, đã khẳng định quan niệm về
hạnh phúc của cô.
Cùng cảnh ngộ nh Xoay nhng
Nam trong Phố của Chu Lai còn đắng
cay, xót xa hơn nhiều. Tình yêu của họ
đợc thử thách nơi hòn tên mũi đạn và
ngàn ngày đằng đẵng xa nhau. Hạnh
phúc tởng nh ở trong tầm tay khi
Thảo nguyên vẹn trở về, tiền bạc dồi
dào, nhà cao cửa rộng, đời sống sung
túc. Vậy mà, sóng gió lại xuất hiện.
Cha đầy năm sau, bi kịch đã giáng
xuống gia đình họ. Chị bỏ mạng nơi
biển Sầm Sơn một ngày dông gió trong
chuyến píc níc với tình nhân. Anh
điên loạn, phẫn uất khi nhận ra mình
bị phản bội. Còn cháu Niên Thảo quặn
nỗi đau mất mẹ và hứng chịu những
cơn thịnh nộ của bố.
Do đâu mà hạnh phúc gia đình tan
vỡ? Nhiều ngời đã nói đến lối sống Âu
- Mỹ, ảo vọng giàu sang, những dục
vọng thấp hèn đã tiêm nhiễm vào con
ngời Thảo. Tác giả mợn lời nhân vật
trong truyện cho rằng Thảo sa ngã vì
nín nhịn bên đó để về bên này chị hụt
hơi và chị giữ gìn đợc thể xác nhng
linh hồn chị đã bị nhiễm độc rồi. Nhà
văn không những nhiều lần nhấn mạnh
hành vi bạo liệt của tay Việt kiều luôn
là nỗi ám ảnh trong con ngời Thảo mà
còn trực tiếp bộc lộ quan niệm của
mình: Thế gian điên đảo đang tràn lan
những căn bệnh thời vi tính, những căn
bệnh vô thức của thế kỷ bùng nổ tình
dục. Ngời bị hiếp dâm ám ảnh đứa
hiếp mình, kẻ bị bắt cóc đâm ra phải
lòng kẻ bắt cóc nó .
Quan niệm trên, mang nặng tính
chủ quan, thiếu sức thuyết phục. Nếu
phân tích thấu đáo khó chấp nhận.
Theo chúng tôi, gia đình họ tan vỡ
không chỉ vì Thảo bị nhiễm độc bởi lối
sống Âu hoá mà một phần do Nam
không bắt kịp với cuộc sống mới thời mở
cửa và do họ cha thật sự hiểu nhau
trớc khi lấy nhau. Thảo đến với Nam
chủ yếu vì tò mò, vì tự ái. Sau khi lấy
nhau, mọi tâm lực của họ dồn vào việc
kiếm ăn từng bữa toát mồ hồi của thời
kỳ đất nớc cực kỳ khó khăn sau chiến
tranh. Ba năm sang châu Âu, tiếp xúc
với cuộc sống phơng Tây, tầm mắt
đợc mở rộng, quan niệm về thẩm mỹ,
về hạnh phúc, về giá trị cuộc sống ở chị
có nhiều đổi thay. Trong lúc, Nam vẫn
kh kh giữ nếp xa, kém thích ứng với
cuộc sống mới thì Thảo lại vui thích
cuộc sống hiện tại. Sống với một con
ngời nh thế, Thảo càng ngày càng
cảm thấy buồn tẻ, nhàm chán. Vì thế,
khi Hai Hùng xuất hiện chị nhận ra
đây là con ngời trong mộng của mình.
Chị ngã gục trớc tình yêu của Hai
Hùng là một hệ quả tất yếu.
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
62
Những tác phẩm viết về đề tài gia
đình hoặc có liên quan đến vấn đề gia
đình của Lê Lựu thờng kết thúc bi
kịch. Sự đổ vỡ đó chủ yếu do sự cách
biệt về quan niệm sống, về cách ứng xử,
các mối quan hệ trong giao tiếp và đặc
biệt hôn nhân không xuất phát từ tình
yêu giữa ngời vợ và ngời chồng. Nhân
vật nam trong các tác phẩm của ông
thờng là những ngời xuất thân từ
nông thôn. Dù trở thành anh hùng hay
trí thức thì bản chất nông dân vẫn ăn
sâu trong con ngời họ. Ngợc lại, nhân
vật nữ thờng là những trí thức thành
thị xinh đẹp, sành điệu và lõi đời. Do
đó, các chàng trí thức tỉnh lẻ ngu ngơ bị
các cô gái lọc lõi dắt mũi, dẫn dụ vào
những cạm bẫy ái tình khi họ đang cần
một ngời chồng cho chính danh cái bào
thai đang lớn dần trong bụng. Sài trong
Thời xa vắng; Tâm, ông Địa trong Hai
nhà là những nạn nhân chuyên làm
nhiệm vụ tráng men cho loại đàn bà
đó.
Dới góc độ hôn nhân - gia đình,
trong Thời xa vắng, vấn đề tình yêu và
hạnh phúc gia đình luôn là nỗi trăn trở,
day dứt khôn nguôi. Sài hai lần lấy vợ
đều rơi vào bi kịch. Cuộc đời Giang
Minh Sài là một chuỗi ngày đắng cay,
chua xót. Sau bao lần đổ vỡ đớn đau
anh đã ngậm ngùi tự đánh giá về cuộc
đời mình: Nửa đời ngời phải yêu cái
ngời khác yêu, nửa còn lại đi yêu cái
mình không có.
Lê Lựu đã đa ra cách biện giải
tơng đối hợp lý về bi kịch của cuộc đời
Sài. Sài vừa là nạn nhân của hoàn cảnh
nhng đồng thời anh cũng là thủ phạm
gây nên bi kịch cuộc đời mình. Anh phải
im lặng chịu đựng theo ý mọi ngời, để
đợc coi là ngời tốt, gơng mẫu, nhng
mấy ai biết đợc Sài đang tự đánh mất
bản ngã, không dám khẳng định mình,
đang gồng lên đẽo gọt mình cho phù
hợp với chuẩn mực của gia đình và xã
hội.
Nh vậy, bi kịch cuộc đời Sài không
chỉ xuất phát từ sự áp đặt của gia đình,
xã hội, từ sự ích kỷ, dối trá của con
ngời mà còn do tính yếu đuối, nhu
nhợc, thiếu bản lĩnh của anh ta. Chính
Sài đã thú nhận: Giá ngày ấy em cứ
sống với tình cảm của chính mình,
mình có thế nào cứ sống nh thế, không
sợ ai, không chiều theo ý ai, sống hộ ý
định của ngời khác, cốt cho đẹp mặt
mọi ngời chứ không phải cho hạnh
phúc của mình.
Trong Hai nhà, tính chất lăng loàn,
dâm đãng của ngời vợ đợc Lê Lựu
đẩy lên một nấc thang mới. Cả Linh
Anh và bà Mỹ Nhân đều là những con
quỷ dâm dục. Họ lấy chồng để hợp thức
hoá cái của nợ với tình nhân trong
bụng. Sau khi có chồng họ vẫn ngoại
tình nh cơm bữa. Kẻ thì lén lút ngủ
với giai trong giờ làm việc cơ quan, kẻ
thì công khai hành lạc ngoài công viên
giữa thanh thiên bạch nhật. Còn những
ông chồng là những kẻ nhu nhợc yếu
đuối, thiếu bản lĩnh. Họ tận tuỵ phục
vụ vợ con nhng lại bị vợ coi thờng.
Thỉnh thoảng mới đợc ban thởng,
dù chỉ là cơm thừa canh cặn nh kiểu
bố thí cho kẻ ăn mày mà háo hức nh
một đứa trẻ đợc mẹ cho quà. Gia đình
họ chỉ là sự gá buộc, chỉ chính danh
trên giấy tờ còn thực chất trong nhà là
quan hệ chủ - tớ.
Các nhân vật nữ trong Thời xa
vắng, Hai nhà là những con ngời hai
mặt. Bề ngoài là những ngời duyên
dáng, lịch thiệp, tế nhị, mẫu mực, hết
lòng yêu chồng, thơng con. Bên trong
lại chứa đựng bản chất ích kỷ, giả dối,
lăng loàn. Tuy nhiên, có những khái
quát về tính lăng loàn, dâm đãng của
phụ nữ ít nhiều gây phản cảm cho
ngời đọc, nhất là độc giả nữ. Chẳng
hạn: Tâm nhận ra một điều đơn giản
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
63
nhng mang tính qui luật là: Khi ngời
đàn bà gặp ai dù quen thân hay xa lạ
mà mở mồm ra là bêu riếu, than vãn về
sự xấu xa, lỗi lầm và những thói h tật
xấu của chồng thì một trăm ngời nh
thế không sót một ai là không ngoại
tình, không bồ bịch lang chạ, không chỉ
với một vài ngời đàn ông mà có đến
hàng chục ngời [10, tr. 34 - 35]; Bà
ấy tích trữ nhân tình nh chị em mình
trữ cá khô phòng bão lụt ấy. Nhân tình
với cả bố nuôi 70 tuổi, với cả em nuôi
kém bà ấy hai chục tuổi. Thằng nào có
tiền, có quyền, có sức làm tình nh trâu
chọi là ngả ra cân tất [10, tr. 43].
Ra đời vào những năm cuối cùng
của thập kỷ 80, Bến không chồng của
Dơng Hớng, có cách nhìn mới về
chiến tranh, về hiện thực cuộc sống, về
tình yêu và hôn nhân - gia đình. Bến
không chồng giúp ngời đọc thấy đợc
mặt trái của cuộc chiến tranh. Tác
phẩm không nói nhiều về chiến trờng,
về hy sinh mất mát của ngời lính mà
chủ yếu nói về nỗi đau của những ngời
mẹ, ngời vợ, ngời gái nhỏ hậu
phơng. Chồng hy sinh, họ trở thành
những goá phụ cực nhọc nuôi con, đêm
đêm tấm tức khóc cho số phận đơn côi.
Chồng biền biệt ngoài mặt trận họ thấp
thõm chờ mong trong vô vọng. Họ giữ
trọn lời thề với ngời đi xa để đến lúc
tuổi đã xế tà cũng là lúc nhận đợc tin
anh không bao giờ về nữa. Và biết bao
cô gái trẻ, khát khao yêu đơng, khát
khao hạnh phúc nhng tìm đâu ra
ngời đàn ông cho riêng mình. Họ hoặc
phải chịu cảnh chết dần theo năm
tháng hoặc phải lấy anh què anh thọt
hay làm lẽ một ông lão nào đang khát
con trai.
Đọc Bến không chồng, chúng ta
không cầm đợc nớc mắt về nỗi đau
của con ngời, về thân phận của ngời
phụ nữ. Hạnh là một thiếu nữ đáng
yêu, đáng quý vô ngần. Hạnh dám
chống lại lời nguyền để yêu thơng
Nghĩa. Hạnh đã hy sinh tuổi xuân chờ
chồng, nuôi mẹ. Nhng Hạnh cũng sẵn
sàng rời xa chồng để anh đợc hạnh
phúc và mẹ anh có con nối dõi. Hạnh
dám làm tất cả để khẳng định mình là
ngời phụ nữ có đủ khả năng làm vợ,
làm mẹ. Hạnh là một cô gái nhân hậu,
đoan trang nhng cũng rất cơng
quyết, táo bạo. Chính nhờ Hạnh mà tộc
họ Nguyễn bỏ đợc lời nguyền xa. Nhờ
có Hạnh mà cuộc đời Nghĩa thêm đẹp,
thêm cao cả. Chính có Hạnh mà cuốn
sách có lúc tởng nh sắp rơi vào u ám
bỗng sáng bừng lên. Đó là ánh sáng của
tình ngời, tình đời, tình yêu và lẽ sống.
Bến không chồng có tố cáo, có phê
phán, có buồn đau nhng nổi bật nhất
vẫn là ngợi ca lòng nhân ái, ngợi ca
phẩm chất cao cả của con ngời, nhất là
của những ngời mẹ, ngời vợ, ngời
phụ nữ Việt Nam trong những năm
trớc và sau chiến tranh.
Thời mở cửa, bộ mặt đất nớc có
nhiều đổi thay nhng mặt trái của nền
kinh tế thị trờng cũng có những tác
động tiêu cực đến truyền thống đạo đức
xã hội. Vì thế, những cô gái nhẹ dạ, cả
tin thờng dễ rơi vào bi kịch. Trong
Thiên thần sám hối, Tạ Duy Anh đã
phản ánh tình trạng lừa tình xảy ra
khá phổ biến hiện nay. Một khi cô gái
ểnh bụng những thằng chó họ Sở
tìm cách tẩu thoát. Còn những cô gái lỡ
làng dở khóc dở cời chỉ còn cách tống
tháo cái của nợ. Oái oăm thay khi dấu
vết tởng nh đợc xoá sạch thì nghiệp
chớng lại đeo đẳng cuộc đời họ. Họ
luôn bị ám ảnh, dằn vặt về tội lỗi của
mình cho nên bao lần đơm hoa nhng
không một lần kết trái.
Nhiều tác phẩm văn học Việt Nam
sau 1975 đã diễn tả vấn đề tình yêu -
tình dục với tinh thần lành mạnh và
dân chủ. Những ngời đàn bà trong
truyện Đỗ Hoàng Diệu thờng là những
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
64
ngời đàn bà lãng mạn, yếu ớt và vô
cùng nhạy cảm. Họ phải sống trong
cảnh cô đơn, thiếu thốn về tình cảm khi
ngời chồng cứ biền biệt xa nhà. Họ
sẵn sàng bỏ nhà bỏ cửa, bỏ chồng, bỏ
con chạy theo tiếng gọi của tình yêu.
Trong ngời họ lúc này chỉ có khát
vọng đợc sống cho chính mình. Hoặc
họ phải sống trong không khí ngột ngạt,
bức bối, luôn bị đè nén, áp chế về tinh
thần. Ngời bàn bà trẻ trong Dòng sông
hủi lấy phải ngời chồng làm nghề
kiểm tra trí nhớ của con ngời. Mỗi
khi đi xa về là anh ta xô ngã chị xuống
thảm, lột truồng ra chăm chú soi mói,
kiểm tra tỉ mẩn từng sợi lông ở chỗ kín
trên cơ thể chị để ngửi tìm dấu vết một
tội phạm. Không thể chịu đựng đợc
cuộc sống tù đày chị đành phải cày bừa
trên cánh đồng luyến ái với một ngời
đàn ông khác và cuối cùng trốn chạy
lên Tây Nguyên sống với ngời đàn ông
dị tật trong làng hủi.
Khác với Đỗ Hoàng Diệu thiên viết
về cuộc sống gia đình thành thị, nhà
văn đất Mũi Nguyễn Ngọc T đi sâu
vào cuộc sống của những ngời dân
sông nớc nơi cùng trời cuối đất. Trong
Cánh đồng bất tận nhà văn kể về cuộc
đời nổi nênh của một gia đình quanh
năm suốt tháng lênh đênh trên những
cánh đồng bất tận, sống cuộc đời du
mục với đàn vịt thả đồng.
Cuộc đời sông nớc đã giúp ngời
đàn ông nhặt đợc cô gái về làm vợ
nhng cũng chính cuộc đời nghèo đói,
túng thiếu đó đã không giữ đợc ngời
đàn bà xinh đẹp có cái cời láp lánh cả
khúc sông ở lại với ông. Vì muốn khoác
những khúc vải rực rỡ lên ngời chị
đã phải bán mình cho gã thơng hồ và
rời xa chồng con mãi mãi. Chị bỏ chồng,
bỏ con dứt áo ra đi cũng chẳng phải
suy nghĩ, đắn đo, không một chút trù
trừ, chỉ rũ một cái rột sạch trơn nh
khi chị đến. Quả thật, lấy chồng, có con
đối với ngời đàn bà này chỉ quá giang
một khúc đời rồi đi chứ chẳng phải yêu
đơng, ăn đời ở kiếp. Chỉ tội ngời đàn
ông ngây thơ tin rằng: Chỉ cần mình
hết lòng yêu thơng, gánh hết sự kiếm
sống nhọc nhằn thì sẽ đợc đền đáp
xứng đáng mà không biết rằng ngời
đàn bà thời nay chỉ yêu thơng không
đủ mà còn phải có nhà cao cửa rộng, ăn
ngon mặc đẹp, cuộc sống đủ đầy, ái ân
nồng thắm Vì thế, khi mất vợ, ông
nh ngời điên dại thiêu trụi ngôi nhà,
lang thang trên những cánh đồng bất
tận để trả thù đời. Nạn nhân của ông là
hai đứa trẻ và những ngời đàn bà vô
tội. Ông hành hạ, đánh đập lũ trẻ vì
chúng là con của ngời đàn bà bội bạc
và chúng càng lớn càng giống má. Ông
trút hận lên đầu những ngời phụ nữ
nhẹ dạ, cả tin vì họ là đàn bà. Ông tính
toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu,
vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng và bỏ rơi họ
đúng lúc; ông mang họ đi một quãng
đờng, vừa đủ để ngời đó nhìn rõ chân
dung của sự phản bội, sau đó ngời đàn
bà bị hắt lên bờ. Con đờng quay về bị
bịt kín. Hành động trả thù của ông quá
nhẫn tâm, tàn ác, đúng nh lời nhận
xét của một ngời đàn bà trong truyện:
Má cng ác một, nhng ngời cha của
cng ác tới mời đó!. Dĩ nhiên, những
hành động trả thù đầy mu mô, tính
toán của ông đã phải trả giá. Không chỉ
những nơi ông đi qua, những giọt tình
đắng cay ông để lại đã sinh ra những
đứa trẻ tên Hận, tên Thù mang khuôn
mặt rắp tâm, nhàu úa, cộc cằn, cắm
cẳn nh ông; mà ông còn bị những
tên côn đồ chăn vịt đè nghiến, bắt
chứng kiến cảnh chúng thay nhau hiếp
con gái ông giữa đồng. Tởng nh hận
thù nối tiếp hận thù, nhng truyện lại
kết thúc một cách tơi sáng đầy nhân
văn. Ngời con gái trong giây phút đau
đớn, ê chề, nhục nhã đến tột cùng vẫn
nghĩ đến tơng lai cho đứa trẻ nếu nh
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
65
mình có con: Đứa bé đó, nhất định nó
sẽ đặt tên là Thơng, là Nhớ hay Dịu,
Xuyến, Hờng Đứa bé đó không cha
nhng chắc chắn đợc đến trờng, sẽ
tơi tỉnh và vui vẻ sống hết đời vì đợc
mẹ nuôi, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ
lỗi lầm của ngời lớn.
Tiểu thuyết Gia đình bé mọn của
Dạ Ngân ra đời vào đầu thế kỷ, đạt Giải
thởng Hội Nhà văn Hà Nội 2005 và
Giải thởng Hội Nhà văn Việt Nam
2006 đã khẳng định đề tài gia đình là
một đề tài lớn đang vẫy gọi các nhà
văn cày xới, thâm canh.
Gia đình bé mọn kể về số phận một
nữ sĩ có cá tính, có nhan sắc và khát
vọng yêu đơng mãnh liệt. Không thoả
mãn cuộc sống với ngời chồng tầm
thờng, đầy tham vọng quyền lực, chị
đã sẵn sàng từ bỏ gia đình ấy để đến với
ngời mình yêu xây nên gia đình bé
mọn. Tuy nhiên, hành trình tìm hạnh
phúc của Tiệp trải qua biết bao chông
gai, khổ ải. Chị phải đối mặt với những
rào cản của gia đình, dòng tộc đến búa
rìu d luận và giới chức sắc trong tỉnh.
Nhng đau đớn và day dứt hơn cả là sự
giằng xé và níu kéo của tình mẫu tử,
mặc cảm của một ngời mẹ không thể
đem lại cho các con mái nhà êm ấm
[11, tr. 298].
Viết Gia đình bé mọn Dạ Ngân
muốn khẳng định chân lý: hôn nhân
không tình yêu là hôn nhân cằn cỗi,
sớm muộn cũng tan vỡ và sức mạnh
tình yêu có thể giúp ngời phụ nữ vợt
qua mọi phong ba bão tố.
Cuộc hôn nhân lần đầu của Tiệp do
chiến tranh, chết chóc đa đẩy. Nàng bị
chiếm đoạt lúc ranh giới giữa cái chết
và sự sống đợc tính bằng tích tắc. Do
đó, vật liệu xây dựng nên gia đình họ
chẳng có chút kết dính nào ở những
phẩm chất nhân tính cơ bản [11, tr.
327]. Sau ngày cới, khi hơng vị ngọt
ngào, đắm say của tuần trăng mật đang
nồng cháy, tràn đầy, con tim nàng
không chịu rung động, nó cứ lên tiếng
rằng đây không phải là ngời đàn ông
của mình, đây là cuộc xô đẩy của chiến
tranh, của bom đạn giặc giã nớc lụt
cây sạp xuồng. Càng sống với Tuyên
nỗi đau trong Tiệp càng ngày càng tăng
lên, sự không tơng hợp giữa nàng với
Tuyên càng ngày càng lộ diện. Một con
ngời có cá tính, đam mê, khát khao
hạnh phúc nh nàng làm sao chấp
nhận ngời chồng vô tâm, vô nhân tính
vội vàng thả vợ xuống bệnh viện phụ
sản không một lời động viên, an ủi rồi
nhanh chóng phóng xe đến cơ quan
hoàn thành phận sự ngời th ký mẫn
cán? Làm sao chấp nhận ngời chồng
không đùa giỡn với con nhng lại
thích săm sắm với lũ heo? Làm sao hoà
hợp đợc với ngời chồng coi công danh
là mục đích phấn đấu và bắt vợ phải
đồng hành với mình trên con đờng
chính trị lên nữa, lên mãi? Vì thế, việc
Tiệp chia tay với Tuyên để đợc sống
với chính mình, sống với ngời mình
yêu là điều dễ hiểu. Tuy nhiên hành
trình từ giã gia đình giả tạo, khập
khểnh ấy để đến với gia đình đích thực
đầy thử thách cam go. Lái đợc con tàu
tình yêu cập bến hạnh phúc sau mời
hai năm đằng đẳng, Tiệp đã phải trả
giá khá đắt: bị dòng tộc từ bỏ, một số
bạn bè xa lánh, d luận xã hội lên án,
lơng tâm cắn rứt, tình mẫu tử luôn lên
tiếng kết án nàng là một - ngời - mẹ -
bỏ - con để đi lấy chồng. Tiệp phải sống
trong tâm trạng dằng xé giữa tình yêu
và tình mẫu tử: Khi còn trong cổng rào
với Thu Thi và Vĩnh Chuyên thì sự ray
rứt tranh đấu với nỗi thơng yêu thèm
nhớ Đính, nhng khi tàu đa nàng xa
dần, xa mãi ra thì những ý nghĩ về các
con chiếm lĩnh toàn bộ mọi thứ có tên là
sự sống trong nàng. Nhng vợt lên
trên tất cả những cái đó, tác giả cho
thấy một mẫu hình phụ nữ chủ động lèo
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
66
lái con thuyền cuộc đời mình, một phụ
nữ kiên nhẫn tới mức lì lợm để sống
thật và sống đẹp với chính nhu cầu tinh
thần của mình [11, tr. 327].
Hạnh phúc không tự đến, không
chờ sự ban phát. Hạnh phúc chỉ có đợc
trong quá trình tìm kiếm gian lao.
Cũng nh những ngời đàn bà có bản
lĩnh, có khát vọng yêu đơng mãnh liệt
khác, Tiệp đã chủ động trên con đờng
đi tìm hạnh phúc đầy chông gai của
mình. Có lúc nàng phải thổi bùng lên
ngọn lửa quyết tâm, tạo thêm sinh lực
cho ngời mình yêu. Nàng không chấp
nhận sự chần chừ, thoái lui. Vì thế, khi
nghe tin Đính có ý định hẹn nàng ở
kiếp sau, nàng lập tức báo cho chàng
biết mình đã ra khỏi nhà và yêu cầu
Đính cũng làm nh thế. Thậm chí, nàng
còn thẳng thắn nói với Đính: Nhng
sao chỉ có em hành động còn anh thì có
quyền viện lý?.
Là nhà văn nữ, lại có nhiều điểm
tơng đồng với nhân vật trong truyện,
Dạ Ngân nh hoá thân vào Tiệp thể
hiện sâu sắc, tinh tế những cảm giác,
cảm xúc rất phụ nữ khi đợc sống với
ngời mình yêu thơng. Gia đình bé
mọn có nhiều trang viết về những phút
thăng hoa của tình yêu, những cuộc
tình nồng cháy, những chuyện sâu kín ở
phòng the: Nàng trôi trên ngời Đính
nh lúc nãy Đính đã cẩn trọng với từng
xăng- ti - mét thịt da nàng. Tiệp thấy
mình bạo dạn và lão luyện, sự nhịp
nhàng của thịt da đằm thắm, ngọt
ngào. Từ thế thủ nàng đã ào sang thế
chủ, một cực khác của lần đầu, nàng
bốc cháy từ gót chân đến đỉnh đầu,
chính danh hay không chính danh, tà
dâm hay không tà dâm, chỉ thấy mình
đúng là mình trong tởng tợng, thoả
mãn một cách hài hoà, sâu sắc. Hoặc
những khát khao cháy bỏng đến cồn
cào, gào thét của đòi hỏi ái ân: Nàng
nhớ những cơn thèm sau khi rời Đính
ra, cơ thể lúc đó nh ngời đang ăn thịt
mà phải chuyển sang chay tịnh, những
cơn đói thực sự trên ngời, ở những
vùng nhạy cảm nhất trên ngời là một
thứ đói trơ trẽn, thúc bách, thờng trực
y nh đói ăn và khát uống vậy. Nhng
ngời đọc không thấy phản cảm, không
kết án Tiệp chạy theo nhục cảm xác thịt
mà càng quý, càng thơng, càng trân
trọng và ngỡng mộ nàng bởi tình dục
là một phần quan trọng của tình yêu và
nàng là ngời đã thẳng thắn công khai
những đòi hỏi chính đáng đó. Hơn thế,
Tiệp đến với Đính đâu phải là chuyện
trăng hoa của những cuộc tình trong
chốc lát để thoả mãn nhục dục mà là
vàng đá, là xây dựng hạnh phúc bền
lâu. Chính Tiệp đã nói với Đính: Em
thèm khát hạnh phúc, em không bừa
phứa, em không chấp nhận cái gì không
đi đến đâu?. Tiệp không bừa phứa!
Tiệp trọng danh dự, Tiệp thích đàng
hoàng. Nhng không phải đàng hoàng
theo kiểu giả dối tốt khoe xấu che nh
quan niệm của cô Ràng và luân lý cổ hủ
mà đàng hoàng là chân thật, rạch ròi
sòng phẳng.
Trong các nhà văn viết về đề tài gia
đình, Ma Văn Kháng là ngời đi đầu
trong việc đổi mới t duy nghệ thuật,
đổi mới cách viết và gặt hái đợc những
thành công đáng khâm phục. Những
tác phẩm hay nhất, góp phần tạo nên
phong cách nghệ thuật văn xuôi Ma
Văn Kháng chính là những tác phẩm
viết về đề tài gia đình. Các tiểu thuyết
Mùa lá rụng trong vờn, Côi cút giữa
cảnh đời cùng các truyện ngắn Trung
du, chiều ma buồn, Trái chín mùa thu,
Mẹ già, Mẹ và con, Mất điện, Kiểm, chú
bé, con ngời, Một chốn nơng thân,
Heo may gió lộng, Bồ nông ở biển,
Trăng soi sân nhỏ, Anh thợ chữa khoá,
Chọn chồng, Anh cả tôi, ngời sung
sớng, Nợ đời, Suối mơ, Gái có con,
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
67
Phép lạ thờng ngày, Đất mầu, Nhan
sắc đàn bà, Cỏ dại là những sáng tác
thuộc loại đặc sắc nhất, góp phần quan
trọng đặt Ma Văn Kháng vào đội ngũ
những cây bút đang có nhiều đóng góp
to lớn vào việc đổi mới nền văn xuôi
nghệ thuật của dân tộc [13, tr. 67].
Phần lớn những tác phẩm đạt giải
thởng Quốc gia và khu vực của Ma
Văn Kháng là những tác phẩm viết về
đề tài gia đình hoặc liên quan mật thiết
đến vấn đề gia đình nh tiểu thuyết
Mùa lá rụng trong vờn, tập truyện
Trăng soi sân nhỏ. Chính nhà văn đã
chọn Côi cút giữa cảnh đời làm tác
phẩm hay nhất trong sự nghiệp sáng
tác của mình. Ngay cả những tác phẩm
thành công viết về đề tài khác nh Đám
cới không có giấy giá thú, Ngợc dòng
nớc lũ, Thầy Khiển, Thầy của chúng
em, Tóc huyền màu bạc trắng vấn đề
gia đình vẫn đợc thể hiện khá sâu sắc.
Gia đình trở thành nơi khởi đầu, nâng
đỡ, hoặc đoạ đày, kết thúc bi kịch của
ngời trí thức.
Xét trong mối tơng quan với các
cây bút sáng tác về đề tài gia đình Việt
Nam sau 1985 nh Lê Lựu, Dơng
Hớng, Chu Lai, Nguyễn Thị Thu Huệ,
Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc T, Đỗ Hoàng
Diệu thì Ma Văn Kháng nghiễm
nhiên trở thành chủ tớng trong việc
khơi lại nguồn mạch viết về đề tài gia
đình vốn bị ngng đọng gần nửa thế kỷ
trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông
không chỉ là ngời đi tiên phong trong
đổi mới t duy nghệ thuật, đổi mới đề
tài sáng tác, nắm bắt kịp thời những
vấn đề cấp bách xã hội đặt ra đối với
ngời nghệ sĩ có lơng tâm và trách
nhiệm mà còn để lại những dấu ấn
riêng trong từng thể loại. Những tác
phẩm hay nhất của Ma Văn Kháng
không chỉ đẩy ta vào dòng đời, mạch
sống hôm nay mà nó còn gắn nối với
mạch văn truyền thống là chủ nghĩa
nhân văn và tình yêu thơng con ngời
[8, tr. 197- 198]. Vì vậy, bên cạnh phê
phán, đả phá lối sống ích kỷ, buông thả
theo những dục vọng thấp hèn, chạy
theo đồng tiền của con ngời trong nền
kinh tế thị trờng, ông còn phát hiện
đợc sức mạnh tiềm tàng trong con
ngời Việt và truyền thống văn hoá tốt
đẹp của dân tộc tạo trụ đỡ cho con ngời
và cộng đồng dân tộc. Nhà văn thờng
không kết tội nhân vật lầm lạc mà kêu
gọi cộng đồng hãy quan tâm đến cá tính
của con ngời và cuộc sống gia đình.
Tác phẩm viết về gia đình của ông
thờng kết thúc tơi sáng, lạc quan chứ
không bi thảm nh trong tác phẩm của
Lê Lựu, Chu Lai, Trung Trung Đỉnh
hoặc dằng xé, trả giá theo triết lý vay -
trả của Dạ Ngân.
4. Trong văn học Việt Nam hiện
đại, đề tài gia đình đợc các nhà văn Tự
lực văn đoàn quan tâm khai thác để
triển khai mặt trận chống lễ giáo phong
kiến. Trong văn học cách mạng Việt
Nam 1945 - 1975 đề tài này có phần bị
sao lãng. Điều đó không chỉ thể hiện ở
số lợng tác phẩm mà còn thể hiện ở
cách nhìn nhận, thể hiện vấn đề gia
đình của nhà văn. Gia đình không đợc
nhìn nhận từ các quan hệ thuộc nội bộ
gia đình, quan hệ gia đình - xã hội mà
nhìn nhận trên lập trờng giai cấp, từ
lý tởng xã hội. Sau 1975, trong hoàn
cảnh bình thờng, văn học nớc ta
chuyển từ cảm hứng sử thi hào sảng
sang cảm hứng đạo đức - thế sự. Vấn đề
cá nhân-cá thể đợc đặt lên hàng đầu.
Đề tài gia đình trở thành một đề tài lớn
trong văn học Việt Nam đơng đại, đã
và đang đợc các nhà văn trăn trở, khai
thác. Tuy nhiên, những tác phẩm lớn
vẫn đang ở phía trớc.
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007
68
Nh vậy, đề tài gia đình tuy có
những bớc thăng trầm theo tiến trình
lịch sử, nhất là trong thời kỳ vận mệnh
đất nớc đợc đặt lên hàng đầu, nhng
cuối cùng đã hoà vào các đề tài khác,
góp phần đa văn học Việt Nam đi
đúng quỹ đạo văn học nhân loại, thực
sự trở thành một ngành khoa học về con
ngời, vì con ngời.
TàI LIệU THAM khảo
[1] Tạ Duy Anh, Thiên thần sám hối, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2004.
[2] Đỗ Hoàng Diệu, Bóng đè, NXB Đà Nẵng, 2005.
[3] Trung Trung Đỉnh, Tiễn biệt những ngày buồn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2003.
[4] Dơng Hớng, Bến không chồng, NXB Hải Phòng, 2004.
[5] Ma Văn Kháng, Tuyển tập Ma Văn Kháng, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,
2003.
[6] Trần Hoàng Thiên Kim, Những cuộc tổng kiểm kê của nhà văn Ma Văn Kháng,
Tiền phong chủ nhật, Số 43.
[7] Chu Lai, Phố, NXB Hà Nội, 1993.
[8] Phong lê, Vẫn chuyện văn và ngời, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1999.
[9] Lê Lựu, Thời xa vắng, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1996.
[10] Lê Lựu, Hai nhà, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2000.
[11] Dạ Ngân, Gia đình bé mọn, NXB Phụ nữ, 2004.
[12] Nguyên Ngọc, Văn xuôi sau 1975 thử thăm dò đôi nét về qui luật phát triển, Tạp
chí văn học, số 4 (1991), 9 -13.
[13] Lã Nguyên, Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn, Tạp chí văn học,
Số 9 (1999), 63- 72.
[14] Nguyễn Ngọc T, Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, 2005.
SUMMARY
FAMILY TOPIC IN VIETNAMESE LITERATURE AFTER 1975
From analysing some typical literary works on family topic in Vietnammese
literature after 1975, the article contributes to confirming that the topic is one of the
great ones which writers are interested in writing and gain lot of successes.
(a)
Cao học 12 Lý luận văn học, Trờng Đại học Vinh.