Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học đề tài " Tác động của yếu tố quốc tế đối với sự ra đời học thuyết Monroe (1823) " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.51 KB, 10 trang )



111
TẠP CHÍ KHOA HỌC, ðại học Huế, Số 66, 2011

TÁC ðỘNG CỦA YẾU TỐ QUỐC TẾ ðỐI VỚI SỰ RA ðỜI
HỌC THUYẾT MONROE (1823)
Lê Thành Nam
Trường ðại học Sư phạm, ðại học Huế
TÓM TẮT
Bằng những tư liệu mới, bài báo trình bày những yếu tố quốc tế tác ñộng ñến sự ra ñời
học thuyết Monroe (1823). ðó là sự thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở Mỹ Latinh
dẫn ñến sự ra ñời hàng loạt các quốc gia ñộc lập ở ñầu thế kỉ XIX. Sau khi ra ñời, các quốc gia
Mỹ Latinh ñối mặt với nguy cơ xâm nhập của cường quốc Châu Âu, trước hết là Anh, Pháp và
Tây Ban Nha. Ngoài ra, Nga Hoàng cũng có ý tưởng bành trướng ở lục ñịa châu Mỹ.
Tình hình trên ñe dọa trực tiếp nền an ninh của Mỹ, ñồng thời cản trở tham vọng về
việc giành quyền lợi kinh tế tại khu vực Mỹ Latinh. Trong bối cảnh quốc tế như vậy, ngày 2-12-
1823, trong thông ñiệp Liên Bang trước Quốc Hội, Tổng thống Mỹ – James Monroe công bố
ñường lối ñối ngoại của Nhà Trắng ñối với khu vực Mỹ Latinh, bao gồm 3 nguyên tắc: Nguyên
tắc phi thực dân, nguyên tắc không can thiệp và nguyên tắc hệ thống châu Mỹ. Với ba nguyên
tắc này, nó ñánh dấu sự ra ñời của học thuyết Monroe, một học thuyết ñể lại dấu ấn sâu sắc
trong lịch sử ñối ngoại của nước Mỹ.
Có thể nói rằng, từ khi lập quốc ñến thời ñương ñại, hiếm có học thuyết nào ñể
lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử ñối ngoại của nước Mỹ như học thuyết Monroe (1823).
ðiều này dễ dàng nhận thấy, bởi học thuyết Monroe ñược xem như là nền tảng lý luận
ñầu tiên cho quá trình vươn ra thế giới của Mỹ, có ảnh hưởng ở mức ñộ khác nhau ñến
chính sách ñối ngoại của các ñời Tổng thống Mỹ ở những thế hệ sau. Khi bàn về học
thuyết Monroe, một số công trình của các tác giả Việt Nam ñã tập trung ñề cập ñến nội
dung của nó
1
, tuy nhiên về mặt cơ sở, tác ñộng của học thuyết này thì chưa ñược chú


trọng nghiên cứu. Bài viết này cung cấp thêm một số tư liệu cùng một số nhận ñịnh
nhằm góp phần làm rõ hơn tác ñộng của yếu tố quốc tế ñối với sự ra ñời của học thuyết
Monroe (1823).



1
Nội dung học thuyết Monroe ñược trình bày sơ lược trong một số công trình sau:
- Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng, Lịch sử thế giới Cận ñại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002.
- Vũ Dương Ninh, Phan Văn Ban, Nguyễn Văn Tận, Trần Thị Vinh, Lịch sử quan hệ quốc tế, tập 1, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 2005.
- Phan Ngọc Liên, ðào Tuấn Thành, Nguyễn Thị Huyền Sâm, Mai Phú Phương, Lịch sử thế giới Cận ñại,
tập 1, Nxb. ðại học Sư phạm, Hà Nội, 2008.


112

1. Với thắng lợi của cuộc Chiến tranh giành ñộc lập của 13 bang thuộc ñịa Anh ở
Bắc Mỹ vào cuối thế kỉ XVIII, một thiết chế nhà nước tư sản của “người Âu nằm ngoài
lãnh thổ châu Âu” ñầu tiên ra ñời ở Tây bán cầu, Hợp Chủng quốc châu Mỹ (The
United States of America). Sau khi lập quốc, cùng với quá trình thống nhất dân tộc, kiện
toàn bộ máy nhà nước, giai cấp tư sản Mỹ bắt ñầu tính ñến việc tìm kiếm và mở rộng thị
trường. Khu vực Mỹ Latinh gần gũi là vùng lãnh thổ mà giai cấp tư sản Mỹ hướng ñến
trước hết, ñặc biệt kể từ khi phong trào giải phóng dân tộc Mỹ Latinh bùng lên mạnh mẽ
vào ñầu thế kỷ XIX.
Mỹ Latinh là khu vực rộng lớn của lục ñịa châu Mỹ, trải dài từ Mexico ñến tận
eo biển Magellan, bao gồm cả quần ñảo Antilles với diện tích gần 21 triệu km
2
, nơi có
nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhất là các loại khoáng sản cần thiết ñể

phát triển công nghiệp. Từ cuối thế kỷ XV, ñầu thế kỷ XVI, sau các cuộc phát kiến ñịa
lý lớn, làn sóng người di cư từ Tây Ban Nha, Bồ ðào Nha, Anh, Pháp, Hà Lan, Thụy
ðiển, vượt ðại Tây Dương sang sinh cơ lập nghiệp trên vùng ñất mới này. Trong số
các nước châu Âu có mặt ở “Tân thế giới”, người Tây Ban Nha chiếm cứ phần lớn lãnh
thổ ngày nay thuộc Trung và Nam Mỹ, trừ Brazil là thuộc Bồ ðào Nha. Các nước Anh,
Pháp, Hà Lan chỉ chiếm ñược các vùng ñất nhỏ bé ven bờ ðại Tây Dương.
Người Âu tàn sát người bản ñịa – người da ñỏ, ñẩy họ lùi dần về phía Tây, ñể
chiếm ñất làm thuộc ñịa, bóc lột cư dân bản ñịa, lập ñồn ñiền trồng lúa mì, ngô, cà phê,
thuốc lá, bông, Vì thiếu nhân công, người Âu mua người da ñen từ châu Phi ñưa sang
làm nô lệ, lao ñộng sản xuất trong các ñồn ñiền. Trải qua nhiều thế hệ, những người gốc
Âu cùng người bản ñịa và người gốc Phi hình thành nên những cộng ñồng mới, xa cách
dần gốc gác quê hương của họ. Do cùng chung sống trên một lãnh thổ, yêu cầu phát
triển kinh tế và văn hóa riêng biệt; ñồng thời chịu ảnh hưởng của cuộc Chiến tranh
giành ñộc lập ở Bắc Mỹ (1775 - 1783) và Cách mạng tư sản Pháp (1789), nhất là do sự
thống trị hà khắc của chính quốc, ý thức dân tộc hình thành. Dưới tác ñộng của các yếu
tố nói trên, vào cuối thế kỷ XVIII, ñầu thế kỷ XIX, phong trào giải phóng dân tộc của
nhân dân Mỹ Latinh chống thực dân Tây Ban Nha và Bồ ðào Nha ñã diễn ra mạnh mẽ
và ñều khắp.
ðối với nhân dân Mỹ, phong trào giải phóng dân tộc Mỹ Latinh là “cuộc tái
diễn tập những kinh nghiệm của người dân Mỹ trong việc phá bỏ quyền thống trị của
thực dân châu Âu’’ [10, trang 128] và họ ñã cổ vũ nồng nhiệt cho cuộc ñấu tranh chính
nghĩa này. Tình hình này ñã làm cho giới thống trị Nhà Trắng càng “quan tâm” hơn
ñến khu vực Mỹ Latinh. Nhà Trắng muốn ñẩy nhanh hơn quá trình phi thực dân hóa ở
ñịa bàn này. Theo sử gia R. Hofstadter, “sự ra ñi của Tây Ban Nha và Bồ ðào Nha ở
Mỹ Latinh, một mặt ñảm bảo cho Mỹ thoát khỏi vướng bận vào các cuộc chiến tranh ở
châu Âu; mặt khác tạo ra một thị trường “vô chủ” giúp Mỹ có thể xâm nhập dễ dàng
hơn” [5, trang 359]. Vì vậy, ngay khi phong trào giải phóng dân tộc Mỹ Latinh mới
diễn ra, trong Thông ñiệp ñọc trước Quốc hội liên bang ngày 5-9-1811, Tổng thống



113

James Madison ñã nhấn mạnh ñến việc: “Nước Mỹ có phần trách nhiệm ñối với các
thuộc ñịa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, có mối lưu tâm ñặc biệt ñến vận mệnh của những xứ
sở này” [7, trang 30].
Trong suốt quá trình phong trào giải phóng dân tộc ở Mỹ latinh diễn ra, Nhà
Trắng ñã cử những ñại diện của mình dưới danh nghĩa “thủy thủ và thương mại” ñến
Trung và Nam Mỹ ñể nắm bắt tình hình và thiết lập quan hệ ngoại giao không chính
thức với các lãnh tụ cách mạng. Mặt khác, Nhà Trắng cũng bí mật viện trợ vũ khí, ñạn
dược, quân trang, cho nghĩa quân và mở cửa các hải cảng của mình cho các thương
thuyền có xuất xứ từ Mỹ latinh vào trao ñổi buôn bán và nhận hàng viện trợ.
Vào khoảng ñầu thế kỷ XIX, hầu hết các thuộc ñịa của Tây Ban Nha và Bồ ðào
Nha ở Mỹ Latinh ñã giành ñược ñộc lập, dẫn ñến sự ra ñời hàng loạt các nước cộng hoà,
như: Chile (1818), Colombia (1819), Mexico (1821), Peru (1821), Venezuela (1811),
hoặc nước theo chế ñộ quân chủ lập hiến như Braxin (1822). Ngay khi các quốc gia ñộc
lập mới ra ñời ở Mỹ latinh lập tức ñã ñược Nhà Trắng, ñứng ñầu là Tổng thống James
Monroe công nhận và ñặt quan hệ ngoại giao (1822). Theo sử gia Howard Cincotta, sự
công nhận này khẳng ñịnh “uy tín của Mỹ, với tư cách là quốc gia ñộc lập, thực sự ñã
hoàn toàn tách khỏi những mối ràng buộc trước kia với châu Âu” [1, trang 149]. Nó
ñánh dấu sự lớn mạnh của giai cấp tư sản Mỹ ñang khao khát muốn vươn tầm ảnh
hưởng của mình ñến Trung và Nam Mỹ.
Trong quá trình vươn tầm ảnh hưởng của mình xuống phía Nam Tây bán cầu,
nước Mỹ phải ñối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt từ phía các cường quốc châu Âu.
Trong khi Tây Ban Nha vẫn còn bị ám ảnh bởi những quyền lợi ñã mất tại Mỹ Latinh
thì Anh và Pháp lại nảy sinh tham vọng xâm chiếm và mở rộng ảnh hưởng ở khu vực
này. Cả Anh và Pháp vào thời ñiểm này ñang khẩn trương ñi tiếp nửa ñoạn ñường còn
lại của cách mạng công nghiệp, nhu cầu về nguyên liệu và thị trường càng trở nên cấp
bách. Ngoài ra, nước Nga ñứng ñầu là Sa hoàng cũng “ñể mắt” ñến lục ñịa châu Mỹ.
Rõ ràng, với việc ra ñời của hàng loạt các quốc gia ñộc lập Mỹ Latinh, ñối với Nhà
Trắng vừa là cơ hội, ñồng thời vừa là thách thức.

2. Như trên ñã trình bày, trước thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc của
nhân dân Mỹ Latinh, vương triều Madrid vẫn không chịu từ bỏ lợi ích thực dân của họ.
Với âm mưu khôi phục lại nguyên trạng như trước thế kỷ XIX, quốc vương Tây Ban
Nha dựa vào ðồng minh Thần thánh (Quadruple Alliance)
2
ñể dập tắt phong trào cách
mạng ở Mỹ latinh. Ferdinand VII ñã kêu gọi các nước ðồng minh Thần thánh (chủ yếu



2
ðể củng cố hiệp ước Viên và bảo vệ chế ñộ quân chủ chuyên chế phản ñộng châu Âu, ngày 26-9-1815,
theo sáng kiến của Nga hoàng, tổ chức ðồng minh Thần thánh ñược thành lập. ðây là tổ chức tập hợp hầu
hết các quốc gia châu Âu theo Thiên Chúa giáo. Nhiệm vụ chủ yếu của ðồng minh Thần thánh là chống
lại mọi biểu hiện tiến bộ về mặt chính trị, ñàn áp phong trào cách mạng và phong trào giải phóng dân tộc
ở bất kỳ nước nào mà nó xảy ra. Từ năm 1818, nước Pháp gia nhập tổ chức này.


114

là Áo, Nga và Pháp) giúp Tây Ban Nha khôi phục sự thống trị của mình ở Mỹ latinh.
Có một thực tế lịch sử, sau khi cuộc chiến tranh của Napoleon chấm dứt (1815),
dưới tác ñộng của ðại Cách mạng Pháp, phong trào dân chủ ở châu Âu bùng phát dữ
dội, nhất là ở ðức, Italia và Tây Ban Nha. Nhiều nơi giành ñược thắng lợi bước ñầu.
Tình hình này ñã làm lung lay tận gốc rễ các thế lực quân chủ chuyên chế ở châu Âu.
Với âm mưu “ñẩy lùi bánh xe lịch sử”, tại hội nghị ở Troppau (Áo) diễn ra từ tháng 10
ñến 12-1820, bất chấp sự phản ñối của Anh, ðồng minh Thần thánh thông qua một
“Nghị ñịnh thư”, khẳng ñịnh rằng: “Các quốc gia vừa mới trải qua sự thay ñổi chính
phủ bằng cuộc cách mạng, những kết quả ñó là mầm họa ñối với các dân tộc khác, bản
thân hành ñộng này buộc những thành viên của ðồng minh Thần thánh phải có sứ

mạng ngăn chặn tình trạng này cho ñến khi lập lại ñược trật tự và ổn ñịnh tình hình.
Trong trường hợp xảy ra tình huống bất trắc, ñe dọa trực tiếp ñến các quốc gia khác,
thì lực lượng của ðồng minh Thần thánh cam kết, bằng biện pháp hòa bình hoặc vũ
trang, ñặt quốc gia chống ñối dưới sự bảo trợ của ðồng minh này” [7, trang 43].
Trong năm 1820, có 4 cuộc khởi nghĩa nổ ra ở châu Âu, trong ñó có hai cuộc
khởi nghĩa diễn ra ở Italia (tại Naples và Piedmont), một cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Tây
Ban Nha và một ở Bồ ðào Nha. Trước tình hình ñó, ðồng minh Thần thánh buộc phải
thực hiện “sứ mạng” của mình như ñã cam kết. Nga và Áo với một triệu quân ñược
trang bị khí giới, tiến vào Italia ñể ñàn áp cuộc nổi dậy ở Naples và Piedmont. Trong khi
ñó, dưới sự ủy nhiệm của ðồng minh Thần thánh, Pháp ñã tiến quân ñàn áp cuộc khởi
nghĩa ở Tây Ban Nha, bất chấp sự phản ứng quyết liệt của Anh. Như vậy, với cuộc tiến
quân của ðồng minh Thần thánh vào các quốc gia châu Âu có thể suy luận rằng, trong
trường hợp ðồng minh Thần thánh dập tắt ñược các cuộc khởi nghĩa ở châu Âu, thì theo
logic vấn ñề, nhân danh Tây Ban Nha, tổ chức này có thể lặp lại hành ñộng tương tự này
ở Mỹ Latinh.
Vào cuối thế kỷ XVIII, ở phía Nam lục ñịa châu Mỹ, Nhà Trắng ñang âm mưu
lập lại “trật tự cũ” của Tây Ban Nha thì ở phía Bắc lục ñịa này, sự bành trướng của
nước Nga Sa hoàng ngày càng mạnh mẽ. Sau khi thiết lập những cứ ñiểm buôn bán lông
thú ở Tây bắc lục ñịa châu Mỹ, năm 1799, chính phủ Nga Sa hoàng thành lập công ty
Mỹ Nga (Russian American Company). Công ty này giữ ñộc quyền buôn bán lông thú
với phạm vi xuống ñến vĩ ñộ 51
0
Bắc
3
. Do những giá trị lớn mang lại trong hoạt ñộng
thương mại, ngày 4-11-1821, Sa hoàng Alexander I, ban hành Sắc lệnh khẳng ñịnh chủ
quyền của mình ở Bắc Mỹ. Sắc lệnh quy ñịnh: “Việc theo ñuổi thương mại, săn bắt cá
voi, ñánh cá và những hoạt ñộng kinh doanh khác thuộc tất cả hòn ñảo và vịnh, bao
gồm toàn bộ vùng bờ biển Tây Bắc lục ñịa Bắc Mỹ, bắt ñầu từ eo biển Bering xuống




3
Lúc bấy giờ giới hạn lãnh thổ nước Mỹ ở Tây bán cầu trải dài từ vĩ tuyến 49
0
Bắc xuống ñến vĩ tuyến
25
0
Bắc.


115

ñến vĩ ñộ 51
0
Bắc… là nằm trong ñặc quyền của Nga.
Do ñó, Nga ngăn cấm tất cả các thuyền bè ngoại quốc không ñược neo ñậu trên
ñất liền và các hòn ñảo thuộc chủ quyền của Nga như ñã tuyên bố, mà còn giới hạn lưu
thông của chúng cách ñường ranh giới quy ñịnh tối thiểu 100 dặm. Thuyền bè ngoại
quốc nào vi phạm sẽ bị tịch thu cùng với toàn bộ hàng hóa” [7, trang 42].
Mục ñích sâu xa của Nga Sa hoàng là muốn chiếm lấy vùng Oregon, ñịa ñiểm
buôn bán lông thú quan trọng và tước ñoạt việc vận chuyển của thương thuyền Mỹ giữa
vùng Oregon với Trung Quốc. Mặt khác, một khi tạo ñược “chỗ ñứng chân” vững chắc
ở phía Bắc lục ñịa châu Mỹ thì cũng mở ra cho Nga Sa hoàng nhiều cơ hội xâm nhập
xuống Trung và Nam Mỹ một cách dễ dàng. Rõ ràng, các ñộng thái của ðồng minh
Thần thánh và Nga hoàng ñối với lục ñịa châu Mỹ gây ra sự lo lắng từ phía chính giới
Mỹ.
Sự lo lắng của Nhà Trắng càng gia tăng, khi Anh ñẩy mạnh xâm nhập thị trường
Mỹ latinh thông qua hoạt ñộng kinh tế. George Canning, Ngoại trưởng Anh, tuyên bố:
“Nếu chúng ta hành ñộng một cách khôn khéo thì châu Mỹ của Tây Ban Nha ñược giải

phóng sẽ trở thành châu Mỹ của Anh” [9, trang 51].
Trong thời gian cuộc chiến tranh Napoleon nổ ra ở châu Âu, do bận tập trung ñối
phó tại “mặt trận chính quốc” nên sự thống trị của Tây Ban Nha ở Mỹ Latinh có phần
nới lỏng. Lợi dụng tình hình này, nước Anh ñẩy mạnh hoạt ñộng thương mại, phá vỡ sự
ñộc quyền của Tây Ban Nha ở ñịa bàn này. Tư bản Anh còn ñầu tư một số vốn khá lớn
vào các nước Mỹ Latinh. Phần lớn vốn ñầu tư tập trung vào miền nam Nam Mỹ và chủ
yếu vào các ngành ñường sắt, xây dựng hải cảng, khai thác nguyên liệu, trồng cà phê,
cao su, khai thác dầu lửa v.v Tuy vậy, chính phủ Anh ñặc biệt lo lắng thế lực Pháp, trụ
cột của ðồng minh Thần thánh sẽ gây áp lực Tây Ban Nha chuyển nhượng thuộc ñịa ở
Mỹ Latinh cho Pháp, bởi Pháp ñã từng giúp Ferdinand VII ñàn áp cách mạng ở Madrid,
phục hồi ngai vàng. Sự ràng buộc này tạo ñiều kiện cho Pháp xâm nhập vào khu vực
Mỹ Latinh một cách dễ dàng, ñe dọa trực tiếp quyền lợi của Anh.
Nắm bắt ñược tham vọng của các nước châu Âu, ngày 20-8-1823, tại London,
Ngoại trưởng Anh, G. Canning gặp Công sứ Mỹ, Richard Rush, ñề nghị Mỹ cùng với
Anh ra tuyên bố chung liên quan ñến Mỹ latinh, gồm 5 ñiểm:
“1. Việc khôi phục chủ quyền Tây Ban Nha ở Mỹ Latinh là hoàn toàn không khả
thi.
2. Việc công nhận ñộc lập các quốc gia Mỹ latinh chỉ còn là vấn ñề thời gian và
thời cơ.
3. Không quốc gia nào ñược áp ñặt thỏa thuận giữa Tây Ban Nha và các thuộc
ñịa.
4. Cả Anh và Mỹ không theo ñuổi mục ñích chiếm giữ bất kì phần lãnh thổ


116

thuộc ñịa nào [ở Mỹ Latinh].
5. Anh và Mỹ không thể có thái ñộ thờ ơ trong việc chuyển bất kì một lãnh thổ
nào của thuộc ñịa Tây Ban Nha cho một cường quốc khác” [3, trang 235].
Rõ ràng, việc G. Canning ñề nghị R. Rush thông qua bản tuyên bố chung Anh –

Mỹ, nhằm vào hai mục ñích sau:
Thứ nhất, Anh muốn gạt bỏ ý ñịnh can thiệp của ðồng minh Thần thánh vào Mỹ
latinh. ðiều này tạo ñiều kiện thuận lợi cho Anh có thể ñơn phương sử dụng sức mạnh
hải quân tối tân của mình ñể mở rộng ảnh hưởng ở Mỹ Latinh;
Thứ hai, bằng việc bảo ñảm với Mỹ một tuyên bố chung trong ñó có chứa ñựng
nguyên tắc phi thực dân, Anh hy vọng sẽ ngăn cản việc Mỹ mở rộng lãnh thổ hoặc gây
ảnh hưởng ở Mĩ Latinh trong tương lai.
Trong khi chờ ñợi phản ứng của Nhà trắng, ngày 30-9-1823, G. Canning nhận
ñược tin tức về việc Pháp chiếm Cadiz, pháo ñài tự do cuối cùng của Tây Ban Nha và
ðồng minh Thần thánh chuẩn bị triệu tập hội nghị mới nhằm giải quyết vấn ñề thuộc ñịa
của Tây Ban Nha ở Trung và Nam Mỹ [4, trang 127]. Theo dự tính của G. Canning,
ðồng minh Thần thánh sẽ ủy nhiệm cho Pháp giải quyết vấn ñề Mỹ Latinh. ðứng trước
tình thế ñó, ñầu tháng 10-1823, G. Canning tiếp xúc với Prince Jules de Polignac, Công
sứ Pháp tại London, ñể bày tỏ thái ñộ phản ñối bất kỳ ý ñịnh nào của Pháp can thiệp vào
Mỹ Latinh. ðáp lại ñộng thái của ngoại trưởng Anh, công sứ Pháp cho rằng: “Nước
Pháp chưa bao giờ tuyên bố ý ñịnh chiếm bất kì vùng ñất nào thuộc sở hữu của Tây Ban
Nha ở Tây bán cầu. Nước Pháp không có gì hơn là muốn có quyền buôn bán ở Mỹ
latinh giống như nước Anh. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, nước Pháp từ bỏ mọi mưu ñồ
chống lại các thuộc ñịa Tây Ban Nha ở Mỹ Latinh bằng bạo lực” [4, trang 127]. Những
quan ñiểm này ñược thể hiện trong bản ghi nhớ ngày 12-10-1823 giữa Anh và Pháp,
mang tên Bản ghi nhớ Polignac (Polignac Memorandum). Với bản ghi nhớ này, Anh ñạt
ñược mục ñích loại bỏ hoàn toàn nguy cơ can thiệp của Pháp – trụ cột của ðồng minh
Thần thánh, vào Mỹ Latinh.
Trong khi ñó, về phía Mĩ, trước ñề nghị của G. Canning, nội các chính quyền
James Monroe nảy sinh hai quan ñiểm trái ngược nhau. Một phái do Bộ trưởng Chiến
tranh, John Calhoun ñứng ñầu, chủ trương chấp thuận ñề nghị của G. Canning, tức là
liên minh với Anh. Quan ñiểm này nhận ñược sự hậu thuẫn của T. Jefferson và J.
Madison – hai vị Tổng thống tiền nhiệm. T. Jefferson cho rằng: “ðối với những ñề nghị
ñó, chúng ta nên hết sức chú ý vun ñắp một tình hữu nghị hòa hảo; không có bất cứ cái
gì có thể làm sâu sắc hơn tình hữu nghị của chúng ta bằng kề vai với Anh chiến ñấu vì

mục ñích chung” [6, trang 72]; Còn phái kia do Bộ trưởng Ngoại giao, John Quincy
Adams ñứng ñầu, bày tỏ hoài nghi mục ñích chân thực của G. Canning. Dưới nhãn quan
của J. Adams, việc Mỹ và Anh ra tuyên bố chung nhằm khống chế Mỹ Latinh không
những tạo cơ hội cho Anh can thiệp sâu vào khu vực này mà còn làm cho Mỹ không thể


117

tùy ý bành trướng ở Mỹ Latinh, ñặc biệt là bành trướng ở Cuba. Adams nhận ñịnh rằng:
“Mục ñích của Canning rõ ràng là muốn ñược bảo ñảm công khai nào ñó từ phía Chính
phủ Mỹ, bề ngoài là phản ñối ðồng minh Thần thánh tiến hành can thiệp vào Tây Ban
Nha và Mỹ Latinh, nhưng trên thực tế chủ yếu là phản ñối Mỹ giành lấy bất kỳ bộ phận
nào của châu Mỹ thuộc Tây Ban Nha” [6, trang 72]. Do vậy, J. Adams ñề nghị chính
quyền J. Monroe “phải vô tư và ñúng ñắn nhìn nhận rõ rệt những nguyên tắc của chúng
ta ñối với Nga và Pháp hơn là ngồi vào con thuyền gỗ ñang chông chênh trên mặt nước
chạy theo ñuôi chiến hạm của Anh” [8, trang 159]. Nói cách khác, Mỹ nên có chính
sách ñối ngoại ñộc lập, riêng rẽ ñối với Mỹ Latinh.
3. Tư tưởng ngoại giao của J.Q. Adams dần thuyết phục ñược Tổng thống J.
Monroe và nội các. Ngoài ra, chính quyền Mỹ “tỏ ý ngờ vực khi Anh gửi tuần dương
hạm ñến vùng biển Cuba vào cuối năm 1823 với lý do bảo vệ hòn ñảo này khỏi bọn
cướp biển” [2, trang 68]. Tình hình trên thúc ñẩy chính quyền Mỹ nhanh chóng bày tỏ
lập trường ñối ngoại rõ ràng ñối với khu vực Mỹ Latinh. Ngày 2-12-1823, trong Thông
ñiệp thường niên trước Quốc hội, Tổng thống James Monroe chính thức tuyên bố chính
sách của Mỹ ñối với khu vực này, với 3 nguyên tắc cơ bản là: Nguyên tắc phi thực dân,
nguyên tắc không can thiệp và nguyên tắc hệ thống châu Mỹ.
Với nguyên tắc phi thực dân, Tổng thống J. Monroe nêu rõ: “Lục ñịa châu Mỹ,
xuất phát từ ñiều kiện tự do và ñộc lập, mà ñã ñược khẳng ñịnh và duy trì, từ nay trở về
sau không ñược xem như là ñối tượng cho việc thực dân hóa trong tương lai của bất cứ
cường quốc châu Âu nào tiến hành” [11, trang 204].
Với nguyên tắc bất can thiệp, Thông ñiệp cho rằng: “Hệ thống chính trị của các

cường quốc liên minh [châu Âu] căn bản khác hẳn hệ thống chính trị châu Mỹ. Sự dị
biệt ñó tồn tại ngay trong bản thân các chính thể; và ñể bảo vệ chính thể của chúng ta,
một chính thể ñã hoàn thành bởi sự hy sinh biết bao xương máu và tiền tài, và trưởng
thành nhờ sự khôn ngoan của những công dân với tinh thần khai sáng, và dưới chính
thể này chúng ta ñã ñược hưởng thụ nền hạnh phúc chưa từng có từ xưa ñến nay, toàn
thể dân tộc sẽ quyết thề nguyện ñể tận lực bảo vệ chính thể ñó. Do ñó, chúng ta phải có
bổn phận tuyên bố, và cũng vì những mối dây liên lạc thân thiện giữa chúng ta và các
cường quốc [châu Âu], rằng chúng ta phải coi bất cứ mưu toan nào của các cường
quốc ñó bành trướng hệ thống của họ sang bất cứ khu vực nào của bán cầu này là có
tính cách nguy hiểm tới nền hòa bình và sự an toàn của chúng ta”. Mặt khác, Thông
ñiệp cũng bày tỏ thái ñộ của Mỹ ñối với các tân quốc gia ở Mỹ Latinh: “ðối với các
thuộc ñịa và các lãnh thổ phụ thuộc của bất kì cường quốc châu Âu nào, chúng ta
không can thiệp và sau này sẽ không can thiệp. Song ñối với các chính phủ ñã tuyên bố
ñộc lập ñã ñược chúng ta thừa nhận sau khi suy xét kĩ lưỡng và căn cứ trên các nguyên
tắc công bằng, thì chúng ta không thể nào quan niệm ñối với một sự can thiệp nào của
bất cứ cường quốc châu Âu nào với dụng ý áp bức những chính phủ ñó, hay kiểm soát
số phận của các chính phủ ñó, hay nói cách khác là hành ñộng can thiệp ñó biểu lộ thái


118

ñộ không thân thiện ñối với Hợp Chúng quốc Mỹ” [11, trang 212-213].
Còn với nguyên tắc hệ thống châu Mỹ, J. Monroe căn cứ vào hệ thống chính trị
của châu Âu và châu Mỹ, ñể lý giải tại sao nước Mỹ cần phải ñặt ra nguyên tắc này.
Thông ñiệp nêu rõ: “Chính sách của chúng ta ñối với châu Âu… trong bao lâu nay làm
chuyển ñộng một phần tư quả ñịa cầu, tuy vậy vẫn như cũ, nghĩa là không can thiệp vào
các vấn ñề nội bộ của bất cứ một cường quốc châu Âu nào, công nhận chính phủ thực
sự trên thực tế là chính phủ hợp pháp ñối với chúng ta, trau dồi liên lạc thân thiện với
chính phủ ñó và duy trì sự liên lạc ñó bằng một chính sách thẳng thừng, cương quyết,
ñúng ñắn, công nhận trong mọi trường hợp những ñiều ñòi hỏi chính ñáng của của tất

cả các cường quốc. Song ñối với các lục ñịa này hoàn toàn khác hẳn một cách rõ rệt.
Các cường quốc châu Âu không thể bành trướng hệ thống chính trị của họ sang bất kì
khu vực nào thuộc cả hai lục ñịa mà không gây nguy hiểm cho hòa bình và hạnh phúc
chúng ta và không ai có thể tin ñược rằng nhân dân Nam Mỹ, nếu họ ñược tự do chọn
lựa, lại tự ý chấp thuận hệ thống chính trị của các cường quốc châu Âu. Như vậy, không
thể nào chúng ta có một thái ñộ thờ ơ ñối với một sự can thiệp như vậy dù dưới bất cứ
hình thức nào… Chính sách thực sự của Hợp Chúng quốc Mỹ hiện nay là bất can thiệp,
hy vọng rằng các cường quốc khác cũng noi theo chính sách ñó…” [11, trang 213].
Ba nguyên tắc trên trở thành nền tảng cơ bản của chính sách của Mỹ ñối với
Trung và Nam Mỹ mà về sau gọi là Học thuyết Monroe (Monroe Doctrine).
Với sự ra ñời học thuyết Monroe, chính quyền Mỹ, một mặt khẳng ñịnh rằng lục
ñịa châu Mỹ, trước hết là Mỹ latinh, ñã bị “ñóng cửa” ñối với những tham vọng thực
dân của các cường quốc châu Âu; mặt khác, ñòi hỏi các quốc gia này phải tôn trọng
nguyên trạng hiện thời của Mỹ Latinh. ðiều này không chỉ giúp Mỹ ñược ñảm bảo về
mặt an ninh ở Tây bán cầu mà còn có tác dụng giúp Mỹ bành trướng ñối với khu vực
này khi có ñiều kiện
4
. ðây ñược xem là mầm mống ñầu tiên của chủ nghĩa thực dân
kiểu mới của Mỹ. Mục ñích sâu xa hơn, Mỹ có tham vọng muốn biến Mỹ latinh thành
“ao nhà” của mình. Nói khác ñi, Nhà Trắng muốn Mĩ ñóng vai trò “cảnh sát ở Tây bán
cầu” [9, trang 91].
Vào cuối thế kỷ XIX - ñầu thế kỷ XX, giới cầm quyền Mỹ vận dụng học thuyết
Monroe như là công cụ ñể mở rộng ảnh hưởng ở Mỹ Latinh và vươn ra các khu vực



4
Ngay sau khi học thuyết Monroe ra ñời, chính quyền Mỹ ñã nhanh chóng hiện thực hóa nó. Hai năm sau,
tức năm 1825, Mỹ cho quân chiếm ñảo Puecto Rico là thuộc ñịa của Tây Ban Nha. Cùng năm ñó, Mỹ gây
sức ép với Colombia, buộc nước này phải cho Mỹ quyền tự do thông thương qua eo ñất Panama. ðến

năm 1846, theo hiệp ước ký với Colombia, Mỹ ñã chiếm ñược nhiều quyền ưu tiên về thương mại, quyền
tự do vận chuyển qua eo ñất Panama và ñược quyền xây dựng ñường xe lửa qua Panama. Năm 1845, Mỹ
lại kiếm cớ dùng vũ lực tiến ñánh nước láng giềng phía Nam là Mexico, sáp nhập hơn một nửa lãnh thổ
của Mexico vào Mỹ . Tháng 2-1854, nhân việc tàu khách của Mỹ bị giữ ở hải cảng La Habana. Lợi dụng
sự kiện này, chính phủ Mỹ ñe doạ dùng vũ lực ñối với Tây Ban Nha ñể buộc nước này nhượng Cuba cho
Mỹ


119

khác trên thế giới. ðiển hình nhất là trước việc các cường quốc châu Âu xâm nhập
mạnh mẽ vào Trung Quốc và lo sợ “mất phần” ở thị trường này, tháng 9-1899, ngoại
trưởng Mỹ – John Hay ñưa ra chính sách “mở cửa” Trung Quốc nhằm giành lấy quyền
lợi tại ñây
5
. ðúng như một nhà sử học Mỹ, Bemiss viết: “Tổng thống Monroe và Bộ
trưởng ngoại giao Adams ñã xây dựng cho chính sách ngoại giao của Mỹ một chuẩn tắc
mà cả thế giới ñều thấy và bám rễ vững chắc vào ý thức dân tộc, làm cho các Tổng
thống sau này không ai dám lật ñổ nó” [6, trang73].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Howard Cincotta, Khái quát về lịch sử nước Mỹ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
[2]. Jerald A. Combs, Arthur G. Combs, The History of American Foreign Policy, The
McGraw-Hill Companies Inc, 1986.
[3]. Henry Steele Commager, Documents of American History, Appleton Century Crofts,
New York, 1968.
[4]. Alexander DeConde, A History of American Foreign Policy, Vol. 1 (Growth to World
Power 1700 – 1914), Charles Scribner’s Son, New York, 1978.
[5]. Richard Hofstadter, William Miller, Daniel Aaron, The American Republic to 1865, Vol
1, Prentice-Hall Inc, Englewood Cliffs, New Jersey, 1959.
[6]. Lý Thắng Khải, Nội tình 200 năm Nhà trắng, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2004.

[7]. Lloyd Mecham, A Survey of United States – Latin American Relations, Houghton
Mifflin Company, Boston, 1959.
[8]. Richard B. Morris, Những tài liệu căn bản về lịch sử Hoa Kỳ, Việt Nam khảo dịch xã,
Sài Gòn, 1967.
[9]. Vũ Dương Ninh, Phan Văn Ban, Nguyễn Văn Tận, Trần Thị Vinh, Lịch sử quan hệ
quốc tế, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005.
[10]. Office of International Information Programs, An Outline of American History, United
States Department of State, 1994.
[11]. Arthur M. Schlesinger, The State of the Union Messages of the Presidents 1790 – 1966,
Vol. 1, Chelsea House – Robert Hector Publishers, New York, 1966.



5
Nội dung chính sách “mở cửa” của Mỹ ñối với Trung Quốc: 1. Hàng hóa của các nước phải theo chế ñộ
thuế quan của Trung Quốc và do chính phủ Trung Quốc thu thuế; 2. Không can thiệp vào lợi ích của các
nước ñã giành ñược ở Trung Quốc, phải tôn trọng những ñiều ước ñã kí kết; 3. Trong mỗi khu vực ảnh
hưởng của từng ñế quốc, không ñược thu thuế cao ñối với tàu bè và hàng hoá của các nước khác.



120
IMPACT OF THE INTERNATIONAL ASPECTS UPON CREATION
OF MONROE DOCTRINE (1823)
Le Thanh Nam
College of Pedagogy, Hue University
SUMMARY
Based on new materials, this article presents international aspects which resulted in the
creation of Monroe Doctrine (1823). That was, in Latin American, the victory of national
liberation movement which resuted in many independent countries coming into existence in the

beginning of the19
th
century. After this event, the Latin American countries had to face
infiltrated risks from Europe powers, such as England, France and Spain. Besides, Tsar also
had the ambition to expand territory in American continent.
That situation directly threatened the security of the United States of America,
simultaneously hindered its ambition to wrest economic interests in Latin American regions. In
that international context, on December 2
nd
1823, in The State of the Union Message, the United
States president, James Monroe, proclaimed the White House’s foreign policy toward Latin
American region, including 3 principles: non-colonized principle, non-interfered principle and
American system principle. These three principles contributed to the emergence of Monroe
Doctrine which has left profound hallmark in the United States history.

×