Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học đề tài " Phân tích giá trị ngữ dụng của hành động rào đón trong một số tình huống hội thoại " ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.41 KB, 7 trang )



207
TẠP CHÍ KHOA HỌC, ðại học Huế, Số 66, 2011

PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ NGỮ DỤNG CỦA HÀNH ðỘNG RÀO ðÓN
TRONG MỘT SỐ TÌNH HUỐNG HỘI THOẠI
Lê Thị Thanh Xuân
Trường ðại học Ngoại ngữ, ðại học Huế
TÓM TẮT
Từ bao ñời nay, trong cách giao tiếp hàng ngày, ñể tránh nói ra những ñiều không hay
có thể làm phật lòng người nghe hay không phải tự chịu trách nhiệm trước những ñiều mình nói,
ñồng thời thể hiện sự khiêm nhường, người ta không quên sử dụng cách nói lịch sự, là cách nói
"rào trước ñón sau". Quan sát thực tế giao tiếp của người Việt, chúng tôi thấy rất nhiều tình
huống người nói lựa chọn hành ñộng rào ñón, và mục ñích của hành ñộng rào ñón và các hình
thức ngôn ngữ ñể thể hiện chúng khá là ña dạng. Ở bài viết này, chúng tôi muốn ñi sâu tìm hiểu
về giá trị ngữ dụng của hành ñộng rào ñón ñể thấy rõ tầm quan trọng của hành ñộng này từ
thực tế giao tiếp và từ tác phẩm văn học.

1. Mở ñầu
Rào ñón (Hedges) là “nói có tính chất ngăn ngừa truớc sự hiểu lầm hay phản
ứng về ñiều mình sắp nói”.
Cũng theo ñịnh nghĩa của Nguyễn Như Ý trong cuốn ðại từ ñiển tiếng Việt thì
rào ñón là “nói trước cho kín cạnh, tránh sơ hở”.
Như chúng ta ñều biết, người Việt trong giao tiếp thường hay nói vòng, nói tránh,
nói giảm, nói bóng gió, nói rào ñón… với mục ñích chính là tránh làm mất thể diện
người nghe. ðiều này có sự khác biệt so với lối văn hóa giao tiếp của người phương Tây
(không thích nói bóng gió, rào trước ñón sau mà thích nói trực tiếp vào vấn ñề hơn).
Ngoài ra, việc ñưa hình thức rào ñón vào trong quá trình giao tiếp của người Việt sẽ rất
hay bởi “Yếu tố rào ñón ñược sử dụng ñể rào ñón cả nội dung thông tin và hiệu quả
ngoài lời của phát ngôn. Yếu tố rào ñón khiến cho phát ngôn trở nên uyển chuyển hơn,


liên tục hơn. Trong những trường hợp nhất ñịnh, yếu tố rào ñón ñược diễn tả bằng
những từ ngữ có tính chất chuyên dụng trong phát ngôn”.
Theo sự phân loại của Austin, rào ñón thuộc phạm trù hành ñộng ứng xử khu xử
(behabitive). Vì vậy, rào ñón có liên quan mật thiết ñến phép lịch sự và việc giữ gìn thể
diện cho người nói (Nói ra mong anh ñừng giận…; Nói anh bỏ quá cho…; Có ñiều gì
không phải mong anh thứ lỗi…) và ñặc biệt là người nghe, kể cả người khác (Tôi nghe
nói…; Nghe thiên hạ ñồn là…; Hình như…; Có lẽ…). Sử dụng rào ñón trong giao
tiếp là cách duy nhất không phá vỡ ñi mối quan hệ tốt ñẹp ñã có giữa người nói và


208
người nghe. Ngoài ra, trong một số trường hợp ñặc biệt hơn, nó cũng có vai trò ngăn
ngừa những phản ứng thái quá hay quá tích cực của người nghe khi người nói thông báo
một tin vui nào ñó. Những trường hợp này cũng có xuất hiện trong ñời sống giao tiếp
của người Việt, nhưng tần số xuất hiện của nó thường ít hơn so với hành ñộng rào ñón
trước những phản ứng tiêu cực.
Nói chung, sử dụng rào ñón còn thể hiện ñược lối ứng xử, giao tiếp khéo léo,
thông minh của người Việt.
2. Nội dung
2.1. ðặc ñiểm văn hoá trong giao tiếp của người Việt với hình thức rào ñón
Người Việt từ xưa ñến nay luôn trọng cách giao tiếp có trước, có sau, trọng tình
trọng nghĩa. Người Việt luôn cân nhắc, ñắn ño, suy nghĩ thấu ñáo trước khi nói nên ñối
với người Việt, giao tiếp còn là một nghệ thuật. Công việc làm ăn có thành công, quan
hệ giao tiếp có bền vững hay không ñều phụ thuộc vào sức mạnh của lời nói, của ngôn
từ. Do ñó, ñể ñạt ñược những hiệu quả cao trong giao tiếp, người Việt luôn coi trọng
yếu tố nói năng trong ñời sống hàng ngày: Uốn lưỡi 3 lần trước khi nói, Học ăn, học nói
hay Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Hành ñộng rào ñón ñóng vai trò rất quan trọng trong ñời sống giao tiếp của
người Việt, bởi không phải bất kỳ việc gì cũng có thể giải quyết ñược qua lối nói thẳng
(nói trực tiếp) mà phải qua cách nói gián tiếp, lịch sự, tế nhị, kín ñáo nhưng vẫn ñạt

ñược mục ñích giao tiếp của cá nhân. ðúng như quan niệm của Lyons: “Trong một số
xã hội, cũng là bất lịch sự khi ñưa ra một nhận ñịnh không rào trước ñón sau hoặc một
mệnh lệnh thẳng thừng. Căn nguyên và những lối dùng ña dạng, ít nhiều ñược qui ước
hóa của các hành ñộng ngôn từ gián tiếp có thể ñược giải thích bởi những lý do như
vậy”.
Hành ñộng rào ñón còn chịu ảnh hưởng bởi ñặc trưng văn hóa truyền thống của
người Việt với gốc tích nông nghiệp (có sức mạnh cố kết cộng ñồng cao, nếp sống thì
rất chan hòa, cởi mở), nên người Việt rất thích giao tiếp và trong giao tiếp thì luôn ñặt
yếu tố tình cảm lên hàng ñầu. Có thể nói, rào ñón có những ñặc trưng rất thuần Việt,
không hoàn toàn giống với bất kỳ một nước nào trên thế giới bởi ñã tiếp thu một cách
sáng tạo các quan niệm của Nho giáo, Phật giáo.
2.2. Giá trị dụng học của hành ñộng rào ñón qua việc phân tích tình huống
Từ những thông tin về rào ñón ñã ñược nêu ra ở trên, chúng tôi tiến hành tìm
hiểu giá trị dụng học của hình thức rào ñón trong giao tiếp của người Việt. Có rất nhiều
tình huống thú vị của hành ñộng rào ñón ñược thể hiện qua nguồn ngữ liệu văn học
nhưng do dung lượng bài viết có hạn, chúng tôi chỉ phân tích một số tình huống rào ñón
tiêu biểu ñể làm rõ giá trị dụng học trong một số tình huống hội thoại cụ thể sau ñây
(chúng tôi gọi tắt S (Speaker: Người nói) và H (Hearer: Người nghe):


209
2.2.1. Rào ñón nhằm tôn trọng thể diện người nói – người nghe
+ Tình huống 1:
S: - Nghe nói ông xin ñi Tổng ñốc Thanh Hóa có phải không?
H: - Tâu, chúng tôi không hề xin ñi chi cả, nhưng cách ñây… (bỏ bớt một phần)
S: - Thế thì ông muốn ñi Thanh Hóa hay muốn ở lại ñây?
H: - Tâu chúng tôi muốn ở lại Huế thôi.
S: - Có lẽ ông không biết rằng chính tui ñã phải hai lần nói với ông Khâm sứ và
nhiều lần năn nỉ với Hoàng ñế ngài mới quyết ñịnh cất nhắc ông từ Quản ñạo ðà Lạt lên
Ngự tiền văn phòng Tổng lí?

(Trích Hồi ký Phạm Khắc Hòe)
ðoạn hội thoại trên trích trong Hồi ký từ triều ñình Huế ñến chiến khu Việt Bắc.
Người tham gia giao tiếp là Nam Phương Hoàng hậu, vợ của Bảo ðại và tác giả hồi ký
(Phạm Khắc Hòe), nhân vật xưng tôi. Qua ñoạn hội thoại trên, chúng ta thấy ñược rằng,
trong giao tiếp không phải lúc nào cũng nói thẳng, mà cần phải biết rào ñón, bóng gió
ñể nghệ thuật giao tiếp ñạt ñến hiệu quả cao nhất, giúp thuận lợi trong công việc mà lại
làm “mát lòng” người nghe. Ở ñây, có thể thấy bà Nam Phương Hoàng hậu là người
khéo léo trong hoạt ñộng giao tiếp. So với người nghe, ông Phạm Khắc Hòe, thì bà là
người có vai xã hội cao hơn thế nhưng bà vẫn có chiến lược rào ñón khi giao tiếp với
người thuộc cấp của mình.
Câu hỏi ñầu tiên bà có thể hỏi thẳng: Ông xin ñi Tổng ñốc Thanh Hóa phải không?
thế nhưng bà chọn cách rào ñón bằng hai từ Nghe nói với mục ñích thể hiện sự từ tốn, lịch
sự của mình, bà không muốn tỏ ra dồn ép kẻ dưới quyền.
Lần thứ hai, trong câu “Có lẽ ông không biết…”, hai từ Có lẽ trong cách dùng
này không phải là cách ñể hạn chế thông tin mà chính là cách ñể lời nói của bà không
mang mục ñích kể công quá lộ liễu. Chính nhờ hai từ Có lẽ ấy khiến người nghe cảm
thấy thoải mái hơn.
2.2.2. Rào ñón khi ñề cập ñến những câu chuyện khó nói
+ Tình huống 2:
S: - Chị Thảo, còn hai chị em, giờ ta nói chuyện theo kiểu… cánh ñàn bà với
nhau.
H: - Kìa Loan… ñừng làm chị sợ. Có chuyện gì thế?
S: - Chị yêu lão Hùng phải không?
H: - Loan… Chị biết rồi thế nào em cũng hỏi chị ñiều này. ðàn bà chúng
mình khi vướng vào, ñâu có giấu ñược ai. Loan… ñã nhiều lần chị ñã ñịnh nói với


210
em nhưng chị sợ…


S: - Nói tí tí nữa thôi, không lại bảo chị em lúc gặp trắc trở lại bỏ nhau, em
hỏi tiếp, chị ñừng phật lòng nhé: Có phải chị thật sự chán anh Nam rồi không?
H: - Không…
(Phố - Chu Lai)
Qua ñoạn hội thoại trên, chúng ta thấy rằng cách mở ñầu câu chuyện của Loan
rất khéo léo, ñặc biệt là ñối với những chuyện tế nhị, khó nói. Cô phải rào ñón trước, ñể
ngăn ngừa sự ñe dọa thể diện ñối với người nghe. ðây là sự báo trước những ñiều có thể
gây bất lợi cho người nghe sau câu nói rào ñón ñầy ẩn ý, giúp giảm “sốc” cho người
nghe: “Chị Thảo! Còn hai chị em, giờ ta nói chuyện theo kiểu… cánh ñàn bà với nhau”.
Trong hoạt ñộng giao tiếp, ñặc ñiểm về giới cũng có những vấn ñề ứng xử tế nhị. Khi
lời rào ñón ñề cập vấn ñề liên quan về giới, người nói ngầm báo với người nghe có thể
trao ñổi thẳng thắn các vấn ñề tế nhị. Và cách trả lời câu hỏi của Loan là tuy không trả
lời thừa nhận trực tiếp về hành vi của mình nhưng là sự rào ñón gián tiếp thừa nhận việc
ngoại tình của mình nhằm tìm kiếm sự thông cảm từ phía Thảo: “Loan… Chị biết rồi
thế nào… nhiều lần chị ñịnh nói với em nhưng chị sợ…”.
Tiếp theo, ñó là sự ngăn ngừa trước việc hiểu nhầm của Thảo, cho rằng Loan là
người vô tâm: “Nói tí tí nữa thôi, không lại bảo chị em lúc gặp trắc trở lại bỏ nhau”.
Loan là người rất biết nghĩ, trước câu hỏi có tính chất tiêu cực như “Có phải chị thực sự
chán anh Nam rồi không?” thì trước ñó cô ñã rào ñón thể diện tích cực, không áp chế H
(người nghe): “em hỏi tiếp, chị ñừng phật lòng nhé” khiến cho Thảo không cảm thấy
khó chịu, chấp nhận ñược câu hỏi khó mà Loan ñặt ra.
2.2.3. Rào ñón với tình huống người thứ 3
+ Tình huống 3
Trong truyện “Thằng Quýt”, thằng Quýt tuy chỉ là người giúp việc thôi nhưng
nó cũng rất khôn khéo, “biết ăn, biết nói”, ñược thể hiện rõ qua ñoạn trích sau, qua ñoạn
thoại với cậu chủ của nó:
S: - Con hỏi câu này, nếu không phải, cậu bỏ ngoài tai nhé?
H: - ðược, gì, anh cứ nói.
S: - Con hỏi khí không phải, có người bảo ông Phán lấy tiền của con, thật hay
dối hả cậu?

(Thằng Quýt – Nguyễn Công Hoan)
Thằng Quýt ñã sử dụng biểu thức “Con hỏi khí không phải” là sự rào ñón trước
cho hành vi hỏi có thể de dọa thể diện người khác. Còn biểu thức “có người bảo” là sự


211

không xác ñịnh thông tin. Sự không xác ñịnh thông tin này của thằng Quýt có tính mục
ñích rất rõ ràng bởi nó biết rằng nếu mình ñổ tội oan cho chủ thì sẽ rất ñáng trách nhất
là người nghe vốn là bạn của chủ nó (ông Phán) chính vì vậy nó buộc lòng phải có chiến
lược rào ñón.
2.2.4. Rào ñón với tình huống không xác tín thông tin nhằm tôn trọng thể diện
người thứ 3
+ Tình huống 4: ñoạn hội thoại giữa Nam và Bình:
S: - Có phải thằng cha kia ở khu mình không? Lảng vảng suốt.
H: - Không – Nam lắc ñầu – Ai ñấy?
S: - Người ta bảo mấy tối nay thường thấy hắn lảng vảng ở ñây. Dám trộm lắm!
Bảo cô ấy ñi ngủ nhớ khóa khoáy cửa giả cho cẩn thận.
Nói xong, vị ñạo diễn nhũi mình biến vào con ñường lầy lội…
(Phố - Chu Lai)
Vị ñạo diễn ñã dùng những từ ngữ biểu thị sự rào ñón “Người ta bảo” với hàm ý
không xác ñịnh ai ñã ñưa ra thông tin về kẻ hay xuất hiện lảng vảng ở khu tập thể. Lý
do là chưa xác ñịnh ñược kẻ ñó là trộm hay không, nếu ñưa thông tin trái chiều, không
ñúng thực hư sẽ mang tiếng hàm oan cho người phát ngôn và cho cả ñối tượng trung
tâm ñang ñược ñề cập. ðưa ra thông tin rào ñón như vậy, người nói chỉ muốn người
nghe cẩn thận, ñề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra.
2.2.5. Rào ñón trong tình huống “phải” tác ñộng ñến trạng thái tâm lý của
người nghe
+ Tình huống 5: Xem xét ñoạn hội thoại sau:
S: - Mình ơi! Em…

H: - Biết rồi. Nôn hử?
S: - Nôn… nhưng mà em… Mình bình tĩnh nghe em nói.
H: - Cứ nói mẹ nó ñi! Có cái ñ. gì mà không bình tĩnh.
S: - Hình như em ñã…
H: - Biết rồi. Chửa hử?
S: - Trời! Mình biết rồi ư? Thế mà em…
(Phố - Chu Lai)
Với ñoạn hội thoại chúng tôi ñã trích dẫn ở trên, có thể thấy rằng vợ Lãm ñã rào ñón,
không dám nói thật rằng mình ñã có thai. Bởi cô biết rằng, nếu có thêm con thì sẽ là gánh
nặng cho gia ñình, chồng cô vì thế sẽ rầy la cô. Cô chỉ biết nói rào ñón, ấp úng qua những


212
câu không câu không ñầu không ñuôi như: “Mình ơi, em…” và “Nôn… nhưng mà em…
Mình bình tĩnh nghe em nói”. Cô ñã rào ñón qua hai từ “Hình như” giúp giảm nhẹ sự ñe
dọa thể diện ở người nghe và cô không ngờ rằng Lãm ñã biết sự việc ñó. Sự ngạc nhiên của
cô ñược thể hiện ở câu cuối: “Trời! Mình biết rồi ư? Thế mà em…”. Cô sợ nói ra thông tin
sẽ làm người chồng tức giận hay lo lắng, nhưng người chồng ñã ngăn chặn mục ñích rào
ñón ñó bằng một câu: “Cứ nói mẹ nó ñi…”
Lần thứ hai cô dùng hình thức rào ñón “Hình như…” ñể làm giảm nhẹ tính
chính xác của thông tin ñược ñưa ra vì cô sợ chồng sẽ lo lắng về việc có thêm một ñứa
con trong khi hoàn cảnh gia ñình vẫn còn rất túng bấn.
ðây là cách thức rào ñón bằng cách nói ấp úng, gợi mở, không dám nói thẳng
thông tin nhằm tránh những phản ứng tiêu cực, tìm kiếm sự cảm thông từ phía người
nghe.
Phải nói thêm rằng, cô vợ Lãm trong tình huống này là người chủ ñộng trong
việc “phải” tác ñộng ñến những trạng thái, tâm lý tình cảm của chồng. Dù cô không
thích nói ra vì sợ chồng sẽ không vui nhưng cô vẫn phải nói. ðể giảm thiểu ñe dọa thể
diện, cô ñã chọn cách nói rào ñón vòng vo, ấp úng những ñiều khó nói ñể chồng hiểu.
3. Kết luận

Qua việc phân tích những tình huống trên, có thể thấy rằng hành ñộng rào ñón
ñược thể hiện rất ña dạng, phong phú và không kém phần ý nghĩa, sâu sắc. Tất cả những
hành ñộng rào ñón ñược thể hiện khác nhau qua cách dùng ngôn từ của mỗi nhân vật
trong từng tác phẩm vì thế tác dụng của mỗi hành ñộng rào ñón cũng có mục ñích, ý
nghĩa riêng. Nhưng ñiểm chung về giá trị ngữ dụng, ñích ñến của tất cả các hành ñộng
rào ñón trong giao tiếp của người Việt, suy cho cùng ñều là chiến lược của người nói
nhằm ngăn ngừa những tác hại nhất ñịnh do lời nói thẳng của mình gây ra. ðối với
người nói khi sử dụng rào ñón trong giao tiếp thì mục ñích chủ yếu, trọng tâm nhất là
ngăn ngừa sự phương hại từ những thông tin có tính chất “nhạy cảm”, “trái chiều”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Diệp Quang Ban, Ứng dụng cách nhìn dạy học vào việc giải thích một số yếu tố có mặt
trong câu phát ngôn, Tạp chí Ngôn ngữ, số 07, (2001), 58 - 62.
[2]. ðỗ Hữu Châu, Ngữ dụng học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tập 2, 2007.
[3]. ðỗ Hữu Châu, Cở sở ngữ dụng học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2003.
[4]. Trần Văn Cơ, Ngôn ngữ học tri nhận, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2007.
[5]. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999.
[6]. Lý Toàn Thắng, Mấy vấn ñề Việt ngữ học và ngôn ngữ học ñại cương, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 1992.


213
[7]. Nguyễn Như Ý, ðại từ ñiển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, Tp HCM, 1998.
[8]. http: //www.ngonngu.net.
[9]. Nguyễn Công Hoan, Truyện ngắn chọn lọc 1 và 2, Nxb. Hội nhà văn Hà Nội, 2004.
[10]. Phạm Khắc Hòe, Hồi ký Phạm Khắc Hòe, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2007.
[11]. Nguyễn Thị Thu Huệ, Tập truyện ngắn, Nxb. Phụ nữ Hà Nội, 2003.
[12]. Chu Lai, Phố, Nxb. Văn học Hà Nội, 2003.

ANALYSING THE PRAGMATIC VALUES OF SOFTENING-UP PROCESS
IN SEVERAL CONVERSATIONS

Le Thi Thanh Xuan
College of Foreign Languages, Hue University
SUMMARY
For a long time, in everyday communication, so as not to say unpleasant things which
might offend the listeners or to avoid the responsibility for what one says, simultaneously to
show the modesty, the speakers are supposed to use the polite strategies or softening-up process.
From the reality of communicating of Vietnamese people, it can be seen that in many situations
the speakers choose the softening-up process, and linguistic forms used to expess it are quite
diversified. In this writing, our aim is to study the pragmatic values in order to know the
importance of this process from the communication reality and from literary works.

×