18.03.2010
Chất lượng nước là một chỉ tiêu quan trọng đụng chạm tới tất cả
khía cạnh của hệ sinh thái và đời sống con người, như sức khỏe cộng
đồng, sản xuất lương thực, hoạt động kinh tế và đa dạng sinh học.
Do đó, chất lượng nước cũng là một trong những cơ sở để đánh giá
mức độ đói nghèo, thịnh vượng và trình độ văn hoá của một quốc
gia.
1. Điều gì xác định chất lượng của nước?
Xét trên khía cạnh quản lý, chất lượng nước được xác định bởi nhu cầu
sử dụng cuối cùng của nó. Với các mục đích sử dụng nước như giải trí,
câu cá, ăn uống, môi trường sống cho động thực vật thủy sinh, mức
trong sạch của nguồn nước thường đòi hỏi ở cấp độ cao hơn so với các
một số các mục đích khác như đáp ứng nhu cầu cho hoạt động thủy điện.
Do đó, theo nghĩa rộng chất lượng nước là bao gồm các nhân tố vật lý,
hóa học và sinh học cần thiết để đảm bảo cho nhu cầu sử dụng.(UN/ECE
1995).
2. Tình trạng chất lượng nguồn nước trên thế giới hiện nay ra sao?
Chính hoạt động của con người là nguyên nhân chủ yếu làm suy giảm
chất lượng nguồn nước trên toàn thế giới. Tăng trưởng dân số, đô thị hóa
cao, chất thải công nghiệp và nguồn bệnh mới cùng sự xâm lấn của
nhiều loài sinh vật là nhân tố then chốt gây ra tình trạng suy thoái chất
lượng nước. Thậm chí, biến đổi khí hậu cũng ngày càng ảnh hưởng lớn
đến chất lượng nguồn nước. Cùng với đó là những nguy cơ gây ra do sự
thiếu hiểu biết của con người về những tác động tiểm ẩn của tự nhiên
hay chính những chất thải độc hại do con người thải vào môi trường
trong tình trạng hệ thống cơ sở dữ liệu và mạng lưới quan trắc chất
lượng nước còn rất thiếu thốn. Bên cạnh đó, tại các nước đang phát triển,
việc không xác định được thứ tự ưu tiên đối với chất lượng nguồn nước,
hệ thống quản lý yếu kém và thiếu sự phối hợp trong quá trình xác định
những thách thức về chất lượng nguồn nước đã dẫn tình trạng suy giảm
phân bổ nguồn tài nguyên nước.
3. Tăng trưởng dân số, đô thị hóa, sản xuất công nghiệp tác động
như thế nào đến chất lượng nước?
Suy giảm chất lượng nước xảy ra khi hệ thống xử lý nước thải công
nghiệp, đô thị hay nước thải sinh hoạt trở nên quá tải; khi hệ thống cơ sở
hạ tầng cần thiết bị thiếu thốn hoặc lỗi thời, hay khi chất thải, nước thải
được xả trực tiếp vào môi trường. Trong khi đó, việc gia cố hay mở rộng
các hệ thống cơ sở hạ tầng này là vô cùng tốn kém và khó mà theo kịp
sự phát triển chung. Vì lẽ đó, quản lý nguồn nước thải đang nổi lên như
là một thách thức lớn đối với toàn cầu.
Chất lượng nước có thể bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm hữu cơ, nguồn bệnh
chứa trong nước thải sinh hoạt, nước thải nông nghiệp và các rác thải
của con người, những nguồn thải này gây hiện tượng phú dưỡng và thiếu
oxy trong nước, nhiễm mặn đối với nước tưới, kim loại nặng, ô nhiễm
dầu, các hóa chất khó phân hủy…
Suy giảm chất lượng nước còn làm thoái hoá chức năng của hệ sinh thái,
gây ra những biến đổi đột ngột và không thể lường trước đối với hệ sinh
thái, khi đó, chỉ một ngưỡng giới hạn bị vượt quá thì sẽ lập tức làm cho
toàn bộ hệ thống bị biến đổi, thậm chí sụp đổ.
4. Biến đổi khí hậu tác động đến chất lượng nước như thế nào?
Biến đổi khí hậu nói chung, nhiệt độ tăng và thay đổi cấu trúc thủy văn
nói riêng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nước và làm tăng nguy cơ ô
nhiễm nguồn nước thông qua các lớp chất trầm tích, chất dinh dưỡng, sự
phân hủy các bon hữu cơ Mực nước biển dâng cao cũng sẽ làm tăng
diện tích bị xâm mặn tại các cửa sông và của nguồn nước ngầm, tác
động đến sự sẵn có của nguồn nước ngọt ở tại thủy vực. Trong khi đó,
hiểu biết của con người về những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới
nguồn nước vẫn còn rất nhiều hạn chế và nhất là những tác động lên chất
lượng nguồn nước. Một cơ chế quản lý mới, mang tính linh hoạt thì luôn
đòi hỏi một hệ thống dữ liệu được thu thập đầy đủ nhưng trên thực tế thì
hệ thống mạng quan trắc thì ngày càng thu nhỏ lại. Do đó, điều cần thiết
ở đây là phải cải thiện những hiểu biết và khả năng mô hình hoá được
những tác động của biến đổi khí hậu, có tính đến chu kỳ thủy văn ở các
cấp liên quan tới quá trình ra quyết định.
5. Chất lượng nước được duy trì như thế nào? Làm thế nào để xử lý
nước bị ô nhiễm?
Ngăn ngừa ô nhiễm nước là ưu tiên hàng đầu để duy trì được chất lượng
nguồn nước. Bên cạnh đó, còn 2 lựa chọn khác là xử lý và khôi phục
nguồn nước. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp việc xử lý nguồn nước
bị ô nhiễm do hoạt động của con người thường phức tạp hơn rất nhiều so
với sự ô nhiễm gây ra bởi những nguồn gây ô nhiễm tự nhiên.
Tương tự, khôi phục chất lượng nước cũng khó có thể thực hiện vì điều
này đồng nghĩa với việc khôi phục cả một hệ sinh thái đã bị suy thoái
hay nói cách khác là tiến hành thiết lập lại môi trường tự nhiên vốn có.
Bản thân hệ sinh thái cũng cung cấp cho chúng ta chức năng làm sạch
thông qua chu trình dinh dưỡng, quá trình giữ phù sa và phá vỡ các chất
thải. Ví dụ, các vùng đất ngập nước có thể lọc bỏ dưỡng chất và các chất
độc hại ở mức độ cao. Mặt khác, bản thân hệ sinh thái cũng phụ thuộc
vào khả năng sẵn có của chất lượng nguồn nước.
6. Chất lượng nước ảnh hưởng như thế nào đến sức khỏe con
người?
Bảo đảm chất lượng nước là tối quan trọng đối với sức khỏe của con
người môi trường. Để đáp ứng cho nhu cầu nước uống và vệ sinh hàng
ngày, mỗi người cần từ 20 đến 40 lít nước sạch, không bị nhiễm các chất
nguy hại hoặc vi khuẩn và con số này sẽ tăng lến đến 50 lít nếu phục vụ
cho các nhu cầu về tắm giặt hoặc nấu nướng.
Nhiều nơi trên thế giới, khối lượng nước cung cấp cho sinh hoạt hàng
ngày không đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng Đặc biệt tại các
nước đang phát triển, nơi mà tốc độ đô thị hóa tăng nhanh đến chóng
mặt, đang phải đối diện với thực tế thiếu thốn các phương tiện xử lý
nước thải, dẫn đến tình trạng nguồn nước uống bị nhiễm bẩn và trở
thành căn nguyên chủ yếu của nhiều loại bệnh tât và thương vong.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm có 4 tỷ trường hợp mắc
bệnh tiêu chảy bên cạnh hàng triệu những trường hợp khác mắc các
bệnh do không tiếp cận được với nguồn nước an toàn. Và trung bình cứ
một năm thì 1,7 triệu người lại chết do tiêu chảy, và phần lớn trong số
này là trẻ em dưới 5 tuổi. Sức khỏe của con người trên trái đất hiện đang
bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các loại bệnh liên quan đến nước và các
chất hóa học thải vào nguồn nước.
Mặc dù từ những năm 1990 nhiều cố gắng mới đã được nỗ lực thực
hiện, nhưng việc cung cấp nước sạch và vệ sinh an toàn đến phần lớn
dân số vẫn còn là một thách thức. Hiện nay, khoảng 1.1 tỷ người trên thế
giới thiếu khả năng tiếp cận với nguồn nước được sạch, và hơn 2,6 tỷ
người khó tiếp cận được với điều kiện vệ sinh tốt hơn.
7. Hiện đã có một cam kết quốc tế nào liên quan đến chất lượng
nước chưa?
Hiện trên thế giới hiện nay chưa có bất cứ một cam kết về môi trường
mang tính toàn cầu quy định nghĩa vụ của các nước về vấn đề bảo vệ
nguồn nước sạch hoặc coi vấn đề này như một trách nhiệm mang tính
quốc gia. Hiệp ước Liên Hợp Quốc năm 1997 về Luật “Sử dụng nguồn
nước quốc tế với mục đích phi hàng hải” mà theo đó quy định rằng các
nguồn nước liên quốc gia phải được đưa vào sử dụng một cách cân bằng
bảo đảm lợi ích giữa các nước có liên quan và phải tính đến việc bảo vệ
đúng mức những nguồn nước này. Nhưng trên thực tế, đạo luật này hiện
vẫn chưa được thi hành. Tuy nhiên, tầm quan trọng đối với việc bảo vệ
nguồn nước sạch đã và đang được nhận thức trong những công cụ quốc
tế không mang tính trói buộc. Trong chương 18 về “ Bảo vệ chất lượng
và cung cấp nguồn nước sạch: Áp dụng cách tiếp cận tổng hợp đến quá
trình phát triển, quản lý và sử dùng nguồn nước” của Chương trình nghị
sự 21 (Agenda 21), đã nêu rõ: để bảo đảm nguồn nước có chất lượng
được cung cấp một cách đầy đủ cho toàn bộ dân số trên hành tinh này,
thì phải bảo tồn các chức năng thủy văn, sinh học và hóa học của hệ sinh
thái song song với việc điều chỉnh các hoạt động của con người để thích
ứng được với khả năng có hạn của thiên nhiên cũng như chống lại các
bệnh tật do nước gây ra.
Liên quan đến nguồn nước dưới đất, vào tháng 12 năm 2008 UNGA
(United Nation General Assembly) đã thông qua Nghị quyết
A/RES/63/124 về Luật “Các tầng chứa nước liên biên giới” nhằm
khuyến khích các nước đi đến các thỏa thuận song phương hoặc mang
tính địa phương để quản lý bền vững các tầng chứa nước giữa các quốc
gia này.
Ở cấp độ địa phương, hiện đã có một lượng lớn các cam kết liên quan
đến những vấn đề về chất lượng nguồn nước như Hiệp ước UNECE năm
1992 về Bảo vệ và sử dụng nguồn nước và hồ nước liên biên giới hay
Nghị định thư năm 2000 về vấn đề chia sẻ nguồn nước trong cộng động
phát triển Nam Phi (SADC).
Cộng đồng chung Châu Âu đã thành lập khung làm việc đối với Hoạt
động cộng đồng trong lĩnh vực tài nguyên nước trong Chị thỉ
2000/60/EC của Nghị viện Châu Âu. Mục tiêu dài hạn của bản chỉ thị
này là ngăn ngừa sự suy thoái của nguồn nước và đưa vào sử dụng các
thước đo cần thiết để đạt được một điều kiện nguồn nước tốt ở toàn
Châu Âu đến năm 2015.