1
LỜI NÓI ĐẦU
Nước ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ, nhất là khi gia nhập vào Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) ngày 8 tháng 11 năm 2006. Từ khi gia nhập đến nay
chưa đầy 1 năm nhưng tốc độ tăng trưởng nền kinh tế của nước ta đạt kết quả khá
tốt, ước tính tốc độ tăng trưởng kinh tế năm nay vào khoảng 8%. Hoạt động kinh tế
hiện nay diễn ra rất sôi động với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong
nước cũng như của nước ngoài.
Trên thị trường tiền tệ có nhiều diễn biến phức tạp với sự tham gia của nhiều
ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh tại Việt Nam. Sự
xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã tạo thêm áp
lực cạnh tranh đối với các ngân hàng trong nước. Để có thể đứng vững và phát triển
các ngân hàng trong nước hiện nay đang nổ lực nâng cao chất lượng phục vụ, mở
rộng hoạt động kinh doanh ra khắp các địa phương.
Các ngân hàng cũng không ngừng hoàn thiện công tác tổ chức hạch toán kế
toán tại ngân hàng mình bởi lẽ công tác tổ chức hạch toán kế toán tại ngân hàng có một
vị trí rất quan trọng nó gắn liền với hoạt động giao dịch tại ngân hàng. Các nhân viên
kế toán tại ngân hàng không những làm công tác hạch toán mà còn thực hiện hoạt động
kinh doanh chính của ngân hàng là huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả. Thái độ và
phong cách làm việc của các nhân viên kế toán sẽ tác động trực tiếp đến lòng tin, sự hài
lòng của khách hàng đối với ngân hàng. Do vậy, việc tổ chức tốt công tác tổ chức hạch
toán kế toán tại ngân hàng là vấn đề hết sức quan trọng.
Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác tổ chức hạch toán kế toán tại ngân
hàng và được sự đồng ý của Ban Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển
Nông thôn Huyện Đăk Hà đã hướng tôi nghiên cứu đề tài:
“ Tìm hiểu công tác tổ chức hạch toán kế toán tại Ngân hàng Nông
nghiệp & Phát triển Nông thôn Huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum”
Đề tài ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo gồm có 3
chương sau:
2
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác tổ chức hạch toán kế toán tại ngân
hàng.
Chương 2: Thực trạng công tác tổ chức hạch toán kế toán tại NHN0 &
PTNT Đăk Hà.
Chương 3: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức hạch
toán kế toán tại NHN0 & PTNT Đăk Hà.
Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô Chu Thị
Lê Dung và các thầy cô khoa Kinh tế, cũng như sự giúp đỡ của các cô, chú, anh chị
tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Huyện Đăk Hà đã tạo điều kiện
tốt nhất và thuận lợi nhất giúp tôi hoàn thành đề tài này.
Nha Trang, tháng 11 năm 2007
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thúy Hằng
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN
NGÂN HÀNG
1.1. Những vấn đề chung về Ngân hàng thương mại:
a. Khái niệm:
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương
tiện thanh toán.
b. Đặc trưng:
- Ngân hàng thương mại là một tổ chức cho phép nhận ký thác của công
chúng với trách nhiệm hoàn trả.
- Ngân hàng thương mại là tổ chức được phép sử dụng ký thác của công
chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác.
c. Hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam:
* Dựa vào hình thức sở hữu:
- Ngân hàng thương mại quốc doanh: là ngân hàng được thành lập 100%
vốn ngân sách nhà nước, bao gồm:
+ Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn.
+ Ngân hàng Công thương Viêt Nam (ICBV).
+ Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam (BIDV).
+ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank).
+ Ngân hàng phục vụ người nghèo (VBP).
- Ngân hàng thương mại cổ phần: là ngân hàng thương mại được thành lập
dưới hình thức công ty cổ phần, trong đó một cá nhân hay pháp nhân chỉ được sở
hữu một số cổ phần nhất định theo quy định của NHTM Việt Nam. Đối với cá nhân
không quá 10% số cổ phần, pháp nhân không quá 40% số cổ phần. Riêng các cổ
đông sáng lập thì phải tham gia tối thiểu 20% số cổ phần.
4
- Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập bằng vốn liên doanh
giữa một bên là Ngân hàng Việt Nam và một bên là Ngân hàng nước ngoài có trụ sở
tại Việt Nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam.
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo
pháp luật nước ngoài được phép mở chi nhánh tại Việt Nam, hoạt động theo
pháp luật Việt Nam.
* Dựa vào mục đích hoạt động:
- Ngân hàng thương mại: với nghiệp vụ truyền thống là huy động vốn dưới
hình thức ngắn hạn và cho vay ngắn hạn dưới hình thức chiết khấu thương phiếu là
chính. Tuy nhiên, do thị trường tiền tệ ngày càng phát triển, dần dần các ngân hàng
này đi vào kinh doanh tổng hợp làm cả nghiệp vụ huy động vốn và cho vay trung
dài hạn và làm gần như tất cả các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng.
- Ngân hàng phát triển: nét đặc trưng nổi bật của những ngân hàng này là
tập trung huy động vốn trung dài hạn và đầu tư trung dài hạn vì sự nghiệp phát
triển. Hoạt động của ngân hàng này chủ yếu là đầu tư trực tiếp qua các dự án.
- Ngân hàng đầu tư: hoạt động với mục tiêu đầu tư trung dài hạn, cũng vì sự
nghiệp phát triển nhưng thông qua hình thức đầu tư gián tiếp qua giấy tờ có giá.
Hoạt động của loại ngân hàng này gần với nghiệp vụ chứng khoán.
- Ngân hàng chính sách: thông thường là những ngân hàng thương mại
100% vốn nhà nước hoặc ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước được lập ra để
phục vụ một hoặc một số chính sách của nhà nước (như Ngân hàng phục vụ người
nghèo, Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng Sông Cửu Long…). Loại ngân hàng
này hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, nó được tạo vốn dưới hình thức đặc thù
để cho vay ưu đãi hoặc tạo vốn bình thường để cho vay ưu đãi nhưng được Nhà
nước bù phần chênh lệch lãi suất.
- Ngân hàng hợp tác: là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được
các thành viên tự nguyện lập nên không phải vì mục đích lợi nhuận mà vì yêu cầu
tương trợ lẫn nhau về vốn và dịch vụ ngân hàng.
5
1.2. Khái quát chung về kế toán ngân hàng:
1.2.1. Đối tượng, nhiệm vụ của kế toán ngân hàng:
1.2.1.1. Khái niệm:
Kế toán ngân hàng là một công cụ để tính toán, ghi chép bằng con số phản
ánh và giám đốc toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ thuộc ngành ngân hàng.
1.2.1.2. Đối tượng của kế toán ngân hàng:
Trong nền sản xuất xã hội, ngân hàng được xác định là ngành kinh tế tổng
hợp và bảo quản một khối lượng tài sản rất lớn của bản thân ngân hàng cũng như
của toàn xã hội gửi tại ngân hàng. Để quản lý tốt khối lượng tài sản này, ngành ngân
hàng dùng công cụ kế toán để ghi chép, phản ánh toàn bộ số tài sản (vốn) trong quá
trình hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của mình.
Như vậy, cũng như các ngành kinh tế khác, đối tượng của kế toán ngân hàng
là vốn (tài sản) cũng như sự vận động của nó trong quá trình thực hiện các mặt
nghiệp vụ của ngân hàng.
Đối tượng của kế toán ngân hàng gồm 2 mặt, đó tài sản và nguồn gốc hình
thành tài sản của ngân hàng hay sử dụng vốn và nguồn vốn của ngân hàng.
a. Nguồn hình thành tài sản (Nguồn vốn):
Nguồn vốn của ngân hàng được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau từ lúc
thành lập đến suốt cả quá trình hoạt động.
-Vốn tự có và coi như tự có, bao gồm:
+ Vốn điều lệ: là số vốn riêng của từng ngân hàng, được ghi vào điều lệ hoạt
động của mỗi ngân hàng. Tùy theo từng thời kỳ khác nhau mà vốn điều lệ được
hình thành ở mỗi loại hình TCTD khác nhau dựa trên vốn pháp định do NHNN quy
định. Vốn pháp định là số vốn tối thiểu cần phải có do luật pháp quy định để thành
lập một doanh nghiệp hay một ngân hàng.
+ Quỹ dự trữ: là loại quỹ được trích lập từ lợi nhuận ròng của ngân hàng
nhằm mục đích dự trữ bổ sung vốn điều lệ của ngân hàng.
+ Các loại quỹ của ngân hàng: Quỹ đầu tư phát triển, quỹ nghiên cứu đào tạo,
quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ để mua sắm TSCĐ hình thành từ quỹ phúc lợi…
6
+ Lãi chưa phân phối (chưa chia): cũng được xem như vốn coi như tự có của
ngân hàng.
+Vốn cố định: đối với các ngân hàng quốc doanh vốn cố định do Ngân sách
nhà nước cấp phát. Đây là nguồn vốn xây dựng cơ bản, mua sắm TSCĐ.
- Vốn quản lý và huy động: đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
ngân hàng, thể hiện dưới nhiều dạng:
+ Số dư trên các tài khoản tiền gửi thanh toán.
+ Số dư trên các tài khoản tiết kiệm.
+ Vốn trong thanh toán.
+ Vốn thu được từ việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng…
- Các loại vốn khác: Vốn tiếp nhận, ủy thác…
b. Sử dụng vốn (Tài sản):
Sau khi hình thành nguồn vốn, ngân hàng sử dụng vốn vào các mục đích sau đây:
- Chi phí để mua sắm TSCĐ, phương tiện làm việc.
- Chi phí cho công tác quản lý tại ngân hàng: lương, điện nước, điện thoại…
- Cấp vốn cho đơn vị phụ thuộc (nếu có).
- Gửi tiền tại Ngân hàng nhà nước và TCTD.
- Nộp quỹ dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng nhà nước.
- Sử dụng vốn để cho vay: đây là số vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng sử
dụng vốn tại ngân hàng. Để đảm bảo ngân hàng thu được nợ thì khi xem xét cho vay
phải tuân thủ các nguyên tắc cho vay đúng mục đích, cho vay có hiệu quả, tiền vay
phải có tài sản đảm bảo và được thu hồi đúng hạn cả vốn lẫn lãi. Ngoài ra, NHNN còn
quy định TCTD không được cho một khách hàng vay quá 15% vốn tự có…
- Dùng vốn để hùn vốn liên doanh, liên kết, mua cổ phần. Tuy nhiên, chỉ
được dùng vốn tự có, không được dùng vốn huy động vào mục đích này. Không
được hùn vốn vào một công ty, xí nghiệp, doanh nghiệp quá x% (theo quy định của
NHNN) vốn tự có của đơn vị đó.
- Sử dụng vốn để kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, đá quý khi được NHNN cho phép.
- Sử dụng vốn vào các mục đích khác.
7
1.2.1.3. Nhiệm vụ của kế toán ngân hàng:
Để phát huy đầy đủ vai trò của mình, kế toán ngân hàng phải thực hiện các
nhiệm vụ sau:
a. Ghi nhận, phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh thuộc về hoạt động nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân hàng theo đúng Pháp
lệnh kế toán – thống kê của Nhà nước và các chế độ, thể lệ kế toán ngân hàng.
b. Phân loại nghiệp vụ, tổng hợp số liệu theo đúng phương pháp kế toán và
theo những tiêu chuẩn nhất định nhằm cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính
xác, kịp thời để phục vụ công tác lãnh đạo, thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, đồng
thời quản lý chỉ đạo hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
c. Giám sát quá trình sử dụng tài sản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các
loại tài sản thông qua kiểm soát trước (tiền kiểm) các nghiệp vụ bên Nợ và bên Có
ở từng đơn vị ngân hàng cũng như toàn bộ hệ thống, góp phần tăng cường kỷ luật
tài chính, củng cố chế độ hạch toán kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
d. Tổ chức giao dịch phục vụ khách hàng một cách khoa học, văn minh, giúp
đỡ khách hàng nắm được những nội dung cơ bản của kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng
nói chung, và kỹ thuật nghiệp vụ kế toán ngân hàng nói riêng góp phần thực hiện
chiến lược khách hàng của ngân hàng.
1.2.2. Đặc điểm của kế toán ngân hàng:
Nằm trong hệ thống hạch toán kế toán của nền kinh tế, hạch toán kế toán
ngân hàng phải tuân thủ những nguyên tắc chung của chế độ kế toán nói chung. Tuy
nhiên, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của hoạt động ngân hàng nên kế toán ngân
hàng có những đặc điểm riêng, đó là:
1.2.2.1. Tính tổng hợp của kế toán ngân hàng:
Đặc điểm này thể hiện ở chỗ hạch toán kế toán ngân hàng không chỉ phản
ánh tổng hợp hoạt động của bản thân ngân hàng mà nó còn phản ánh tổng hợp hoạt
động của nền kinh tế thông qua các quan hệ tín dụng, thanh toán…giữa ngân hàng
với các đơn vị, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Những số liệu do kế toán ngân hàng cung cấp là những thông tin kinh tế quan
8
trọng giúp cho việc chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh doanh ngân hàng và góp
phần phục vụ lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động kinh tế, tài chính quốc gia.
1.2.2.2. Giao dịch gắn liền với xử lý nghiệp vụ:
Khác với kế toán các ngành khác, trong quá trình xử lý các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh để hạch toán vào các loại sổ sách thích hợp, kế toán ngân hàng phải tiến
hành đồng thời một lúc hai việc là giao dịch với khách hàng để tiếp nhận chứng từ
kế toán và tiến hành kiểm soát, xử lý ngay các nghiệp vụ đó để đảm bảo tính đúng
đắn trước khi vào sổ.
1.2.2.3. Tính kịp thời chính xác cao của kế toán ngân hàng:
Do ngân hàng thực hiện vai trò trung gian tín dụng, trung gian thanh toán
trong nền kinh tế nên tính kịp thời và chính xác của kế toán ngân hàng phải ở mức
độ cao. Đặc điểm này thể hiện ở chỗ kế toán ngân hàng tổ chức xử lý hạch toán
ngay khi có các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, hàng ngày lập bảng cân đối tài khoản
để kiểm tra mức độ chính xác, đầy đủ sau một ngày hoạt động, tổ chức cung cấp số
liệu giao dịch, gửi các giấy báo Nợ, báo Có kịp thời cho khách hàng để các đơn vị,
tổ chức kinh tế làm căn cứ hạch toán tại đơn vị.
1.2.2.4. Có khối lượng nghiệp vụ lớn, vốn thường xuyên vận động:
Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại các ngân hàng phụ thuộc vào hoạt động
của các đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân mở tài khoản tại ngân hàng. Nền kinh tế
ngày càng phát triển thì hoạt động của các doanh nghiệp càng lớn, do đó khối lượng
các giao dịch với ngân hàng ngày càng nhiều. Do khối lượng nghiệp vụ lớn nên số
lượng chứng từ kế toán cũng rất nhiều và tổ chức luân chuyển cũng rất phức tạp.
1.2.2.5. Kế toán ngân hàng dùng tiền tệ làm thước đo để hạch toán là
chính:
Đặc điểm này xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ cũng như nội dung kinh
doanh của ngân hàng quyết định. Công thức hoạt động của ngân hàng là T - T’ nên
suốt quá trình tổ chức hạch toán: từ khâu đầu- huy động vốn tiền tệ đến khâu sử
dụng (cho vay) vốn của ngân hàng hoàn toàn tồn tại dưới hình thái tiền tệ, nên kế
9
toán ngân hàng dùng tiền tệ làm đơn vị đo lường chủ yếu để tổ chức công tác kế
toán tại các đơn vị của mình.
1.2.3. Vai trò của kế toán ngân hàng:
1.2.3.1. Cung cấp thông tin tổng hợp để phục vụ quản lý nền kinh tế:
Kế toán ngân hàng có quan hệ mật thiết với các hoạt động của nền kinh tế.
Mọi hoạt động kinh tế, tài chính của doanh nghiệp đều được phản ánh thông qua
các tài khoản mở tại ngân hàng. Vì vậy, số liệu ghi chép của kế toán vừa phản ánh
được các hoạt động của các ngành khác về tình hình kinh tế, tài chính, sự biến động
của vật tư, lao động, tiền vốn, thu nhập, chi phí, lợi nhuận… Từ đó các đơn vị có
đầy đủ thông tin để đề ra các quyết định điều hành kịp thời, góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, các cơ quan quản lý Nhà nước
trong lĩnh tài chính, kế hoạch, thống kê cũng cần được cung cấp thông tin kế toán
ngân hàng để xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, xây dựng chế độ quản lý kinh tế tài
chính. Do khả năng phản ánh một cách tổng hợp nên kế toán ngân hàng đã giúp
Đảng và Nhà nước nắm được tình hình hoạt động của nền kinh tế, từ đó đề ra được
phương hướng phát triển kinh tế một cách xác thực và đúng đắn.
1.2.3.2. Bảo vệ an toàn tài sản:
Bảo vệ tài sản là trách nhiệm chung của kế toán bất kỳ ngành nào. Song kế
toán ngân hàng càng có vai trò quan trọng hơn, vì ngoài việc bảo vệ an toàn tài sản
của bản thân ngân hàng còn phải bảo vệ tài sản của Nhà nước, của khách hàng gửi
tại ngân hàng. Do đó, kế toán ngân hàng phải ghi chép, kiểm soát chặt chẽ mọi loại
tài sản để trách mất mát thiếu hụt về mặt số lượng, và nâng cao hiệu quả của mọi tài
sản trong quá trình sử dụng.
1.2.3.3 . Đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, quản trị ngân hàng:
Kế toán được tiến hành trên cơ sở hoạt động của các mặt nghiệp vụ như:
nghiệp vụ tiền tệ, tín dụng, thanh toán… do vậy, số liệu của kế toán đã phản ánh
được kết quả các mặt hoạt động nghiệp vụ của từng đơn vị cũng như toàn ngành
ngân hàng. Qua hệ thống số liệu này có thể chỉ ra những kết quả đạt được cũng như
10
những tồn tại trong quá trình hoạt động, từ đó các nhà lãnh đạo sử dụng nó như là
một công cụ hữu hiệu để chỉ đạo, điều hành, quản trị ngân hàng có hiệu quả.
1.3. Cơ sở lý luận về công tác tổ chức hạch toán kế toán ngân hàng:
1.3.1. Những vấn đề chung về công tác tổ chức hạch toán kế toán:
1.3.1.1. Khái niệm:
Tổ chức hạch toán kế toán được hiểu là những mối liên hệ giữa các yếu tố
cấu thành bản chất của hạch toán kế toán đó là chứng từ kế toán, đối ứng tài khoản,
tính giá, tổng hợp cân đối kế toán. Do đó, nội dung cơ bản của tổ chức hạch toán kế
toán bao gồm:
- Tổ chức chứng từ.
- Tổ chức tài khoản.
- Tổ chức bộ sổ kế toán.
- Tổ chức công tác kế toán.
- Tổ chức bộ máy kế toán.
- Tổ chức báo cáo.
Mỗi một tổ chức nói trên đều chứa đựng những yếu tố cơ bản của hệ thống
hạch toán kế toán và đều là những mặt không thể tách rời trong tổ chức hạch toán
kế toán. Bản thân mỗi mặt lại chứa đựng các yếu tố cơ bản cấu thành bản chất của
hạch toán kế toán và tạo thành một hình thức vật chất hay một nghề hoặc một hệ
thống tác nghiệp riêng của hạch toán kế toán.
1.3.1.2. Nguyên tắc tổ chức công tác hạch toán kế toán:
Hạch toán kế toán là hoạt động quản lý đặc biệt sản xuất ra các thông tin có
ích về vốn phục vụ cho quản lý nên hiệu quả của tổ chức hạch toán kế toán cần phải
nhìn nhận một cách toàn diện. Do vậy, tổ chức hạch toán kế toán cần phải tôn trọng
các nguyên tắc sau:
a. Bảo đảm tính thống nhất giữa kế toán và quản lý:
Kế toán là một phân hệ trong hệ thống quản lý với chức năng thông tin và
kiểm tra về hoạt động tài chính của đơn vị hạch toán. Vì vậy, nguyên tắc tổ chức
11
hạch toán kế toán phải đảm bảo tính thống nhất chung trong cả hệ thống quản lý,
được thể hiện:
- Bảo đảm tính thống nhất giữa đơn vị hạch toán kế toán với đơn vị quản lý.
- Tôn trọng tính hoạt động liên tục của đơn vị quản lý.
- Thống nhất mô hình tổ chức kế toán với mô hình tổ chức kinh doanh và tổ
chức quản lý (trước hết cần đi sát hoạt động kinh doanh và đáp ứng yêu cầu thông
tin cho các bộ phận quản lý khác).
- Tăng tính hấp dẫn của thông tin kế toán với quản lý, trên cơ sở đó tăng dần
quy mô thông tin và sự hài hòa giữa kế toán và quản lý.
- Bảo đảm hoạt động quản lý phải gắn với kế toán và không được tách rời hoạt
động kế toán và doanh nghiệp không được hoạt động nếu không có bộ phận kế toán.
b. Đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống kế toán (giữa đối tượng với
phương pháp, hình thức và bộ phận kế toán) trong đơn vị:
Các tính thống nhất đó được thể hiện như sau:
- Trong mỗi phần hành kế toán cần phải tổ chức khép kín quy trình kế toán.
Lúc đó các phương pháp riêng biệt và mối quan hệ giữa chúng phải cụ thể hóa thích
hợp với từng phần hành cụ thể.
- Tùy tính phức tạp của đối tượng, phương pháp kế toán để lựa chọn hình
thức kế toán thích hợp (các đơn vị không theo dõi nguồn vốn thì không cần kế toán
kép, các đơn vị nhỏ không cần tách nhỏ quy trình kế toán).
- Tùy tính phức tạp của đối tượng, phương pháp kế toán để lựa chọn hình thức
kế toán và bộ máy kế toán và ngược lại khi trình độ cán bộ kế toán được nâng cao có
thể tăng thêm tương ứng mức độ khoa học của phương pháp và hình thức kế toán.
c. Đảm bảo tính quốc tế của nghề nghiệp kế toán như một ngành kỹ
thuật, quản lý chuyên sâu:
- Các văn bản pháp lý và tác nghiệp kế toán cũng như trang bị kỹ thuật phải
hướng đến các chuẩn mực kế toán quốc tế.
- Phải tôn trọng các quy ước và chuẩn mực kế toán quốc tế: đơn vị hạch toán,
giá hạch toán, tính thận trọng, nguyên tắc hạch toán liên tục…
12
1.3.2. Nội dung của công tác tổ chức hạch toán kế toán ngân hàng:
1.3.2.1. Tổ chức bộ máy kế toán (tổ chức lao động kế toán ngân hàng):
Tổ chức lao động kế toán ngân hàng là một nội dung quan trọng trong tổ
chức công tác kế toán ngân hàng, vì nếu tổ chức tốt lao động kế toán sẽ có tác dụng
trực tiếp đến nâng cao chất lượng kế toán, năng suất lao động và nâng cao chất
lượng phục vụ khách hàng.
Ở mỗi đơn vị kế toán ngân hàng có giao dịch với khách hàng, bộ phận kế
toán được tổ chức thành phòng kế toán, trong phòng kế toán thường được tổ chức
thành 3 bộ phận:
- Bộ phận kế toán giao dịch (quầy giao dịch): là bộ phận trực tiếp giao
dịch với khách hàng để tiếp nhận chứng từ, kiểm soát, xử lý chứng từ và hạch toán
vào các tài khoản có liên quan tới khách hàng như tài khoản tiền gửi, tài khoản cho
vay, tài khoản phục vụ thanh toán… các nhân viên kế toán làm việc ở quầy giao
dịch gọi là thanh toán viên. Mỗi thanh toán viên giữ sổ tài khoản chi tiết về tiền gửi,
cho vay của một số khách hàng.
- Bộ phận kiểm soát: Bộ phận kiểm soát làm nhiệm vụ kiểm soát lại (kiểm
soát sau) các chứng từ kế toán do các thanh toán viên đã kiểm soát trước và các tài
liệu kế toán khác.
Bộ phận kiểm soát bao gồm các kiểm toán viên và Kế toán trưởng. Ở mỗi
ngân hàng, ngoài bộ phận kiểm soát của kế toán còn có bộ phận kiểm soát chung để
kiểm soát toàn bộ hoạt động của đơn vị trong đó có bộ phận kế toán.
- Bộ phận kế toán tổng hợp: Bộ phận này đảm nhiệm phần kế toán tổng
hợp như nhật ký chứng từ, sổ tổng hợp, lập các loại báo cáo kế toán, thống kê…
Ở những ngân hàng đã thực hiện kế toán máy thì có 2 cách tổ chức:
+ Trang bị máy tính đến từng nhân viên kế toán, đặc biệt là các thanh toán
viên để thực hiện tin học hóa quầy giao dịch và khâu kế toán tổng hợp.
+ Thành lập phòng điện toán bên cạnh phòng kế toán để phục vụ khâu kế
toán và tổng hợp số liệu trên máy.
13
Toàn bộ nghiệp vụ kế toán trong một ngân hàng đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Kế toán trưởng.
1.3.2.2. Tổ chức chứng từ kế toán ngân hàng:
1.3.2.2.1. Khái quát chung về chứng từ kế toán ngân hàng:
a. Khái niệm:
Chứng từ kế toán ngân hàng là các bằng chứng để chứng minh các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh hoàn thành tại ngân hàng và là cơ sở để hạch toán vào các tài
khoản kế toán tại ngân hàng.
Xuất phát từ nội dung của các mặt nghiệp vụ cũng như hoạt động tài
chính ngân hàng, ngành ngân hàng không sử dụng loại chứng từ do Bộ Tài
chính ban hành mà xây dựng hệ thống bản chứng từ riêng cho phù hợp với hoạt
động của ngành mình.
Có nhiều cơ sở để phân loại chứng từ kế toán ngân hàng. Tuy nhiên nếu dựa
vào trình độ chuyên môn kỹ thuật thì chứng từ kế toán ngân hàng gồm 2 loại:
- Chứng từ giấy: là loại chứng từ được lập trên giấy.
- Chứng từ điện tử: là những số liệu, thông tin trên các băng từ, đĩa từ.
b. Ý nghĩa của chứng từ kế toán ngân hàng:
- Đối với việc ghi chép vào sổ sách kế toán:
Chứng từ là cơ sở duy nhất có thể cho phép ghi chép các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh vào sổ sách kế toán, mặt khác chúng còn dùng làm căn cứ để đối chiếu,
kiểm tra độ chính xác, trung thực của việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
vào sổ sách kế toán.
- Đối với nhiệm vụ bảo vệ tài sản:
Góp phần ngăn ngừa các hiện tượng tham ô, lợi dụng tài sản, tiền vốn của
các đơn vị, tổ chức kinh tế và xã hội. Theo nguyên tắc kế toán thì các chứng từ
trước khi hạch toán vào sổ sách đều phải qua các khâu kiểm soát và xử lý chứng từ,
qua đó ngăn ngừa các hiện tượng giả mạo, tẩy xóa, sửa chữa chứng từ để lợi dụng
tham ô, lấy cắp tiền trên tài khoản.
- Đối với công tác giám đốc, phân tích hoạt động kinh tế:
14
Do chứng từ kế toán ngân hàng phản ánh được một cách đầy đủ nhất mọi
hoạt động nguồn vốn, sử dụng vốn, nên nó cung cấp được các chỉ tiêu kinh tế, tài
chính phục vụ cho công tác phân tích, giám đốc hoạt động kinh tế.
- Đối với công tác quản lý tài chính của ngành ngân hàng:
Thông qua nội dung chứng từ thuộc hoạt động tài chính ngân hàng sẽ kiểm
soát được mọi hoạt động tài chính của ngân hàng, đặc biệt là các khoản chi phí, biết
được các khoản chi đó là đúng hay sai so với chế độ của từng đơn vị ngân hàng
cũng như trong toàn hệ thống, từ đó giúp cho ngân hàng quản lý hoạt động tài chính
có hiệu quả.
- Đối với khách hàng:
Thông qua việc kiểm soát nội dung trên các chứng từ chi trả cho khách hàng,
kế toán ngân hàng có thể phát hiện các trường hợp vi phạm chế độ quản lý tài chính
hoặc chứng từ giả mạo, trên cơ sở đó giúp khách hàng quản lý tài sản, tiền vốn của
mình một cách tốt nhất.
1.3.2.2.2. Nội dung của tổ chức chứng từ kế toán ngân hàng:
a. Những nguyên tắc chung về lập chứng từ kế toán ngân hàng:
Chứng từ là căn cứ pháp lý để tổ chức hạch toán trong ngân hàng nên trong quá
trình lập chứng từ phải thực hiện những quy định mang tính nguyên tắc sau đây:
- Lập chứng từ phải đảm bảo tính kịp thời, chính xác, trung thực.
- Phải sử dụng hệ thống bản chứng từ do ngân hàng in ấn và phát hành.
- Chứng từ khi lập phải theo đúng quy định trong Luật kế toán do Bộ Tài
chính ban hành.
- Chứng từ của khách hàng nộp vào ngân hàng phải do khách hàng tự lập lấy,
nhân viên ngân hàng không lập thay khách hàng.
- Đối với chứng từ điện tử khi tạo tin trên chứng từ phải thực hiện theo đúng
quy định của chứng từ điện tử như sau:
1. Tên gọi của chứng từ điện tử.
2. Số, ký hiệu chứng từ và ký hiệu loại nghiệp vụ.
3. Ngày, tháng năm lập chứng từ điện tử, ngày giá trị…
15
4. Tên, địa chỉ, số hiệu tài khoản của đơn vị, cá nhân trả tiền.
5. Tên, địa chỉ, mã ngân hàng thanh toán.
6. Tên, địa chỉ, số hiệu tài khoản của đơn vị cá nhân thụ hưởng số tiền trên
chứng từ điện tử.
7. Tên, địa chỉ, mã ngân hàng bên thụ hưởng.
8. Nội dung của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
9. Các chỉ tiêu về số lượng và giá trị.
10. Chữ ký điện tử của người lập, Chủ tài khoản và ngân hàng.
Chứng từ điện tử được chuyển hóa thành chứng từ giấy hoặc ngược lại để
phục vụ yêu cầu thanh toán và hạch toán, nhưng việc chuyển hóa phải đảm bảo sự
khớp đúng giữa chứng từ dùng làm căn cứ để chuyển hóa và chứng từ được chuyển
hóa đúng mẫu quy định và đảm bảo tính pháp lý của chứng từ.
Đối với chứng từ điện tử ghi trên vật mang tin phải ghi tên các tệp chứa
chứng từ, vị trí chứng từ trong tệp, tên các tệp này được bảo mật và lưu trữ trong hồ
sơ chứng từ điện tử.
b.Chữ ký trên chứng từ kế toán ngân hàng:
Chữ ký trên chứng từ kế toán ngân hàng chia làm 2 loại là chữ ký của khách
hàng và chữ ký của ngân hàng:
- Chữ ký của khách hàng:
Chữ ký của khách hàng bao gồm chữ ký của Chủ tài khoản, Kế toán trưởng.
Riêng giấy nộp tiền mặt và ngân phiếu thanh toán vào tài khoản tiền gửi thì cần có
chữ ký của người nộp tiền.
Chữ ký của Chủ tài khoản và Kế toán trưởng đơn vị cùng mẫu con dấu phải
được đăng ký trước tại ngân hàng đơn vị mở tài khoản.
- Chữ ký của ngân hàng:
Là chữ ký của cán bộ tham gia kiểm soát, xử lý, duyệt chứng từ bao gồm chữ
ký của thanh toán viên giữ tài khoản khách hàng, chữ ký của kiểm soát, chữ ký của
Giám đốc ngân hàng. Chữ ký của ngân hàng thường nằm ở phần chứng từ ghi sổ.
16
Các chữ ký này phải đăng ký với kế toán trưởng, khi ký trên chứng từ phải giống
mẫu đăng ký.
c. Kiểm soát chứng từ:
Chính xác, trung thực là yêu cầu khi lập chứng từ. Tuy nhiên, do nhiều lý do
khác nhau nên đã dẫn đến lập chứng từ sai, hoặc cố ý giả mạo chứng từ để lấy cắp
tiền vì vậy cần thiết phải kiểm soát chứng từ.
- Kiểm soát trước (tiền kiểm): do thanh toán viên thực hiện.
Khi nhận được chứng từ của khách hàng nộp vào, hoặc chứng từ do bản thân
ngân hàng lập, trước khi hạch toán vào sổ sách thanh toán viên phải kiểm soát tính
chất hợp lệ, hợp pháp của chứng từ như: màu mực, các yếu tố ghi trên chứng từ,
mẫu dấu, chữ ký của Chủ tài khoản, số hiệu tài khoản ghi Nợ, ghi Có, số tiền trên
chứng từ, số dư tài khoản của đơn vị, nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh…
- Kiểm soát sau (hậu kiểm): do kiểm soát viên hoặc kế toán trưởng thực hiện.
Kiểm soát viên và Kế toán trưởng là người được Giám đốc ngân hàng ủy
quyền để kiểm soát tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh phản ánh trên các chứng
từ kế toán và cho phép những chứng từ này được hoàn thành tại cơ quan ngân hàng
(trừ những chứng từ đòi hỏi có chữ ký duyệt của Giám đốc ngân hàng), đồng thời
phải chịu trách nhiệm về mặt pháp lý đối với những chứng từ do kiểm toán viên và
kế toán trưởng kiểm soát. Mục đích của kiểm soát sau là nhằm kiểm soát lại một lần
nữa tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ (trừ kiểm soát số dư tài khoản của đơn vị,
mẫu dấu, chữ ký của Chủ tài khoản), kiểm soát công việc và chữ ký của thanh toán
viên để phát hiện tất cả những sơ suất của thanh toán viên trong quá trình kiểm soát
trước nhằm đảm bảo cho chứng từ được chính xác.
Sau khi hoàn thành việc kiểm soát, tất cả những người có trách nhiệm kiểm
soát chứng từ phải ký tên vào đúng chỗ quy định trên chứng từ.
d. Tổ chức luân chuyển chứng từ:
- Ý nghĩa của việc luân chuyển chứng từ:
17
+ Đảm bảo cho quá trình hoạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh một
cách kịp thời, chính xác góp phần tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn của mỗi đơn
vị, tổ chức kinh tế cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
+ Góp phần nâng cao năng suất lao động của bản thân ngân hàng cũng như
của khách hàng.
+ Tăng cường được khâu kiểm soát chứng từ góp phần ngăn chặn các hành
vi vi phạm kỷ luật hành chính, tham ô lợi dụng, bảo vệ an toàn tài sản của ngân
hàng cũng như của khách hàng và của toàn xã hội đang bảo quản tại ngân hàng.
+ Làm tốt chức năng thông tin phục vụ cho công tác quản lý và chỉ đạo hoạt
động kinh doanh ngân hàng, nâng cao chất lượng công tác kế toán.
- Nguyên tắc luân chuyển chứng từ kế toán ngân hàng:
+ Phải tuân theo trật tự giai đoạn mà chứng từ phải trải qua để kiểm soát
chứng từ một cách chặt chẽ, rút ngắn một cách tối đa thời gian luân chuyển ở từng
khâu. Phải phân biệt rõ từng loại chứng từ (vị trí và đặc điểm) để đảm bảo quy trình
luân chuyển của từng loại chứng từ đó.
+ Đối với chứng từ thu tiền mặt phải thực hiện nguyên tắc “thu tiền trước ghi
sổ sau”, tức là thủ quỹ sau khi đã thu đủ tiền, ký tên trên chứng từ, vào sổ quỹ sau
đó kế toán mới vào sổ sách kế toán.
+ Đối với chứng từ chi tiền mặt phải thực hiện “ghi sổ kế toán trước, chi tiền
sau”, tức là kế toán phải kiểm soát xem số dư tài khoản Có đủ khả năng chi trả
không, nếu đủ thì sau khi ghi sổ mới chuyển sang quỹ để chi tiền.
+ Đối với chứng từ chuyển khoản chỉ được ghi vào tài khoản bên Có sau khi
đã ghi vào tài khoản bên Nợ, hoặc biết chắc chắn tài khoản bên Nợ có đủ khả năng
thanh toán hoặc ghi Nợ - Có đồng thời một lúc khi đã thực hiện kế toán máy.
+ Đối với các chứng từ luân chuyển trong nội bộ kế toán ngân hàng (từ bộ
phận này sang bộ phận khác) phải do ngân hàng tự tổ chức luân chuyển lấy, không
nhờ khách hàng luân chuyển hộ. Chứng từ luân chuyển giữa các ngân hàng trong
thanh toán liên ngân hàng thì do bưu điện chuyển (thư, điện) hoặc chuyển tiền qua
mạng chuyển tiền nội bộ ngân hàng.
18
e.Tổ chức bảo quản, lưu trữ chứng từ kế toán ngân hàng:
- Đóng tập chứng từ:
Hàng ngày số lượng chứng từ phát sinh tại đơn vị ngân hàng rất lớn. Trước
khi đưa chứng từ vào kho lưu trữ, chứng từ phải được đóng thành tập. Tập chứng từ
này được gọi là tập nhật ký chứng từ.
- Bảo quản và lưu trữ chứng từ:
Chứng từ kế toán ngân hàng là những bằng chứng pháp lý cho việc xuất nhập
tài sản của ngân hàng cũng như của khách hàng nên phải được tổ chức bảo quản
một cách rất chặt chẽ theo đúng chế độ nhằm tránh hư hỏng, mất mát chứng từ.
+ Bảo quản chứng từ trong kỳ hạch toán: Trong tháng hoạt động, chứng từ
chưa đưa vào kho lưu trữ mà được bảo quản tại phòng kế toán. Tất cả các tập chứng
từ phải bảo quản trong quầy hay tủ có khóa chắc chắn và do một nhân viên kế toán
quản lý. Ai muốn mượn tập chứng từ phải được sự đồng ý của người quản lý và chỉ
được nghiên cứu tại chỗ, không đưa chứng từ ra khỏi phòng kế toán.
+ Lưu trữ chứng từ: Hết tháng, sau khi lập được bảng cân đối tài khoản tháng
toàn bộ chứng từ trong tháng phải đưa vào kho lưu trữ để bảo quản.
Kho lưu trữ phải bảo đảm chắc chắn, có thủ kho giữ chìa khóa. Ai muốn sử
dụng lại chứng từ phải được sự đồng ý của Kế toán trưởng và chỉ được sử dụng
trong trụ sở ngân hàng, không tách chứng từ ra khỏi tập.
1.3.2.2.3. Quy trình luân chuyển một số chứng từ kế toán trong ngân hàng:
a. Luân chuyển chứng từ trong nội bộ ngân hàng:
- Quy trình luân chuyển chứng từ thu tiền mặt:
6
5
4
3
2
1b 1a
Khách hàng
Kiểm soát viên
trước quỹ ( Kiểm
soát tiền mặt).
Thu ngân
(quỹ tiền
mặt)
Thanh toán viên
giữ tài khoản bên
Có
Nhật ký
chứng từ
Lưu trữ
chứng từ
7
19
Giải thích:
(1a): Khách hàng nộp giấy nộp tiền cho thanh toán viên giữ tài khoản của
mình để kiểm tra sơ bộ (chưa ghi sổ).
(1b): Khách hàng nộp tiền cho nhân viên thu ngân để kiểm đếm.
(2): Thanh toán viên chuyển giấy nộp tiền cho kiểm soát tiền mặt.
(3): Kiểm soát tiền mặt vào sổ nhật ký quỹ.
(4): Sau khi bộ phận thu ngân thu tiền xong, ký vào giấy nộp tiền sau đố
chuyển trả lại giấy nộp tiền cho kiểm soát tiền mặt.
(5): Kiểm soát tiền mặt kiểm soát lại giấy nộp tiền, sau đó chuyển cho thanh
toán viên để ghi vào tài khoản (ghi Có) của người nộp tiền.
(6): Sau khi hoàn thành vào sổ, thanh toán viên chuyển giấy nộp tiền cho bộ
phận nhật ký chứng từ.
(7): Bộ phận nhật ký chứng từ sau khi lên được tập nhật ký chứng từ và hoàn
thành đối chiếu khớp đúng giữa hạch toán phân tích và hạch toán tổng hợp sẽ
chuyển sang khâu lưu trữ bảo quản theo quy định.
- Quy trình luân chuyển chứng từ chi tiền mặt:
2 3
Giải thích:
(1): Khách hàng nộp séc lĩnh tiền mặt cho thanh toán viên giữ tài khoản của
mình để ghi Nợ tài khoản tiền gửi.
7
3
2
6
5
4
1
Khách hàng
Kiểm soát viên
trước quỹ ( Kiểm
soát tiền mặt).
Thu ngân
(quỹ tiền
mặt)
Thanh toán viên
giữ tài khoản
khách hàng
Nhật ký
chứng từ
Lưu trữ
chứng từ
20
Lưu trữ, bảo
qu
ản
5
4
3
2
1
Thanh toán viên
bên
Có
Thanh toán viên bên
Nợ
Nhật ký chứng từ
Kiểm soát viên
Khách hàng
(
Ủy nhiệm chi)
(2): Sau khi hoàn thành kiểm soát và ghi sổ, thanh toán viên chuyển séc cho
kiểm soát tiền mặt.
(3): Sau khi hoàn thành kiểm soát, vào sổ nhật ký quỹ, kiểm soát tiền mặt
chuyển séc cho thủ quỹ để chi tiền.
(4): Thủ quỹ kiểm soát séc lại một lần nữa và kiểm soát chứng minh thư sau
đó chi tiền cho khách hàng, ký vào nơi quy định.
(5): Sau khi hoàn thành chi tiền, vào sổ quỹ, thủ quỹ chuyển séc cho kiểm
soát tiền mặt.
(6): Kiểm soát tiền mặt kiểm soát lại một lần nữa, sau đó chuyển séc cho bộ
phận nhật ký chứng từ.
(7): Sau khi hoàn thành tập nhật ký chứng từ, đối chiếu giữa hạch toán phân
tích, hạch toán tổng hợp sẽ được chuyển sang khâu lưu trữ bảo quản theo quy định.
- Quy trình luân chuyển chứng từ chuyển khoản đơn giản (1 Nợ - 1 Có):
Giải thích:
(1): Khách hàng nộp chứng từ (ủy nhiệm chi) cho thanh toán viêngiuwx tài
khoản của khách hàng để ghi Nợ tài khoản của khách hàng.
(2): Sau khi Nợ tài khoản của khách hàng mua (chi trả) thanh toán viên bên
Nợ chuyển chứng từ cho thanh toán viên bên Có.
21
(3): Thanh toán viên bên Có sau khi vào sổ tài khoản (ghi có) của khách hàng
bán (được hưởng) sẽ chuyển chứng từ cho kiểm soát viên.
(4): Kiểm soát viên sau khi hoàn thành việc kiểm soát sẽ chuyển chứng từ
cho bộ phận nhật ký chứng từ.
(5): Bộ phận nhật ký chứng từ sau khi hoàn thành tập nhật ký chứng từ sẽ
chuyển toàn bộ sang bộ phận lưu trữ và bảo quản.
- Quy trình luân chuyển chứng từ chuyển khoản phức tạp (nhiều Nợ - một Có
hoặc ngược lại):
Giải thích:
(1): Khách hàng nộp chứng từ cho thanh toán viên giữ tài khoản của người
thụ hưởng (bảng kê nộp séc cùng 2 tờ séc) để kiểm soát xem có nộp vào đúng tài
khoản không (chưa ghi sổ).
(2): Sau khi kiểm soát, thanh toán viên giữ tài khoản Có của người thụ hưởng
chuyển toàn bộ chứng từ cho kiểm soát viên.
(3): Kiểm soát viên kiểm soát sơ bộ sau đó chuyển các tờ séc cho thanh toán
viên ghi tài khoản Nợ theo các tờ séc của người mua.
(4): Các thanh toán viên sau khi vào tài khoản Nợ (ghi nợ) theo các tờ séc sẽ
chuyển trả lại tờ séc cho kiểm soát viên.
(5): Kiểm soát viên kiểm soát lại một lần nữa sau đó chuyển bảng kê nộp séc
cho thanh toán viên ghi Có tài khoản của người bán.
5
6
7
8
2
1
7
4
Khách hàng
Thanh toán viên ghi tài
khoản Có
Kiểm soát chứng từ
Thanh toán viên
ghi Nợ TK số 2
Nhật ký chứng từ Lưu trữ chứng từ
Thanh toán viên
ghi Nợ TK số 1
4
4
3
3
22
(6): Sau khi Có tài khoản người bán, thanh toán viên bên Có chuyển bảng kê
nộp séc cho kiểm soát viên.
(7): Kiểm soát viên kiểm soát lại sau đó chuyển toàn bộ chứng từ cho bộ
phận nhật ký chứng từ.
(8): Bộ phận nhật ký chứng từ sau khi lên tập nhật ký chứng từ sẽ chuyển
chứng từ sang bộ phận lưu trữ, bảo quản.
b.Luân chuyển chứng từ giữa 2 ngân hàng trong thanh toán chuyển tiền:
- Quy trình luân chuyển chứng từ qua hệ thống bưu điện:
Giải thích:
(1): Người chuyển tiền lập chứng từ chuyển tới ngân hàng phục vụ mình để
xin chuyển trả cho người thụ hưởng có tài khoản tại ngân hàng khác.
(2): Sau khi xử lý chứng từ, hạch toán vào các tài khoản thích hợp, ngân
hàng chuyển tiền lập chứng từ chuyển tiền gửi bưu điện phục vụ mình.
(3a): Nếu là chuyển tiền thư thì bưu điện phục vụ ngân hàng chuyển tiền sẽ
chuyển thư chuyển tiền sang ngân hàng phục vụ ngân hàng trả tiền.
(3b): Nếu là chuyển tiền điện thì bưu điện phục vụ ngân hàng chuyển tiền sẽ
chuyển qua điện tín sang bưu điện phục vụ ngân hàng trả tiền.
(4): Bưu điện phục vụ ngân hàng trả tiền chuyển thư hoặc điện chuyển tiền
đến ngân hàng trả tiền.
1
5
4
3b
3a
2
Người chuyển tiền Người thụ hưởng
NH chuyển tiền NH trả tiền
Bưu điện phục vụ
NH chuyển tiền
Bưu điện phục vụ
NH trả tiền
23
(5): Ngân hàng trả tiền báo cho người thụ hưởng biết.
- Quy trình luân chuyển chứng từ chuyển tiền điện tử qua mạng nội bộ:
Giải thích:
(1): Người chuyển tiền gửi chứng từ đến ngân hàng xin chuyển trả cho
người thụ hưởng.
(2): Ngân hàng chuyển tiền làm thủ tục để chuyển số tiền đó về trung tâm
thanh toán khu vực qua mạng chuyển tiền nội bộ.
(3): Trung tâm thanh toán chuyển tiếp số tiền đó về ngân hàng trả tiền qua
mạng nội bộ.
(4): Ngân hàng trả tiền báo cho người thụ hưởng biết.
1.3.2.3. Tổ chức hệ thống tài khoản kế toán:
Tài khoản kế toán ngân hàng là phương pháp kế toán dùng để ghi chép một
cách có hệ thống các nghiệp vụ kinh tế, tài chính đã phát sinh theo mỗi đối tượng kế
toán làm cơ sở lập báo cáo tài chính trong ngân hàng.
Mỗi tài khoản kế toán ngân hàng được mở theo đối tượng kế toán cụ thể, có
nội dung kinh tế riêng biệt. Vì vậy tên gọi tài khoản, số lượng tài khoản cần mở, nội
dung phản ánh của từng tài khoản do nội dung kinh tế của đối tượng kế toán và yêu
cầu quản lý quy định.
2
1 4
3
Người chuyển tiền Người thụ hưởng
Ngân hàng chuyển
ti
ền
Ngân hàng trả tiền
Trung tâm thanh
toán khu v
ực
24
a. Hệ thống tài khoản hiện hành:
Hệ thống tài khoản hiện hành là hệ thống tài khoản do Ngân hàng Nhà nước
ban hành theo Quyết định số 479/2004/QĐ-NHNN ngày 29/4/2004 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước, thi hành ngày 01/10/2004; Quyết định số 807/2005/QĐ-
NHNN ngày 01/01/2005 và Quyết định số 29/2006/QĐ-NHNN ngày 10/7/2006 về
việc sửa đổi, bổ sung hệ thống tài khoản kế toán.
- Hệ thống tài khoản này gồm các tài khoản trong Bảng cân đối kế toán và
ngoài Bảng cân đối kế toán, được bố trí thành 9 loại. Từ loại 1 đến loại 8 là các tài
khoản trong Bảng cân đối kế toán, loại 9 là tài khoản ngoài Bảng cân đối kế toán.
- Hệ thống tài khoản hiện hành được bố trí theo hệ thập phân nhiều cấp, từ tài
khoản cấp I đến tài khoản cấp V, ký hiệu từ 2 dến 6 chữ số.
+ Tài khoản cấp I: ký hiệu bằng 2 chữ số từ 10 đến 99. mỗi loại tài khoản
được bố trí tối đa là 10 tài khoản cấp I.
+ Tài khoản cấp II: Ký hiệu bằng 3 chữ số, hai số đầu (từ trái sang phải) là số
hiệu tài khoản cấp I, số thứ 3 là số thứ tự tài khoản cấp II trong tài khoản cấp I, ký
hiệu từ 1 đến 9.
+ Tài khoản cấp III: Ký hiệu bằng 4 chữ số, hai chữ số đầu (từ trái sang phải)
là số hiệu tài khoản cấp II, số thứ tư là số hiệu tài khoản cấp III trong tài khoản cấp
II, ký hiệu từ 1 đến 9.
+ Tài khoản cấp IV: Tương tự như tài khoản cấp III.
+Tài khoản cấp V: Tương tự như tài khoản cấp IV.
b. Tài khoản kế toán do ngân hàng tự mở:
Đây là những tài khoản do ngân hàng tự mở để theo dõi các đối tượng hạch
toán kế toán nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý của ngân hàng. Do vậy nó thường là
những tài khoản chi tiết hay tài khoản cấp con của hệ thống tài khoản do Ngân hàng
Nhà nước ban hành.
c. Nguyên tắc xây dựng hệ thống tài khoản kế toán ngân hàng:
- Phải phản ánh rõ ràng, đầy đủ tình hình vốn cũng như toàn bộ tài sản theo
từng loại riêng.
25
- Phải đảm bảo việc kiểm soát các nghiệp vụ và thuận tiện cho việc lập Bảng
cân đối tài khoản ngày, tháng, năm.
- Đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa kế toán ngân hàng.
- Phải sử dụng được trong thời gian hiện tại và tương lai.
1.3.2.4. Tổ chức hệ thống sổ kế toán và các hình thức sổ kế toán trong
ngân hàng:
1.3.2.4.1. Sổ kế toán và kỹ thuật ghi sổ:
a. Sổ kế toán:
Xuất phát từ yêu cầu quản trị hoạt động kinh doanh ngân hàng, quản lý an
toàn tài sản và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính tổng hợp, kế toán ngân hàng
được chia thành 2 phần là kế toán phân tích và kế toán tổng hợp
Kế toán phân tích dựa trên tài khoản phân tích (tiểu khoản) để tiến hành kế
toán hàng ngày các nghiệp vụ kinh tế phát sinh thuộc từng đối tượng kế toán cụ thể
và từng khách hàng có quan hệ giao dịch với ngân hàng.
Kế toán tổng hợp dựa trên các tài khoản tổng hợp (từ cấp 1 đến cấp 5) để tiến
hành hạch toán nhằm tổng hợp số liệu của kế toán phân tích theo từng chỉ tiêu tài
khoản tổng hợp.
Sổ sách dùng trong kế toán phân tích là: Sổ chi tiết nội bảng và Sổ chi
tiết ngoại bảng.
Sổ sách dùng trong kế toán tổng hợp là: Nhật ký chứng từ, bảng kết hợp tài
khoản cấp 1, Sổ tổng hợp (Sổ Cái) và Bảng cân đối tài khoản (ngày, tháng, năm).
b. Kỹ thuật ghi sổ:
* Sổ sách dùng trong kế toán phân tích:
Kế toán phân tích là hình thức kế toán cụ thể ghi chép, phản ánh một cách
chi tiết các loại vốn hoặc nguồn vốn theo những hướng khác nhau tùy theo yêu cầu
quản lý. Đặc điểm của kế toán phân tích là vừa dùng thước đo giá trị, vừa dùng
thước đo hiện vật.
- Sổ chi tiết nội bảng: