Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Phát triển hoạt động môi giới ở công ty cổ phần chứng khoán quốc tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (814.17 KB, 79 trang )



LỜI NÓI ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
TTCK ra đời ở Việt Nam bằng việc đánh dấu bởi phiên giao dịch đầu tiên diễn
ra vào ngày 28/07/2000. Trải qua hơn 9 năm hình thành và phát triển đến nay TTCK đã
thực sự khẳng định vị thế của mình là một kinh huy động vốn hiệu quả nhất cho các
Doanh nghiệp niêm yết và là kênh đầu tư hấp dẫn thu hút công chúng đam mê chứng
khoán cả trong lẫn ngoài nước.
Cùng với sự ra đời của TTCK, các CTCK cũng lần lượt thành lập và đi vào hoạt động
vừa đóng vai trò là một nhà tạo lập thị trường, vừa cung cấp và đáp ứng tốt nhất những
dịch vụ cho khách hàng là các doanh nghiệp và các NĐT. Tính đến thời điểm hiện tại
có 105 CTCK đang hoạt động trên cả nước. Sự ra đời ồ ạt của CTCK đã dẫn đến tất
yếu cạnh tranh, sự cạnh tranh đã trở thành động lực quan trọng để các CTCK không
ngừng phát triển chất lượng các dịch vụ của chính mình nhằm thu hút và giữ chân
khách hàng.
Trong tất cả các loại hình dịch vụ mà CTCK cung cấp cho khách hàng thì Môi
giới là một trong những hoạt động hầu như không thể thiếu ở bất kỳ một CTCK nào.
Bởi đây là một hoạt động quan trọng nó thể hiện vai trò của một nhà tạo lập thị trường-
là cầu nối trung gian mua bán và quan trọng hơn cả đây là một trong những mảng đóng
góp tỷ trọng rất lớn vào doanh thu hàng năm của các công ty. Cũng chính vì lẽ đó mà
bản thân mỗi CTCK đều nhận thức được tầm quan trọng của việc hoàn thiện và nâng
cao chất lượng của hoạt động này.
Trong thời gian tập sự tại CTCK Quốc Tế Việt Nam, tôi đã có cơ hội được thực
tập ở bộ phận Môi giới. Tại đây tôi đã được cọ sát trong một môi trường thực tiễn,
được tiếp xúc và làm việc với vai trò là một sub-broker. Qua đó, tôi tự nhận thấy mình
thật sự yêu thích và hứng thú với mảng dịch vụ này. Cũng chính vì thế nên tôi nghĩ bản
thân cần phải làm điều gì đó để góp phần xây dựng cho hoạt động môi giới của công

ty, đó là lý do thúc đẩy tôi chọn “ Phát triển hoạt động Môi giới ở công ty cổ phần
Chứng khoán Quốc Tế Việt Nam” làm đề tài tốt nghiệp cho mình.


Qua đây, tôi xin gửi lời biết ơn chân thành đến nhà trường ĐH Nha Trang, các
giáo viên bên bộ môn Tài chính đã tạo cơ hội cho những sinh viên như chúng tôi có
được cơ hội cọ sát với thực tế sau 4 năm ngồi trên giảng đường. Tôi cũng xin gửi lời
biết ơn đến GVHD- Huỳnh Thị Cẩm Hà, giảng viên trường ĐH Kinh Tế thành phồ Hồ
Chí Minh đã hướng dẫn cho tôi hoàn thành tốt đề tài tốt nghiệp. Và cuối cùng tôi xin
gửi lời biết ơn đến ban lãnh đạo của công ty, đặc biệt là các anh chị bên phòng môi giới
đã tạo điều kiện và giúp đỡ nhiệt tình để tôi có thể hoàn thành tốt đợt thực tập tốt
nghiệp lần này.

Mục tiêu nghiên cứu:
Chuyên đề được hoàn thiện với ba mục tiêu như sau:
Thứ nhất, hệ thống các vấn đề lý thuyết về CTCK và hoạt động môi giới của
CTCK.
Thứ hai, phân tích thực trạng hoạt động môi giới tại công ty cổ phần Chứng
khoán Quốc Tế Việt Nam, qua đó tìm ra và đánh giá những thành tựu cũng như những
hạn chế còn tồn tại làm trở lực ảnh hưởng đến hoạt động môi giới chứng khoán tại
công ty.
Thứ ba, đưa ra các giải pháp nhằm phát triển công tác môi giới tại công ty cổ
phần chứng khoán Quốc Tế Việt Nam.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động môi giới của công ty cổ phần chứng
khoán Quốc Tế Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là kết quả hoạt động kinh doanh của công ty, và tình
hình về thị phần của công ty trong 3 năm 2007, 2008 và 2009.

Kết cấu đề tài:

Chuyên đề bao gồm 3 chương:


Chương 1:Những vấn đề chung về CTCK và hoạt động môi giới của CTCK.
Chương 2: Thực trạng hoạt động môi giới tại Công ty cổ phần Chứng khoán
Quốc Tế Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động môi giới tại công ty cổ
phần Chứng khoán Quốc Tế Việt Nam (VIS)




CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN DỀ CHUNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ HOẠT ĐỘNG
MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN

1. Tổng quan về CTCK:
1.1 Khái niệm về CTCK:
CTCK là một định chế tài chính trung gian chuyên kinh doanh chứng khoán, là đơn
có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và hạch toán độc lập.
CTCK có thể là thành viên của Sở giao dịch Chứng khoán( SGDCK). CTCK có
vai trò trung gian trong việc môi giới chứng khoán , thm gia tư vấn niêm yết và
thực hiện cung cấp thông tin đến NĐT, góp phần vào sự thành công của TTCK.
Tai Việt Nam, theo Điều 59, Luật Chứng khoán, CTCK tổ chức dưới hình thức
công ty TNHH hoặc công ty cổ phần theo qui định của luật doanh nghiệp. UBCK
Nhà nước cấp giấy phép hoạt động và thành lập cho CTCK, giấy phép này đồng
thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
o Phân loại CTCK :
 Căn cứ vào mô hình hoạt động:
 CTCK đa năng:
Theo mô hình này, CTCK được tổ chức dưới một hình thức tổ hợp dịch vụ tài chính
tổng hợp bao gồm kinh doanh Chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ, và các
dịch vụ tài chính. Câc ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh

doanh Chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này thể hiện dưới 2
hình thức:
 Loại đa năng một phần: Theo mô hình này, các ngân hàng muốn kinh doanh
Chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải thành lập công ty con hạch toán
độc lập và hoạt động tách rời với kinh doanh tiền tệ. Mô hình này gọi là
ngân hàng kiểu Anh, Canada, Uc.

 Loại đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng được phép trực tiếp kinh doanh
Chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ cũng như dịch vụ
tài chính khác. Mô hình này được gọi là mô hình ngân hàng kiểu Đức.
CTCK chuyên doanh:
Theo mô hình này. CTCK sẽ do các công ty độc lập và chuyên môn hóa trong lĩnh
vực Chứng khoán đảm trách, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh
chứng khoán, mô hình hạn chế được rủi ro hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho
các CTCK đi vào chuyên môn hóa sâu trong lĩnh vực Chứng khoán để thúc đẩy thị
trường phát triển. Mô hình được áp dụng khá rộng rãi ở các thị trường Mỹ, Nhật và
các thị trường mới nổi như Hàn Quốc, Thái Lan…
Tại Việt Nam, do qui mô các Ngân hàng thương mại nói chung là rất nhỏ bé, và đặc
biệt vốn dài hạn rất thấp, hoạt động của các Ngân hàng thương mại nước ta nói chủ
yếu trong lĩnh vực tín dụng thương mại ngắn hạn, trong khi đó hoạt động của
TTCK thuộc lĩnh vực vốn dài hạn. Khả năng khắc phục những yếu điểm từ mô hình
đa năng là rất yếu. Do đó, để bảo vệ an toàn cho các ngân hàng, Nghị định 144/CP
về chứng khoán và TTCK qui định Ngân hàng thương mại muốn kinh doanh chứng
khoán phải tách ra một phần vốn tự có của mình thành lập một CTCK chuyên
doanh trực thuộc, hạch toán độc lập với ngân hàng.
Căn cứ vào nghiệp vụ hoạt động kinh doanh:
Dạng công ty môi giới chứng khoán : Công ty chỉ thực hiện riêng nghiệp vụ môi
giới chứng khoán.
Dạng công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán : Công ty chỉ thực hiện việc bảo
lãnh phát hành chứng khoán cho các tổ chức phát hành.

Dạng công ty kinh doanh chứng khoán : Có hoạt động chính là tự doanh chứng
khoán tức tự tiến hành giao dịch mua bán chứng khoán cho riêng mình.
Dạng công ty trái phiếu : Công ty chuyên mua bán , trao đổi các loại trái phiếu
CTCK không tập trung : Công ty chứng khoán hoạt động chủ yếu trên thị trường
OTC (đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường)


Vai trò Và chức năng của CTCK :
Vai trò:
Vai trò của CTCK được thể hiện qua các nghiệp vụ của CTCK. Thông qua các hoạt
động này, CTCK đã thực sự tạo sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của
TTCK nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. CTCK đã trở thành tác nhân quan
trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển của TTCK.
Đối với tổ chức phát hành:
Mục tiêu của các CTCK khi tham gia phát hành cổ phiếu là huy động vốn. Thông
qua các hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành CTCK có vai trò tạo ra cơ
chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành. Thông qua tổ chức phát hành, CTCK
có vai trò huy động vốn cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, các CTCK cung cấp cho doanh nghiệp các giải pháp tổng hợp về tài
chính công ty, cơ cấu lại doanh nghiệp, lập và đánh giá dự án, quản lý tài sản và
định hướng đầu tư.
Đối với NĐT :
Thông qua các hoạt động như môi giới tư vấn, quản lý danh mục đầu tư, CTCK có
vai trò làm giảm chi phí giao dịch. Đối với hàng hóa thông thường mua bán qua
trung gian sẽ làm tăng chi phí. Nhưng đối với Chứng khoán là loại hàng hóa có độ
rủi ro cao nên NĐT phải mất rất nhiều thời gian công sức để sưu tầm, nghiêm cứu
trước khi quyết định đầu tư. Với CTCK có trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề
nghiệp sẽ giúp NĐT sử dụng một cách có hiệu quả.
Đối với TTCK :
 Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Gía cả của chứng khoán

do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng người
mua và người bán phải thông qua CTCK. Các CTCK góp phần tạo lập
giá cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, CTCK định
giá cho các cổ phiếu khi phát hành lần đầu ra công chúng. CTCK còn
góp phần bảo vệ khách hàng trong việc định giá các loại cổ phiếu.

 Góp phần tăng tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. Các CTCK
giúp các NĐT giao dịch Chứng khoán dễ dàng hơn. Trên thị trường sơ
cấp CTCK làm đại lý bảo lãnh phát hành và bán những cổ phiếu mới
niêm yết trên TTCK, đảm bảo tài sản của các chủ đầu tư. Trên thị
trường thứ cấp, các CTCK giúp các NĐT bán chứng khoán và dễ dàng
chuyển cổ phiếu thành tiền mặt. Những hoạt động đó làm tăng tính
thanh khoản cho thị trường tài chính.
Đối với cơ quan chức quản lý thị trường:
Mục tiêu của các cơ quan quản lý, giám sát thị trường là đảm bảo giao dịch an toàn
và kiểm soát thị trường. Vì vậy, việc thông tin được cung cấp cho các cơ quan quản
lý một cách đầy đủ là vô cùng quan trọng. CTCK thực hiện vai trò cung cấp thông
tin về TTCK cho các cơ quan quản lý bởi họ vừa là người phân phối các chứng
khoán mới phát hành thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành và đại lý phát hành,
vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên thị trường.
Các thông tin mà CTCK có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua
bán trên thị trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu và tổ chức phát hành, thông
tin về các NĐT… Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể
kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng và lũng đoạn thị trường.

Chức năng:
Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt:
Huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi và người sử dụng vốn.
CTCK huy động vốn giúp các doanh nghiệp có vốn để kinh doanh đồng thời
giúp cho người đầu tư sinh lời khi đem tiền sử dụng hợp lý.

Cung cấp giá cả:
Thông qua hệ thống khớp giá khớp lệnh,các CTCK cung cấp kịp thời sự thay
đổi về giá cả qua từng phút giúp NĐT có thể đưa ra quyết định về giá, lượng
một các hợp lý.
Tạo tính thanh khoản cho hoạt động thị trường:

CTCK giúp chuyển từ chứng khoán sang tiền mặt và ngược lại một cách dễ
dàng. CTCK là một tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và TTCK nói riêng. Nhờ những CTCK mà vốn được sử dụng
một cách có hiệu quả hơn.

Các nghiệp vụ của CTCK :
1.4.1 Môi giới:
Là một hoạt động kinh doanh của CTCK trong đó CTCK đại diện cho khách hàng
giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch Chứng khoán hay thị trường
OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của
việc giao dịch đó.
Khi thực hiện nghiệp vụ môi giới, CTCK phải mở tài khoản giao dịch Chứng khoán
và tiền cho từng khách hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa khách hàng và công
ty.
Trong trường hợp khách hàng của CTCK mở tài khoản lưu ký tại tổ chức lưu ký là
ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoại, CTCK có trách
nhiệm hướng dẫn các thủ tục giao dịch, mua bán cho khách hàng và phải ký hợp
đồng bằng văn bản với tổ chức lưu ký. Tiền hoa hồng môi giới thường được tính
bằng phần trăm trên tổng giá trị của một giao dịch.

1.4.2 Nghiệp vụ Tự doanh Chứng khoán:
Là nghiệp vụ trong đó CTCK thực hiện mua và bán Chứng khoán cho chính mình.
CTCK thực hiện nghiệp vụ tự doanh nhằm mục đích thu lợi hoặc đôi khi nhằm mục
đích can thiệp điều tiết giá trên thị trường. Chứng khoán tự doanh có thể là Chứng

khoán niêm yết hoặc chưa niêm yết trên TTCK. Ngoài ra CTCK có thể tự doanh
Chứng khoán riêng lẽ của khách hàng, sau đó tập hợp thành lô chẵn để giao dịch
trên TTCK.
Theo điều 20 qui chế hoạt động và tổ chức của CTCK số 55/2004/QĐ-BTC ngày
17/06/2004 quy định về hoạt động tự doanh của CTCK như sau:

 CTCK phải đảm bảo có đủ tiền và Chứng khoán để thanh toán các lệnh giao
dịch của mình.
 Khi tiến hành nghiệp vụ tự doanh CTCK không được:
o Đầu tư vào cổ phiếu của công ty có sở hữu trên 50% vốn điều lệ của
CTCK.
o Đầu tư quá 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm
yết.
o Đầu tư quá 15% số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức không niêm
yết.

Hoạt động tự doanh hiện nay được xem là một trong những hoạt động quan trọng
nhất của các CTCK tại Việt Nam trong việc nâng cao lợi nhuận. Tuy nhiên, do
nghiệp vụ tự doanh và môi giới nãy sinh xung đột lợi ích giữa việc thực hiện lệnh
giao dịch cho khách hàng và lệnh giao dịch cho bản thân công ty. Do đó, các nước
thường quy định các CTCK phải tổ chức thực hiện 2 nghiệp vụ ở 2 bộ phận riêng
biệt nếu CTCK đó được thực hiện cả 2 nghiệp vụ và phải ưu tiên thực hiện lệnh
khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty.

1.4.3Ngiệp vụ bảo lãnh phát hành:
Bảo lãnh phát hành Chứng khoán : là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành
thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn
bộ Chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại
chưa được phân phối hết.
Bảo lãnh phát hành là một nghiệp vụ rất quan trọng của CTCK. Có thể nói, đây là

một trong những hoạt động mang lại nguồn thu nhập và cơ sở khách hàng lớn nhất
cho CTCK. Về bản chất, bảo lãnh phát hành là việc CTCK hỗ trợ cho các đơn vị
phát hành huy động vốn bằng cách bán Chứng khoán trên thị trường. Sự hổ trợ đó
giúp đơn vị phát hành nắm chắc khả năng huy động vốn và có kế hoạch sử dụng
vốn huy động.

Tổ chức phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên
số tiền thu được từ đợt phát hành
Hiện nay trên thế giới có một số hình thức bảo lãnh phát hành sau:
 Bảo lãnh cam kết chắc chắn:
Là hình thức bảo lãnh mà công ty bảo lãnh phát hành nhận mua toàn bộ số
chứng khoán trong đợt phát hành của công ty phát hành, sau đó sẽ bán ra công
chúng, hoặc công ty bảo lãnh phải nhận mua toàn bộ số Chứng khoán còn lại
chưa được phân phối hết của đợt phát hành. Gía mua của công ty bảo lãnh là
một giá đã được ấn định, thường là thấp hơn giá thị trường. Gía bán của công ty
bảo lãnh là giá thị trường. Đây là hình thức công ty bảo lãnh hoạt động tự
doanh, hoạt động cho chính họ và sẵn sàng chịu mọi rủi ro.
 Bảo lãnh cố gắng tối đa:
Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý phát
hành cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số
Chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng tối đa. Số Chứng khoán còn lại nếu không
phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành. Như vậy, kết quả của việc bán
Chứng khoán của tổ chức phát hành tùy thuộc vào khả năng, uy tín và sự lựa
chọn NĐT của tổ chức bảo lãnh.
 Bảo lãnh tất cả hoặc không:
Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo
lãnh phải bán hết số Chứng khoán dự định phát hành, nếu không phân phối hết
sẽ hủy bỏ đợt phát hành. Theo phương thức này, không có một sự bảo đảm đợt
phát hành có thành công hay không, nên UBCKNN thường yêu qui định số
Chứng khoán mà NĐT đã mua trong thời gian chào bán sẽ được giữ bởi một

người thứ ba để chờ kết quả cuối cùng của đợt phát hành. Nếu đợt phát hành
không thành công thì NĐT sẽ được trả lại toàn bộ số tiền đặt cọc.
 Bảo lãnh với hạn mức tối thiểu:
Là phương thức kết hợp giữa phương thức bảo lãnh cố gắng tối đa và phương
thức tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ

chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ Chứng khoán nhất định. Nếu số lượng
Chứng khoán bán ra dưới hạn mức này thì đợt phát hành sẽ được hủy bỏ và toàn
bộ tiền đặt cọc mua Chứng khoán sẽ được trả lại cho NĐT. Đây là phương thức
bảo lãnh tương đối hiệu quả, vừa bảo lợi ích cho tổ chức phát hành,vừa hạn chế
rủi ro cho tổ chức bảo lãnh.

Riêng tại nước ta hiện nay chỉ áp dụng hình thức bảo lãnh với cam kết chắc
chắn nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của NĐT và gắn kết trách nhiệm của các
CTCK. Điều này gây ra một số khó khăn cho các CTCK trong việc triển khai
nghiệp vụ này.
Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh Chứng khoán, các CTCK phải tuân thủ một số
nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc này thường được quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật, chẳng hạn như các quy định về hạn mức bảo lãnh,
nghĩa vụ bình ổn thị trường của các loại chứng khoán nhận bảo lãnh, tách bạch
nghiệp vụ, công khai thông tin, nghĩa vụ liên đới trong các hoạt động gian lận
liên quan đến phát hành Chứng khoán …
Khi UBCKNN cho phép phát hành Chứng khoán CTCK sẽ hoàn tất thủ tục thực
hiện phân phối Chứng khoán. Sau đây là một số hình thức phân phối chủ yếu:
o Bán rộng rãi ra công chúng
o Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể, các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm,
quỹ hưu trí.
o Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện hữu hay những NĐT có quan hệ với
tổ chức phát hành.
o Sau khi phát hành xong tổ chức bảo lãnh phát hành giao tiền bán Chứng

khoán cho tổ chức phát hành. Số tiền phải thanh toán là giá trị Chứng
khoán trừ đi chi phí bảo lãnh.

1.4.4 Ngiệp vụ tư vấn:
 Hoạt động tư vấn chứng khoán:

Là việc chuyên viên tư vấn sử dụng kiến thức chuyên môn của mình để tư vấn cho
NĐT về thời điểm mua bán Chứng khoán, loại Chứng khoán mua bán, thời gian nắm
giữ, tình hình diễn biến thị trường, xu hướng giá cả…Đây là hoạt động phổ biến trên
thị trường thứ cấp diễn ra hằng ngày, hàng giờ với nhiều hình thức khác nhau. Việc tư
vấn có thể bằng lời nói, hoặc có thể thông qua những bản tin, các báo cáo phân
tích…khách hàng có thể gặp gỡ nhà tư vấn hoặc thông qua các phương tiện truyền
thông như điện thoại, fax…để tư vấn trực tiếp hoặc có thể gián tiếp thông qua các báo
cáo phân tích, các ấn phẩm mà nhà tư vấn phát hành.
 Tư vấn tài chính doanh nghiệp:
Là một phần trong tổng thể các hoạt động tư vấn của CTCK. Với khả năng chuyên
môn của mình, CTCK hỗ trợ các khách hàng trong việc lập và thực hiện kế hoạch tài
chính quan trọng nhằm tối đa hóa lợi ích của doanh nghiệp, đảm bảo đầy đủ các nguồn
lực tài chính cần thiết cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khi cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính doanh nghiệp, CTCK phải đáp ứng được các yêu
cầu sau:
- Trung thực, tận tụy và vì lợi ích của khách hàng;
- Chịu trách nhiệm về những vấn đề có liên quan đến hoạt động tư vấn của
mình đối với doanh nghiệp;
- Có đủ năng lực thực hiện hoạt động tư vấn đã cam kết với khách hàng.
- Không được nhận bất kỳ một lợi ích không chính đáng nào ngoài những lợi
ích đã thỏa thuận với khách hàng theo quy định của pháp luật.
Các CTCK có thể thu phí hoặc miễn phí khi cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng,
tùy theo tính chất và mức độ phức tạp của hoạt động tư vấn. Theo thông lệ, các CTCK
chỉ chịu trách nhiệm về những ý kiến tư vấn của mình, khách hàng phải tự chịu trách

nhiệm về mặt tài chính khi quyết định thực hiện theo lời tư vấn. Chính vì vậy, câc
CTCK và nhân viên của mình phải tuân thủ rất nghiêm ngặt những chuẩn mực về đạo
đức nghề nghiệp nhằm tránh gây ra những tổn hại về vật chất cho khách hàng, không
được phép đưa ra những cam kết hoặc dụ dỗ khách hàng về kết quả của khoản đầu tư
khi thực hiện những ý kiến tư vấn.


1.4.5 Quản lý danh mục đầu tư:
Quản lý danh mục đầu tư chính là nghiệp vụ quản lý vốn ủy thác của khách hàng trên
cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu tư được
hiểu như một nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu tư. Khi đó,
khách hàng sẽ ủy thác tiền của mình cho công ty và công ty sẽ thay mặt khách hàng để
quyết định đầu tư theo một chiến lượt hay những thỏa thuận giữa công ty và khách
hàng về mức lợi nhuận kỳ vọng, rủi ro có thể chấp nhận.
Quy trình của nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư có thể được khái quát như sau:
Bước 1: Xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý
Tức CTCK và khách hàng tiếp xúc và tìm hiểu về khả năng tài chính, chuyên môn từ
đó đưa ra các yêu cầu về quản lý vốn ủy thác.
Bước 2: Ký hợp đồng quản lý
Sau khi tìm hiểu, thương lượng và thỏa thuận CTCK và khách hàng sẽ ký hợp đồng
quản lý theo yêu cầu, nội dung về vốn, thời gian ủy thác, mục tiêu đầu tư, quyền và
trách nhiệm của các bên. Phân chia lợi nhuận, rủi ro và chi phí quản lý danh mục đầu
tư.
Bước 3: Thực hiện hợp đồng quản lý
CTCK thực hiện đầu tư vốn ủy thác của khách hàng theo những nội dung đã ký kết và
phải đảm bảo tuân thủ các quy định về quản lý vốn, tách biệt tài sản của khách hàng và
của công ty.
Bước 4: Kết thúc hợp đồng quản lý
Khách hàng có nghĩa vụ thanh toán các khoản phí quản lý theo hợp đồng đã ký kết và
xử lý các trường hợp đột xuất xảy ra như CTCK bị ngừng hoạt động, bị giải thể hoặc

phá sản.


1.4.6 Các nghiệp vụ hỗ trợ khác:

Nhìn chung các nghiệp vụ hỗ trợ giao dịch nhằm tọa thuận lợi cho NĐT, giúp NĐT
không bỏ lở các cơ hội đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
 Cho vay cầm cố Chứng khoán:
Là một hình thức tín dụng mà trong đó người đi vay dùng số Chứng khoán sở hữu hợp
pháp của mình làm tài sản cầm cố để vay tiền nhằm mục đích kinh doanh, tiêu dùng…
 Cho vay bảo chứng:
Là một hình thức tín dụng mà khách hàng vay tiền để mua Chứng khoán, sau đó dùng
số Chứng khoán mua được từ tiền vay để làm tài sản cầm cố cho khoản vay.
- Cho vay ứng trước tiền bán Chứng khoán :
Là việc CTCK ứng trước tiền bán Chứng khoán cho khách hàng ngay sau khi lệnh bán
Chứng khoán cảu khách hàng được thực hiện.
- Nghiệp vụ lưu ký Chứng khoán :
Là việc lưu giữ, bảo quản Chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký
Chứng khoán. Đây là công việc đầu tiên để cho các Chứng khoán có thể giao dịch trên
thị trường tập trung. Việc lưu giữ, bảo quản Chứng khoán của khách hàng và giúp
khách hàng thực hiện thông qua các thành viên lưu ký của thị trường giao dịch Chứng
khoán.
Lưu ký Chứng khoán là một hoạt động rất cần thiết trên TTCK. Bởi vì trên TTCK tập
trung, việc thanh toán trên các các giao dịch diễn ra tại Sở giao dịch Chứng khoán. Vì
vậy, lưu ký Chứng khoán một mặt giúp cho quá trình thanh toán tại Sở giao dịch được
diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, dễ dàng. Mặt khác, nó hạn chế rủi ro cho người nắm
giữ Chứng khoán như rủi ro bị rách, hỏng, thất lạc…




 Các vấn đề liên quan đến khung pháp lý về nghiệp vụ môi giới chứng khoán
ảnh hưởng đến hoạt động này:
Như chúng ta đã biết TTCK Việt Nam thực sự trở nên sôi động hơn bao giờ hết trong
mấy năm trở lại đây. Cùng với sự bùng nổ của TTCK thì các dịch vụ ăn theo nhằm đáp

ứng tốt nhất nhu cầu của NĐT mà CTCK gọi đó là khách hàng cũng ra đời lần lượt
cùng với sự ra đời ồ ạt của các CTCK. Trong đó, phải kể đến dịch vụ môi giới chứng
khoán. Nghề Môi giới chứng khoán cũng vì thế mà trở nên hot trong 2 năm trở lại đây
khi số DN niêm yết tăng, tài khoản mở mới cũng gia tăng. Vậy nhưng, hiện cơ quan
quản lý đang tỏ ra lúng túng khi quản lý một trong những đối tượng quan trọng tham
gia vào thị trường này. Sự lúng túng này xuất phát từ thực tế phát triển quá nhanh của
thị trường, trong khi quy định hiện hành lại không rõ ràng, chuẩn mực.
Theo Điểm C, Khoản 1,Điều 62, Luật Chứng khoán, điều kiện để thành lập và hoạt
động của CTCK là giám đốc hoặc tổng giám đốc, các nhân viên thực hiện nghiệp vụ
kinh doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề. Như vậy, sau khi thành lập và
đi vào hoạt động, nhân viên có phải có chứng chỉ hành nghề hay không lại là vấn đề bỏ
ngỏ. Chính quy định không rõ ràng này làm nảy sinh tình trạng CTCK mạnh ai, nấy
làm. Thực tế hiện nay, phần lớn Môi giới chứng khoán chưa được cấp chứng chỉ hành
nghề. Họ đến với nghề Môi giới chứng khoán quá nhanh hoặc xuất phát từ nhiều công
việc khác nhau nên chưa có điều kiện theo học, thi lấy chứng chỉ. Như vậy, việc quản
lý Môi giới chứng khoán thông qua yêu cầu phải có chứng chỉ hành nghề là không khả
thi.
Những biện pháp quản lý khác như cấm CTCK sử dụng cộng tác viên Môi giới chứng
khoán, yêu cầu phải ký hợp đồng với Môi giới chứng khoán… thì hầu như là vô hiệu
khi CTCK có rất nhiều cách để lách luật. Việc UBCK Nhà nước đã không chặt chẻ và
rỏ ràng trong quy định để cho nhiều CTCK lách luật, nếu tình trạng đội ngủ môi giới
không có chứng chỉ hành nghề ngày càng gia tăng sẽ dẫn đến tình trạng môi giới thiếu
trình độ và năng lực. Điều này không những gây ảnh hưởng không tốt đến uy tín của
CTCK, mà còn gây ảnh hưởng đến lợi ích của NĐT khi được phục vụ bởi đội ngủ môi
giới như thế. Tại nước ta, theo quy định, NĐT có thể ủy quyền giao dịch cho các Môi

giới chứng khoán. Với việc tuyển dụng lỏng lẻo, trình độ chuyên môn chưa sâu, đạo
đức nghề nghiệp chưa được kiểm chứng, việc ủy quyền giao dịch cho các môi giới tự
do là điều hết sức rủi ro.Do đó, UBCK cần quản lý sát sao hơn như việc yêu cầu các

CTCK lập danh sách môi giới, báo cáo thường xuyên vế biến động nhân sự môi giới.
Đối với các môi giới chưa đủ điều kiện thì phải thực hiện bổ sung chứng chỉ hành
nghề, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp sai phạm vì sự phát triển ổn định, bền
vững của thị trường.
Hiện nay trên cả nước có khoảng 105 CTCK, do đó cạnh tranh trong kinh doanh là vấn
đế tất yếu. Thế nhưng nhiều CTCK đã và đang cố tình lách luật để tìm mọi cách để tạo
ra lợi thế cạnh tranh của mình trên thương trường. Quy định về phương thức giao dịch
chứng khoán T+3 chỉ rỏ, tức là phải 3 ngày sau chứng khoán mới về tài khoản của
người mua, và tiền mới về tài khoản của người bán. Thế nhưng trong thời gian qua
nhiều công ty vẫn cố tình thực hiện cơ chế giao dịch T+2, thậm chí là T+1 trong khi đó
UBCK Nhà nước vẫn chưa cho phép. Điều này đã dẫn đến một thực trạng cạnh tranh
không lành mạnh giữa các CTCK. Tuy nhiên, khi một vài CTCK âm thầm triển khai
hình thức giao dịch T+2 mà không có sự giám sát chặt chẻ của cơ quan quản lý thị
trường thì các công ty còn lại cũng bắt chước triển khai. Để không bị cơ quan quản lý
"tuýt còi", CTCK phải ẩn các dịch vụ trên dưới dạng hợp đồng hợp tác kinh doanh,
thỏa thuận hỗ trợ tài chính Qua đó cho thấy những hạn chế trong công tác quản lý
của cơ quan quản lý thị trường đã tạo cơ hội cho các CTCK qua mặt. Những hạn chế
đó cho thấy sự yếu kém của và thiếu hoàn thiện trong công tác quản lý cũng như ban
hành một bộ luật mang tính trọn vẹn và chặt chẻ. Chính sự yếu kém đó đã tạo điều kiện
cho những tiêu cực trong môi trường kinh doanh của các CTCK.Từ đó ảnh hưởng đến
sự vận động và phát triển lành mạnh của TTCK nước ta.
 Nghiệp vụ môi giới Chứng khoán:
2.1 Khái niệm về môi giới:
Như đã trình bày ở trên thì Môi giới là một hoạt động của CTCK trong đó CTCK
đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tập tại Sở
giao dịch Chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách

nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.

2.2 Chức năng của môi giới:
2.2.1 Cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng:
CTCK thông qua nhân viên môi giới của mình cung cấp cho khách hàng những
thông tin về các công ty niêm yết( bản cáo bạch, báo cáo tài chính hàng quý, các
thông tin về phát hành thêm, trả cổ tức, thưởng cổ phiếu.). Người môi giới tiếp cận
với thương lượng thông tin vô cùng lớn qua nhiều kinh khác nhau bằng nghiệp vụ
của mình, do đó bên cạnh việc giới thiệu với khách hàng mã cổ phiếu và các dịch
vụ đơn thuần của công ty. Nhân viên mội giới có thể đưa ra những lời khuyên về
những cổ phiếu tiềm năng và những danh mục có mức rủi ro và lợi nhuận hợp lý
cho NĐT. Tư vấn và môi giới là hai hoạt động riêng biệt trong hoạt động của nhà
môi giới. Nhưng trong hoạt động của nhà môi giới thì tư vấn vẫn áp đảo, hai câu
hỏi mà NĐT thường xuyên gặp là khi nào thì nên bán hay nên mua một loại cổ
phiếu, sự tham lam và sợ hãi là hai vấn đề mà tất cả các NĐT tham gia TTCK đều
phải đối mặt, khi đó họ cần nhà môi giới ở bên để đưa ra các quyết định đúng đắn
và kịp thời, đôi khi còn là sự giải tỏa tâm lý trước biến động của thị trường.
2.2.2 Cung cấp các dịch vụ tài chính và giúp khách hàng thực hiện giao dịch
theo yêu cầu:
Đối với bất cứ một NĐT nào, nhà môi giới cũng phải giúp thực hiện các hoạt động
như mở tài khoản tại công ty, tiến hành giao dịch, xác nhận giao dịch, thông báo kết
quả đến khách hàng,….ở các nước phát triển khi các giao dịch sử dụng giao dịch
trực tuyến bằng internet làm công cụ thì nhà môi giới càng cần phải nắm bắt thông
tin về khách hàng để đảm bảo chất lượng phục vụ đảm bảo yêu cầu của khách hàng.
2.3 Vai trò của hoạt động môi giới:
2.3.1 Giảm chi phí giao dịch:
Cũng như tất cả các giao dịch mua bán khác, để thực hiện được hoạt động mua bán
Chứng khoán cần có sự gặp gở giữa người bán và người mua. Sẽ rất khó khăn cho
NĐT khi họ nắm giữ cổ phiếu muốn bán mà tự thân đi tìm đối tác mua bán với
mình, Chứng khoán lại là loại hàng hóa đặc biệt. Sự xuất hiện của các CTCK cùng

với các tổ chức trung gian khác và các dịch vụ của họ sẽ làm NĐT không mất thời

gian tìm kiếm đối tác, môi giới sẽ làm việc đó giúp họ, việc của họ chỉ là tìm cho
mình một trung gian đáng tin cậy và trả phí môi giới.
2.3.2 Phát triển thị trường:
Chịu đựng sự cạnh tranh khắc nghiệt trên thị trường, CTCK thông qua đội ngũ môi
giới của mình sẽ luôn gắn bó trực tiếp đối với đối tượng khách hàng mục tiêu của
mình và cung cấp cho họ những dịch vụ tốt nhất để đảm bảo lợi nhuận của mình,
góp phần làm gia tăng cả số lượng lẫn chất lượng các NĐT.
2.3.3 Cải thiện môi trường kinh doanh:
Thị trường càng phát triển, sự cạnh tranh giữa các CTCK càng ác liệt hơn và hiệu
quả hơn, NĐT là những người được lợi trực tiếp từ quá trình này.

2.4 Nguyên tắc hoạt động của môi giới Chứng khoán:
Môi giới Chứng khoán là hoạt động trong nền kinh tế thị trường phát triển, là sản phẩm
của thị trường bậc cao với nhiều nét đặc trưng riêng lại càng có nguyên tắc áp dụng khi
thực hiện. Ta có thể kể đến những nguyên tắc chung sau:
 Hoạt động môi giới phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật hiện hành về
Chứng khoán và TTCK, phải tuân thủ các quy định của công ty và tuân thủ quy tắc
ứng xử và đạo đức nghề nghiệp.
 Người lãnh đạo CTCK phải chỉ đạo thực hiện hoạt động môi giới trong phạm vi,
quy mô phù hợp với tình hình thị trường, tiềm lực tài chính và năng lực, trình độ
của nhân viên môi giới, nhân viên giao dịch, đảm bảo an toàn, hiệu quả, kiểm soát
được rủi ro.
 Phải có sự quản lý tách bạch tiền và Chứng khoán của từng khách hàng, sử dụng
tiền và Chứng khoán trên tài khoản của khách hàng theo đúng hợp đồng đã ký.
 Người môi giới là đại diện của khách hàng khi thực hiện giao dịch nên:
 Hoạt động môi giới của công ty chỉ được thực hiện khi công ty ký hợp
đồng bằng văn bản với khách hàng.
 Chỉ được thực hiện lệnh của khách hàng khi khách hàng có đủ các điều

kiện về tiền hoặc chứng khoán ký quỹ theo quy định.

 Phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty và của
nhân viên môi giới.
 Người môi giới là đại diện của công ty khi tiếp xúc với khách hàng nên phải
luôn thận trọng khi tư vấn và nhắc nhở khách hàng:
 Giá trị của Chứng khoán luôn thay đổi theo các yếu tố kinh
tế và tâm lý.
 Những lời tư vấn có thể hoàn toàn không chính xác
 Khách hàng cần được biết CTCK không chịu trách nhiệm về những lời tư
vấn .
 Phải cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác thông tin thị trường cho khách
hàng, bảo mật thông tin cho khách hàng, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
 Người môi giới cần phải tuân theo các quy tắc ứng xử và đạo đức nghề
nghiệp trong hoạt động môi giới:
 Phải thận trọng khi hành nghề : phải hiểu rỏ khách hàng về
thông tin cá nhân cơ bản, về tình hình tài chính, mục tiêu đầu tư, trên cơ
sở đó phải tư vấn phù hợp cho khách hàng;
 Phải trung thực, công bằng trong hoạt động môi giới, phải
ưu tiên lợi ích của khách hàng: phải tôn trọng tài sản của khách hàng, bảo
vệ quyền lợi của khách hàng, phải cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác
cho khách hàng, đặc biệt không gợi ý khách hàng mua bán vì lợi ích riêng,
không thúc giục khách hàng mua bán quá nhiều một loại Chứng khoán,
không đưa ra những lời hứa hẹn đảm bảo lợi ích của khách hàng sẽ nhận
được, không có hành vi và biểu hiện có thể gây ra sự hiểu lầm về sự trung
thực, độ tin cậy cho khách hàng;
 Hoạt động phải mang tính chuyên nghiệp: nhân viên thực
hiện theo đúng yêu cầu của khách hàng, tuân theo quy định về nghiệp vụ,
qui định khác của công ty. Đặc biệt người môi giới cần phải thường

xuyên học tập nâng cao kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ.

 Phải bảo mật: bảo quản hồ sơ, tài liệu của khách hàng,
không được thảo luận bất kỳ thông tin nào về khách hàng với người không
có liên quan, không sử dụng thông tin của khách hàng dưới bất kỳ hình
thức nào để tác động tới giao dịch vì lợi ích của nhân viên môi giới, của
công ty hay của khách hàng khác.
Bên cạnh đó, hoạt động môi giới Chứng khoán còn có quy định rõ về hành vi bị cấm
không được thực hiện. Đó là:
 Chỉ những người đã được cấp giấy phép hành nghề hay được công ty cho phép
mới được thực hiện các giao dịch cho khách hàng.
 Không được sử dụng những thông tin nội bộ để mua, bán Chứng khoán cho
chính mình hoặc cho bên thứ ba.
 Không được tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho bên thứ ba mua,
bán Chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ.
 Không được giao dịch Chứng khoán mà không thay đổi quyền sở hữu Chứng
khoán nhằm tạo cung cầu giả.
 Không được tham gia lôi kéo người khác liên tục mua, bán thao túng giá Chứng
khoán.
 Không được tạo dựng truyền bá thông tin sai sự thật, gây ảnh hưởng nghiêm
trọng tới các hoạt động giao dịch Chứng khoán.
 Không được làm trái lệnh của khách hàng hoặc không cung cấp xác nhận giao
dịch theo quy định hay tự ý mua, bán Chứng khoán trên tài khoản của khách
hàng.
 Không được có quan hệ tài chính cá nhân với khách hàng, nếu có phải công khai
báo cáo với công ty.
 Không được nhận ủy quyền của khách hàng để quyết định lựa chọn chủng loại,
số lượng, giá cả Chứng khoán và thực hiện các giao dịch mua bán trên tài khoản
giao dịch Chứng khoán của khách hàng mở tại CTCK đó.


 Không được nhận bất kỳ khoản thù lao nào ngoài việc thu phí môi giới của
khách hàng theo quy định của công ty.
 Không được có hành vi nào có thể gây hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của
bất kỳ loại Chứng khoán nào.
 Không được mượn danh nghĩa của khách hàng để mua, bán Chứng khoán hoặc
có hành vi khác làm thiệt hại đến lợi ích của khách hàng.
 Không được lợi dụng vị trí, quyền hạn và nhiệm vụ của mình để làm lợi cá
nhân, gây thiệt hại về uy tín, tài sản của CTCK, thực hiện các hành vi bị cấm
khác theo quy định của công ty và của pháp luật có liên quan hiện hành.

2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động môi giới:
2.4.1 Nhân tố chủ quan:
 Nguồn nhân lực:
Yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành công của CTCK và bộ phận
môi giới, được đánh giá qua trình độ của nhân viên, thái độ với khách hàng,
năng lực nghiệp vụ, khả năng truyền đạt thông tin….Công ty càng có đội ngủ
nguồn nhân lực trẻ có năng lực, nhiệt huyết thì càng tạo thuận lợi cho công ty
trong việc thu hút và giữ chân khách hàng.

Hệ thống thông tin, trang bị cơ sở vật chất:
Một công ty được trang bị thiết bị cơ sở vật chất càng tốt thì mới đảm bảo
được sự nhanh chóng hiệu quả trong việc xử lý thông tin, nghiệp vụ đáp ứng
và phục vụ tốt các nhu cầu của khách hàng. TTCK thay đổi thất thường làm
khối lượng công việc của CTCK cũng thay đổi theo, việc xây dựng một hệ
thống thông tin, trang bị cơ sở vật chất mạnh là điều kiện tiên quyết để đảm
bảo chất lượng dịch vụ công ty, xây dựng lòng tin nơi khách hàng.

 Mô hình tổ chức:

TTCK luôn biến động khôn lường, công việc của nhân viên môi giới ở đâu

cũng đối mặt với áp lực rất cao, sai sót là vấn đề bất khả kháng nếu không có
một mô hình tổ chức hiệu quả và nhà lãnh đạo có năng lực, hoạt động môi
giới của công ty sẽ mắc lại ở nhiều khâu, không thể diễn ra trơn tru hiệu quả
được.

 Chiến lượt kinh doanh của công ty:
Liên quan đến tầm nhìn của công ty, mục tiêu và chiến lượt đúng đắn sẽ đảm
bảo doanh thu và lợi nhuận cho công ty.

Quan hệ với khách hàng:
Khối lượng giao dịch quyết định lợi nhuận của công ty và gián tiếp ảnh hưởng
đến toàn bộ các hoạt động còn lại của công ty, do tính phức tạp của các hoạt
động giao dịch Chứng khoán, mâu thuẫn giữa khách hàng và công ty là điều
khó tránh khỏi, các công ty cần xây dựng đối tượng khách hàng mục tiêu để
đảm bảo lợi ích và sự phát triển lâu dài cho công ty.

2.4.2 Nhân tố khách quan:
 Môi trường kinh tế:
TTCK là một bộ phận của thị trường vốn, trong giai đoạn nền kinh tế tăng
trưởng, nhu cầu vốn sẽ tăng nhiều hơn kèm theo sự phát triển của TTCK và
ngược lại trong giai đoạn đầu nền kinh tế suy thoái, có rất nhiều yếu tố tác
động đến nhưng nói chung sự tăng trưởng của cả nền kinh tế có phần quan
trọng trong những thay đổi trên TTCK. Điều này có nghĩa là, các yếu tố vĩ mô
của nền kinh tế có ảnh hưởng đến TTCK từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến CTCK
mà đầu tiên sẽ là hoạt động môi giới. Bởi khi môi trường kinh tế gặp nhiều
thuận lợi thì nó sẽ tạo điều kiện cho thị TTCK phát triển bởi đây được xem là
kênh huy động vốn hiệu quả của doanh nghiệp và là kênh đầu tư hấp dẫn đối

với công chúng đầu tư. TTCK phát triển sẽ tạo nhiều cơ hội kinh doanh cho
các CTCK mà trước hết là hoạt động môi giới của công ty trong việc nổ lực gia

tăng doanh số môi giới chứng khoán góp phần gia tăng lợi nhuận, cũng như
phát triển mạng lưới khách hàng Và ngược lại khi môi trường kinh tế gặp
nhiều khó khăn, mà TTCK được ví như phong vũ biểu đi trước nền kinh tế
luôn đi trước nền kinh tế một bước sẽ có những biến động không tốt.Việc
TTCK suy giảm sẽ làm cho kênh đầu tư chứng khoán mất tính hấp dẫn của nó,
NĐT sẽ e dè hoặc tìm một kênh đầu tư khác an toàn hơn mặc dù suất sinh lợi
thấp hơn…Từ đó sẽ làm cho các công ty chứng khoán cũng gặp khó khăn
trong việc kinh doanh, và doanh thu môi giới cũng sẽ giảm sút theo vì lúc này
lượng khách hàng bị suy giảm. Những diễn biến của thị trường trong năm 2008
là một ví dụ điển hình cho sự suy giảm của TTCK khi nước ta và dẫn đến hệ
quả tất yếu thua lỗ trong kinh doanh của các CTCK từ ảnh hưởng từ cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Hệ thống pháp lý:
Hệ thống pháp lý có thể thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của hệ thống các
CTCK và cả hoạt động môi giới. Những yêu cầu về vốn tối thiểu để hoạt
động, chứng chỉ cần thiết để trở thành nhân viên môi giới sẽ giới hạn đối tượng
tham gia trong lĩnh vực này, những quy định về quy trình, lưu ký, xác nhận
lệnh sẽ quyết định trình tự và thời gian thực hiện một giao dịch của khách
hàng.
 Kiến thức của công chúng đầu tư:
Một thị trường bao gồm toàn các NĐT chuyên nghiệp yêu cầu nhân viên môi
giới sẽ khác thị trường toàn các NĐT thiếu kinh nghiệm, khi trình độ của NĐT
tăng lên, đòi hỏi với nhân viên môi giới sẽ phải cao lên và với hoạt động môi
giới của các công ty khắt khe hơn.
 Tập quán, văn hóa truyền thông:

Ảnh hưởng đến tất cả hoạt động kinh tế không chỉ môi giới, công ty xây dựng
kế hoạch phát triển hay chiến lược tiếp xúc khách hàng của nhân viên môi giới
đều xây dựng dựa trên yếu tố này.


2.4.5 Tìm hiểu nghiệp vụ môi giới chứng khoán ở một số quốc gia trên thế giới:
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời cho đến nay đã trải qua 10 năm, tuy nhiên có
thể thấy rằng nếu so với các thị trường các trong khu vực và trên thế giới thì nước ta
vẫn cần phải học hỏi rất nhiều thứ. Điều đó cũng là dễ hiểu bởi so với một số quốc gia
trên thế giới thì TTCK nước ta vẫn còn khá non trẻ. Đơn cử như hoạt động môi giới
của các công ty chứng khoán nước ta chẳng hạn có rất nhiều điểm khác với hoạt động
môi giới ở một số quốc gia trên thế giới.
Trên thế giới, một nhà môi giới chứng khoán là một người độc lập, được cấp phép như
một đại diện đăng ký hợp pháp và bằng cách này họ đóng vai trò là một người trung
gian đứng giữa người mua và người bán chứng khoán. Người môi giới vì thế được trả
tiền hoa hồng cho công việc này.
Môi giới chứng khoán không ký hợp đồng với Công ty Chứng khoán, không chịu sự
quản lý nào từ Công ty Chứng khoán. Họ được UBCK cấp phép hành nghề, có văn
phòng riêng tự tìm kiếm khách hàng. Công việc chính của môi giới là phát triển khách
hàng và tư vấn đầu tư. Quan hệ giữa họ và Công ty Chứng khoán chỉ là thuê đường
truyền để thực hiện giao dịch. Hoặc nếu được nhà đầu tư ủy quyền, họ sẽ thực hiện các
giao dịch như vay mượn tiền, chứng khoán, mua bán chứng khoán… với Công ty
chứng khoán.
Các nước có TTCK phát triển và ra đời khá sớm chẳng hạn như Mỹ, Đức…họ đã được
UBCK triển khai phương thức giao dịch T+1, T+2 nhằm tạo sự đa dạng và thu hút
NĐT, giúp NĐT trong việc rút ngắn thời gian chứng khoán và tiền về tới tài khoản
theo quy định T+3 như trước kia.Mua(bán) khống chứng khoán cũng không phải là quá
xa lạ ở các thị trường này. Những cơ chế thông thoáng đó đã kích thích sự tham gia
đầu tư của NĐT tham gia vào thị trường và đó là một cơ hội lớn cho nghiệp môi giới.
Trong khi đó ở nước ta, mặc dù đã trải qua 10 năm hình thành và phát triển nhưng nhìn

chung các sản phẩm cung cấp từ các CTCK vẫn còn khá nghèo nàn. Bán khống không
được pháp luật thừa nhận, phương thức giao dịch dưới T+3 vẫn chưa được triển khai.
Ngoài ra hiện nay trên thế giới khi mà khoa học công nghệ phát triển như vũ bảo thì
những nhà môi giới chứng khoán cũng đã tận dụng rất nhiều từ điều đó để mang lại

nhiều thuận tiện hơn cho hoạt động môi giới của chính mình chẳng hạn như tiết kiệm
chi phí giao dịch. Những nhà môi giới qua mạng sẽ cho ta thấy những điều đó. Họ là
những người ngồi trước máy tính, tận dụng ưu thế của công nghệ thông tin và hệ thống
giao dịch chứng khoán điện tử (Electric share trading system - ECN) để giúp khách
hàng đặt lệnh mua bán chứng khoán.Các nhà môi giới chứng khoán trên mạng sẽ được
hưởng chi phí cho các giao dịch chứng khoán họ thực hiện giúp khách hàng. Họ cho
rằng mình có một ưu thế vượt trội so với các nhà môi giới tại các sàn giao dịch chứng
khoán thông thường là: chi phí giao dịch rẻ hơn. Chính sự chủ động trong việc tìm
kiếm khách hàng, giúp các khách hàng thực hiện các giao dịch của họ đã làm cho
những nhà môi giới trở nên độc lập, bản thân họ tự ý thức được vai trò của năng lực,
trình độ chuyên môn là yếu tố cần thiết giúp họ trụ vững trên thương trường.
Tại Việt Nam, theo quy định, nhà đầu tư có thể ủy quyền giao dịch cho các Môi giới
chứng khoán. Hoạt động môi giới tuy được hiểu là thực hiện theo lệnh của khách hàng,
nhưng chính tình trạng giới hạn về năng lực và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên
hoạt động môi giới đã khiến nghiệp vụ này chưa thật sự đáp ứng được sự mong đợi của
khách hàng. Chất lượng tư vấn đầu tư trực tiếp của CTCK đi kèm với hoạt động môi
giới chưa thật sự thuyết phục các NĐT giao dịch thường xuyên và tăng doanh số giao
dịch, bởi vì họ vẫn chưa thấy được lợi ích thiết thực và tính hiệu quả cao của hoạt động
này. Việc tuyển dụng lỏng lẻo, trình độ chuyên môn chưa sâu, đạo đức nghề nghiệp
chưa được kiểm chứng, việc ủy quyền giao dịch cho các môi giới tự do là điều hết sức
rủi ro. Hơn nữa dưới tư cách là một nhân viên của một công ty chứng khoán những
môi giới viên hầu hết rất thụ động, chỉ chờ nhận lệnh từ phía khách hàng chứ không
chủ động tìm kiếm khách hàng. Điều này đã làm cho công tác môi giới chứng khoán đã
không thực sự phát huy được theo đúng như tên gọi của nó từ đó làm cho chất lượng
môi giới chỉ dừng lại ở việc giúp khách hàng thực hiện giao dịch của họ.

×