Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Phát triển hoạt động tự doanh tại Công ty Cổ Phần Chứng Khoán An Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.8 KB, 74 trang )

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
LỜI MỞ ĐẦU
Cách đây 8 năm khi thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt động , số
lượng công ty chứng khoán trên thị trường Việt Nam mới chỉ dừng lại với 6 con số,
nhưng đến cuối năm 2008 số công ty chứng khoán đã lên tới 103 công ty. Mặc dù tại
thời điểm hiện nay nền kinh tế toàn cầu đang bị suy thoái, tốc độ gia tăng của các công
ty chứng khoán đang chững lại nhưng với sự bùng nổ mạnh mẽ của các năm trước các
CTCK Việt Nam đang phải đứng trước một cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường.
Và Công ty Cổ Phần chứng khoán An Bình cũng không phải là một ngoại lệ. Để có thể
hoạt động và trụ lại trong môi trường cạnh tranh ngày càng khắc liệt, các CTCK không
ngừng hoàn thiện và phát triển các nghiệp vụ của mình. Nghiệp vụ tự doanh là họat
động mang lại phần lớn lợi nhuận cho công ty, đây cũng là hoạt động đòi hỏi công ty
đầu tư nhiều vốn và nhân lực nhất. Công ty Cổ Phần Chứng khoán An Bình là một
trong những công ty được thành lập khi thị trường chứng khoán Việt Nam đang ở trong
giai đoạn bùng nổ mạnh mẽ. Sau hơn 2 năm thành lập , công ty đã có những thành công
nhất định nhưng hoạt động tự doanh của công ty còn có nhiều vấn đề bất cập như quy
trình tự doanh, xây dựng chiến lược đầu tư chưa đáp ứng được tốc độ phát triển ngày
càng nhanh của thị trường. Việc nghiên cứu tìm kiếm giải pháp để phát triển nghiệp vụ
tự doanh là nhu cầu bức xúc của thực tiễn .
Xuất phát từ những lý do đó mà em chọn đề tài : “Phát triển hoạt động tự doanh
tại Công ty Cổ Phần Chứng Khoán An Bình”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, báo cáo gồm 3 chương :
- Chương I : Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán
- Chương II : Thực trạng hoạt động tự doanh của CTCP CK An Bình
- Chương III : Giải pháp phát triển hoạt động tự doanh tại CTCP CK An Bình
Em xin trân trọng cảm ơn thầy PGS. TS Nguyễn Văn Định đã hướng dẫn em thực
tập đề tài này. Mặc dù đã có nhiều có gắng nhưng do hạn chế về thời gian cũng như
hiểu biết nên báo cáo không tránh khỏi khiếm khuyết, em rất mong nhận được sự góp ý
của thầy để đề tài được hoàn thành một cách tốt nhất.
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
1


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH
CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Các vấn đề cơ bản về công ty chứng khoán
1.1.1. Khái niệm và tổ chức hoạt động công ty chứng khoán
Theo khái niệm chung nhất trên thị trường chứng khoán thế giới thì “Công ty
chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị
trường chứng khoán”
Ở Việt Nam, Theo luật chứng khoán số 70/2006 thì “Công ty Chứng khoán là
Công y cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập theo pháp luật Việt Nam để
kinh doanh chứng khoán theo giấy phép kinh doanh chứng khoán do Ủy ban chứng
khoán Nhà nước cấp”, theo quyết định 27/2007/QĐ-BTC ban hành ngày 24 tháng 4
năm 2007 của Bộ Tài Chính, CTCK là tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động kinh
doanh chứng khoán, bao gồm một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán như:
Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, bảo lãnh phát
hành chứng khoán.
CTCK là một tổ chức kinh doanh có điều lệ và bị kiểm soát nghiêm ngặt bởi
UBCK. Trong Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thực hiện đã xác định cụ thể
mức vốn pháp định đối với từng loại hoạt động của CTCK, cũng như tổng mức nợ của
CTCK có thể thực hiện.
Hoạt động của các CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các doanh nghiệp
sản xuất hay thương mại thông thường, vì CTCK là một loại hình định chế tài chính đặc
biệt nên vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh doanh của nó cũng có nhiều điểm khác
nhau ở các nước khác nhau. Mô hình tổ chức kinh doanh của CTCK ở mỗi nước đều có
những đặc điểm riêng tùy theo đặc điểm của hệ thống tài chính của nước đó và sự cân
nhắc lợi hại của những người làm công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên, ta có thể khái
quát được hai mô hình phổ biến hiện nay là:
• Mô hình chuyên doanh kinh doanh chứng khoán: Theo mô hình này,
CTCK chỉ thực hiện hai loại dịch vụ duy nhất là thực hiện lệnh và thanh toán khi lệnh
mua/bán của nhà đầu tư đã được "khớp" với một hoặc nhiều lệnh khác. Một trong

những ưu điểm chính của các công ty "chuyên doanh" là phí hoa hồng sẽ thấp hơn
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
2
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
khoảng từ 1/2 cho đến 2/3 so với trường hợp các công ty đa năng kinh doanh chứng
khoán. Nhà đầu tư chỉ nên sử dụng dịch vụ của các công ty này khi bạn là một nhà đầu
tư nhạy bén, có khả năng nắm bắt cũng như phân tích thông tin một cách nhanh nhạy và
chính xác và tự mình ra quyết định đầu tư mà không cần sự tư vấn của các chuyên gia.
• Mô hình đa năng kinh doanh chứng khoán: Ngoài việc cung cấp hai loại
dịch vụ kể trên, còn cung cấp các dịch vụ khác như: phát hành các bản nghiên cứu tình
hình đầu tư do các chuyên viên phân tích của phòng nghiên cứu soạn thảo, cung cấp
dịch vụ quản lý tài sản , tư vấn đầu tư, giúp lập các dự toán tài chính, tự doanh cho
chính mình… Ngày nay, cụm từ "dịch vụ môi giới" đang dần dần được thay bằng thuật
ngữ "các dịch vụ tài chính" do các dịch vụ mà nhà môi giới cung cấp cho khách hàng
ngày càng được mở rộng. Như vậy, mô hình đa năng kinh doanh chứng khoán là mô
hình cung cấp cho khách hành không chỉ những dịch vụ mua, bán thanh toán cho khách
hàng mà còn hỗ trợ cho khách hàng về các dịch vụ tư vấn, ngoài ra công ty cũng có thể
tự kinh doanh cho chính mình. Mô hình này đang được áp dụng phổ biến tại Việt Nam.
1.1.2. Các loại hình sở hữu của công ty chứng khoán
Có 3 loại hình tổ chức của CTCK cơ bản là: Công ty hợp danh, Công ty trách
nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần
• Công ty hợp danh
- Là loại hình kinh doanh từ hai chủ sở hữu trở lên.
- Thành viên tham gia vào quá trình ra quyết định quản lý công ty gọi là thành
viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn, tức là phải chịu
trách nhiệm với những khoản nợ của công ty hợp danh bằng toàn bộ tài sản của mình.
Ngược lại, các thành viên không tham gia điều hành công ty được gọi là thành viên góp
vốn, họ chỉ chịu với những khoản nợ của công ty giới hạn trong số vốn họ góp của họ.
- Thông thường khả năng huy động vốn của công ty hợp danh bị giới hạn trong
số vốn mà các hội viên đóng góp. Và Công ty Hợp danh không được phép phát hành bất

cứ một loại chứng khoán nào.
• Công ty trách nhiệm hữu hạn
-Thành viên của công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Vì
vậy điều này sẽ làm giảm áp lực với người đầu tư.
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
3
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Mặt khác, về phương diện huy động vốn cũng đơn giản và linh hoạt hơn so với
các công ty hợp danh. Đồng thời, vấn đề tuyển đội ngũ quản lý cũng năng động hơn,
không bị bó hẹp trong một số đối tác như công ty hợp danh.
• Công ty cổ phần
- Là một pháp nhân độc lập, với các chủ sở hữu là các cổ đông.
- Đại hội cổ đông có quyền bầu ra hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị này sẽ ra
các chính sách, quyết định của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vụ quản lý
khác để điều hành công ty theo các chiến lược công ty đã đề ra.
- Giấy chứng nhận cổ phiếu không thể hiện một món nợ của công ty, mà thể
hiện quyền lợi của người sở hữu đối với tài sản của công ty.
- Công ty vẫn tồn tại khi mà quyền sở hữu của công ty thay đổi.
Công ty cổ phần có một số ưu điểm hơn các mô hình công ty trên là:
+ Đây là một loại hình công ty tồn tại liên tục mà không phụ thuộc vào việc
thay đổi cổ đông hoặc cổ đông nghỉ hưu, qua đời.
+ Rủi ro mà chủ sở hữu của công ty phải chịu được hạn chế ở mức nhất định.
Nếu công ty thua lỗ hay phá sản, cổ đông chỉ bị thiệt hại ở mức vốn đầu tư cho công ty.
+ Quyền sở hữu chứng khoán được chuyển đổi dễ dàng thông qua
việc mua bán chứng khoán.
+ Ngoài ra, đối với CTCK, nếu tổ chức theo hình thức công ty cổ phần được niêm
yết tại Sở giao dịch chứng khoán thì họ đã được miễn phí quảng cáo.
+ Hình thức tổ chức quản lý, chế độ báo cáo, công bố thông tin tốt hơn hai hình
thức trên.

Do có rất nhiều ưu điểm như vậy, nên ngày nay các CTCK chủ yếu tồn tại dưới
hình thức Công ty cổ phần (như Hàn Quốc chẳng hạn còn qui định CTCK là công ty cổ
phần) .
1.1.3. Cơ cấu tổ chức của Công ty chứng khoán
Cơ cấu tổ chức của CTCK phụ thuộc vào loại hình nghiệp vụ chứng khoán mà
công ty thực hiện cũng như qui mô hoạt động kinh doanh của nó. Tuy nhiên, các CTCK
thường có đặc điểm chung là hệ thống các phòng ban chức năng được chia ra làm hai
khối tương ứng với hai khối công việc mà CTCK đảm nhận:
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
4
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
• Khối nghiệp vụ (front office): Là khối thực hiện các giao dịch kinh doanh và
dịch vụ chứng khoán. Khối này đem lại thu nhập cho công ty bằng cách đáp ứng nhu
cầu của khách hàng và tạo ra các sản phẩm phù hợp với các nhu cầu đó. Khối này
thường do một phó tổng giám đốc trực tiếp phụ trách. Tương ứng với các nghiệp vụ của
khối này sẽ có những bộ phận phòng ban nhất định tùy thuộc quy mô họat động của
công ty :
+ Phòng môi giới
+ Phòng tự doanh chứng khoán
+ Phòng bảo lãnh phát hành chứng khoán
+ Phòng quản lý danh mục đầu tư và quỹ đầu tư
+ Phòng tư vấn cho người đầu tư chứng khoán
+ Phòng tư vấn tài chính cho công ty….
• Khối phụ trợ (back office): Là khối không trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ
kinh doanh, nhưng nó không thể thiếu được trong vận hành của CTCK, vì hoạt động của
nó mang tính chất trợ giúp cho khối nghiệp vụ. Khối này thường cũng do một phó tổng
giám đốc phụ trách, thực hiện các công việc yểm trợ cho khối nghiệp vụ.
Ngoài sự phân biệt rõ ràng như vậy, do mức độ phát triển của TTCK mà có thể
có thêm các bộ phận khác như: mạng lưới chi nhánh, văn phòng trong và ngoài nước,
đại lý nhận lệnh…

1.1.4. Chức năng và vai trò của công ty chứng khoán
Hoạt động của TTCK trước hết cần những người môi giới trung gian, đó là các
CTCK- một định chế tài chính trên TTCK có đội ngũ chuyên viên lành nghề và bộ máy
tổ chức phù hợp để thực hiện vai trò trung gian môi giới mua- bán chứng khoán, tư vấn
cho người đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư lẫn tổ chức phát
hành.
Công ty Chứng khoán là các tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. Nhờ các CTCK mà chứng khoán được lưu thông
từ nhà phát hành tới người đầu tư và có tính thanh khoản, qua đấy thì có thể huy động
nguồn vốn từ nơi nhàn rỗi để phân bổ vào những nơi sử dụng có hiệu quả.
a) Chức năng cơ bản của công ty chứng khoán
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
5
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
• Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt bằng cách nối bên có vốn với bên cần
huy động vốn (thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành)
• Cung cấp cơ chế giá cả cho cho giá trị các khoản đầu tư: Thông qua sở Giao
dịch chứng khoán và thị trường OTC; giúp nhà đầu tư có sự đánh giá tốt hơn về giá trị
khoản đầu tư, đồng thời góp phần điều tiết giá chứng khoán
• Tạo tính thanh khoản cho chứng khoán: Các CTCK đảm nhận chức năng
chuyển mặt thành chứng khoán có giá và ngược lại, giúp cho nhà đầu tư phải chịu ít
thiệt hại nhất khi tiến hành đầu tư.
• Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường (thông qua hoạt động tự doanh hoặc
vai trò tạo lập thị trường) .
b) Vai trò của các công ty chứng khoán
Với những chức năng cơ bản như trên, CTCK có vai trò quan trọng đối với những
chủ thể khác nhau trên TTCK.
• Đối với các tổ chức phát hành: Mục tiêu tham gia của TTCK của các tổ chức
phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán. Vì vậy, thông
qua các đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy

động vốn phục vụ các nhà phát hành. Một trong những nguyên tắc hoạt động của TTCK
là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát
hành không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua
bán. Các CTCK sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả nhà đầu tư và nhà phát hành. Khi
thực hiện công việc này, CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông
qua TTCK.
• Đối với các nhà đầu tư: Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu
tư, CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao
hiệu quả đầu tư. Đối với hàng hóa thông thường, mua bán qua trung gian sẽ
làm tăng chi phí cho người mua và người bán. Tuy nhiên, đối với TTCK, sự
biến động thường xuyên của biến động giá cả chứng khoán cũng như mức rủi
ro cao sẽ làm cho nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu
thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng nếu được thông qua các công ty
chứng khoán, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp cho
các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả.
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
6
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
• Đối với TTCK thì công ty chứng khoán có hai vai trò chính:
 Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do thị
trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và bán phải
thông qua các CTCK vì họ không được trực tiếp tham gia vào quá trình mua bán. Các
CTCK là những thành viên của thị trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả của
thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng với nhà phát hành
cùng với nhà phát hành là những người đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy giá của
mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các CTCK . Các CTCK
còn thể hiện vai trò lớn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ khoản đầu tư của
khách hàng và bảo vệ lợi ích cho chính mình, nhiều công ty chứng khoán đã dành một
tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường .
 Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính.

TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài
chính. Nhưng các CTCK mới là người thực hiện tốt vai trò đó bởi vì CTCK tạo tạo ra cơ
chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường cấp 1, do thực hiện các hoạt động như bảo
lãnh phát hành, chứng khoán hóa, các CTCK không những huy động một lượng vốn lớn
đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của
các tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua các đợt phát hành sẽ được mua
bán trên thị trường cấp thứ cấp, do thực hiện các giao dịch mua và bán các CTCK sẽ
giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. Những hoạt
động đó có thể làm tăng tính thanh khoản của những tài sản tài chính.
• Đối với các cơ quan quản lý thị trường: CTCK có vai trò cung cấp thông tin
về TTCK cho các cơ quan quản lý thị trường. Các công ty chứng khoán có
thể thực hiện vai trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành cho các
chứng khoán mới, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện các
giao dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của TTCK là các thông tin
cần phải được công khai hóa dưới sự giám sát của các cơ quan quản lý thị
trường. Việc cung cấp các thông tin minh bạch và công khai vừa là qui định
của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các CTCK. Các
thông tin công ty chứng khoán cung cấp có thể bao gồm thông tin về các giao
dịch mua và bán trên thị trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu và tổ
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
7
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
chức phát hành, thông tin về các nhà đầu tư…Nhờ các thông tin này, các cơ
quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống hiện tượng thao túng, lũng
đoạn bóp méo thị trường .
Tóm lại, CTCK là một tổ chức chuyên nghiệp trên TTCK có vai trò cần thiết và
quan trọng đối với các nhà đầu tư, các nhà phát hành đối với các cơ quan quản lý thị
trường và đối với TTCK nói chung.
1.1.5. Các hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán
Tùy theo quy mô hoạt động, mỗi một CTCK tại Việt Nam có thể có tối đa 5 nghiệp

vụ sau:
1.1.5.1. Hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó CTCK đại
diện cho khách hàng giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán
hay thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với quyết định mua
bán của mình.
Nghiệp vụ môi giới có 2 nhiệm vụ chính là:
+ Nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư, cung cấp cho khách hàng
các báo cáo phân tích và các kiến nghị đầu tư.
+ Nối liền những người bán và những người mua: Đem đến cho khách hàng các
loại sản phẩm và dịch vụ tài chính.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, nhân viên môi giới chứng khoán đòi hỏi phải có
những phẩm chất đạo đức tốt, kỹ năng mẫn cán trong công việc và với thái độ công tâm,
cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Nhà môi giới không được xúi giục
khách hàng mua bán chứng khoán để kiếm hoa hồng, mà nên đưa ra những lời khuyên
hợp lý để hạn chế đến mức thấp nhất về thiệt hại cho khách hàng.
1.1.5.2. Hoạt động bảo lãnh và phát hành chứng khoán
Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng đòi hỏi, tổ
chức phát hành phải cần đến các CTCK tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện bảo lãnh,
phân phối chứng khoán ra công chúng và giúp bình ổn giá trong giai đoạn đầu sau khi
phát hành. Đây chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các CTCK, và thường là
nghiệp vụ chiếm doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của công ty chứng khoán.
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
8
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Như vậy, hoạt động bảo lãnh phát hành là việc CTCK tiến hành thực hiện các hoạt
động hướng dẫn cho tổ chức phát hành trong việc phát hành một loại chứng khoán ra thị
trường như: tư vấn loại chứng khoán phát hành, tiến hành thực hiện các hoạt động liên
quan như thủ tục xin phép phát hành, công bố và niêm yết thông tin ra bên ngoài, tìm
kiếm và chào bán cho các khách hàng lớn… để công việc phát hành được triển khai

đúng trình tự và quy định của pháp luật.
Trên TTCK, tổ chức bảo lãnh phát hành không chỉ có Công ty chứng khoán mà
còn bao gồm các định chế tài chính khác như ngân hàng đầu tư, nhưng thông thường các
CTCK nhận bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn các
ngân hàng đầu tư thường đứng ra nhận bảo lãnh phát hành (hoặc thành lập tổ hợp bảo
lãnh phát hành) sau đó chuyển phân phối chứng khoán cho các công ty chứng khoán tự
doanh hoặc các thành viên khác.
Các hình thức bảo lãnh phát hành:
 Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là hình thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh cam
kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán của tổ chức phát hành cho dù các nhà đầu tư
có đăng ký mua hết hay không.
 Bảo lãnh với cam kết tối đa: đây là hình thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh
không cam kết mua toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành. Tổ chức bảo
lãnh sẽ làm đại lý phát hành cho tổ chức phát hành và hưởng hoa hồng trên số
chứng khoán phát hành được. Tổ chức bảo lãnh chỉ cam kết cố gắng để bán
chứng khoán nhiều nhất có thể, phần chứng khoán còn lại không bán được sẽ trả
lại tổ chức phát hành. Vì vậy, với hình thức này việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh
phát hành là việc hết sức quan trọng đối với tổ chức phát hành. Uy tín, năng lực
của tổ chức bảo lãnh phát hành sẽ thể hiện qua số lượng chứng khoán phát hành
thành công.
 Bảo lãnh tất cả hoặc không: Đây là hình thức phát hành mà tổ chức bảo lãnh
phát hành được dành quyền để hủy bỏ đợt phát hành nếu toàn bộ chứng khoán
không được bán hết. Hình thức bảo lãnh này đòi hỏi các tổ chức bảo lãnh phát
hành phải cố gắng tối đa để chào bán chứng khoán nhằm đảm bảo cho đợt phát
hành thành công.
Bảng 1.1: Sơ đồ quy trình hoạt động bảo lãnh phát hành.
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
9
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đối với những đợt phát hành quan trọng của các tổ chức phát hành mà số lượng

chứng khoán cần bảo lãnh quá lớn so với khả năng của CTCK thì những công ty này sẽ
liên kết với các CTCK khác để có thể thực hiện được nghiệp vụ bảo lãnh phát hành cho
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
Tổ chức
phát
hành
UBCK
Công ty
Chứng
Nhận yêu cầu bảo lãnh
Ký hợp đồng tư vấn quản lý
- Đệ trình phương án,
- Cam kết bảo lãnh
Nộp hồ sơ xin phép phát hành
Lập nghiệp đoàn bảo lãnh
Phân phối cổ phiếu trên cơ sở
phiếu đăng ký
Ký hợp đồng bảo lãnh
Giấy phép phát hành CK có hiệu lực
- Công bố việc phát hành
- Phân phát báo cáo bạch
- Phân phát phiếu đăng ký mua
CK
- Nhận tiền đặt cọc
Thăm dò thị trường
Bình ổn thị trường Thanh toánLưu ký CK
10
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
tổ chức phát hành đó. Việc liên kết nhiều CTCK trong việc cùng thực hiện bảo lãnh cho
các tổ chức phát hành được gọi là tổ hợp bảo lãnh hoặc đồng bảo lãnh. Ngày nay, đa số

các CTCK đều thực hiện theo xu hướng này vì như vậy ngoài sự đảm bảo tối ưu trong
việc thực hiện đợt phát hành, nó còn chia sẻ làm giảm mức độ rủi ro đối với từng đơn vị
kinh doanh chứng khoán.
1.1.5.3. Hoạt động tư vấn
Cũng như các loại hình tư vấn khác, hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán là công
việc CTCK thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình
huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan tới phát hành, đầu tư
và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Đặc biệt, ở Việt Nam hiện nay trong chủ trương
quản lý và phát triển đối với các doanh nghiệp nhà nước thì dịch vụ tư vấn cổ phần hóa
được triển khai nhiều nhất.
Theo đối tượng của hoạt động tư vấn, thì có thể phân chia hoạt động tư vấn thành
2 loại là : Tư vấn cho người phát hành và tư vấn đầu tư.
 Tư vấn cho tổ chức phát hành: Là hoạt động mà các CTCK sử dụng các
kiến thức đặc thù của mình nhằm giúp cho khách hàng trong việc xác định
giá trị doanh nghiệp, phát hành và niêm yết chứng khoán. Đây là một mảng
hoạt động quan trọng vì nếu như hoạt động này được thực hiện một cách tốt
đẹp thì sẽ hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp và tạo ra những loại hàng hóa
có chất lượng cao trên thị trường. Trong đó:
- Xác định giá trị doanh nghiệp: Là việc CTCK định giá doanh nghiệp trước khi
chào bán chứng khoán ra công chúng. Là cơ sở để đánh giá trong việc mua bán
và sát nhập công ty.
- Tư vấn tái cơ cấu nguồn vốn: Khi một doanh nghiệp nhận thấy cơ cấu vốn của
mình không phù hợp với điều kiện kinh doanh hiện tại hay không phù hợp với
nghành nghề của mình thì họ sẽ tìm cách tái cơ cấu nguồn để nâng cao hiệu quả
và đảm bảo kinh doanh an toàn. Khi đó, CTCK là một nhà đối tác thích hợp vì nó
có chuyên môn trong lĩnh vực tài chính.
- Tư vấn quản trị công ty: CTCK tư vấn cho khách hàng của mình trong việc xây
dựng điều lệ, cơ cấu tổ chức, hoạt động nhằm giúp các CTCP hoạt động hiệu quả
hơn trong giai động mới thành lập
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C

11
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Tư vấn phát hành: CTCK tư vấn cho tổ chức phát hành về cách thức phát hành,
xây dựng hồ sơ, bản cáo bạch…, và giúp tổ chức phát hành trong việc lựa chọn
tổ chức bảo lãnh và phân phối chứng khoán.
- Tư vấn niêm yết: Là việc CTCK giúp các doanh nghiệp thực hiện các thủ tục
theo quy định của pháp luật để đưa doanh nghiệp đó lên niêm yết tại SGDCK
hay TTGDCK.
 Tư vấn đầu tư chứng khoán
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc đội ngũ tư vấn CTCK sử dụng các công cụ
phân tích cơ bản, phân tích kỹ thuật và thu thập các thông tin để đưa ra các lời khuyên
cho khách hàng về thời điểm mua, bán, thời gian nắm giữ, xu hướng và biền động của
thị trường. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán được phân loại theo các tiêu chi sau:
a) Theo hình thức của hoạt động tư vấn:
- Tư vấn trực tiếp: Khách hàng có thể gặp gỡ trực tiếp với các nhà tư vấn hoặc sử
dụng các phương tiện truyền thông như điện thoại, internet, fax… để hỏi ý kiến.
- Tư vấn gián tiếp: Là cách nhân viên tư vấn xuất bản các ấn phẩm hay đưa thông
tin lên những phương tiện truyền thông như internet để bất kỳ khách hàng nào
cũng có thể tiếp cận nếu muốn.
b) Theo mức độ ủy quyền của hoạt động tư vấn:
- Tư vấn gợi ý: Ở mức độ này, nhân viên tư vấn chỉ có quyền nêu ý kiến của mình
về những phương pháp, cách thức xử lý nhưng quyền quyết định là của khách
hàng.
- Tư vấn ủy quyền: Với nghiệp vụ này, nhà tư vấn sẽ tư vấn và quyết định thay
cho khách hàng tùy theo mức độ mà khách hàng đó ủy quyền.
Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn:
• Không đảm bảo chắc chắn về giá trị chứng khoán: Giá trị chứng khoán không
phải là một số cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế và tâm lý của nhà
đầu tư.
• Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình dựa trên những cơ sở

phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ có thể là không
hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối cùng. Trong việc sử
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
12
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
dụng các thông tin từ nhà đầu tư cung cấp, nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm
về những thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra.
• Không được dụ dỗ, mời chào khách hàng mua, bán bất kỳ một chứng khoán nào
đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ cơ sở khách quan là quá trình phân
tích, tổng hợp một cách khoa học, logic các vấn đề nghiên cứu.
1.1.5.4. Hoạt động tự doanh
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng
khoán cho chính mình.
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua cơ chế
giao dịch trên SGDCK hoặc thị trường OTC. Vì vậy, chứng khoán mà CTCK nắm giữ
có thể là chứng khoán niêm yết hoặc chưa niêm yết.
Đây là vấn đề nghiên cứu của chính đề tài nên em sẽ đề cập chi tiết ở những phần
sau.
1.1.5.5. Các nghiệp vụ phụ trợ
+ Lưu kí chứng khoán: Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng
thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán
cho khách hàng, CTCK sẽ nhận được các khoản thu phí lưu kí chứng khoán (phí gửi,
phí rút và chuyển nhượng chứng khoán).
+ Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý cổ tức): Xuất phát từ việc lưu
kí chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ
tức của chứng khoán đồng thời CTCK đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức
cho khách hàng thông qua tài khoản mở của khách hàng.
+ Nghiệp vụ tín dụng: Đối với các thị trường chứng khoán phát triển, bên cạnh
nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, các CTCK còn
triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống

(short sale) hoặc cho vay tiền để khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ.
+ Nghiệp vụ quản lý quỹ: Ở một số TTCK, pháp luật còn cho phép CTCK được
quản lý được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, CTCK cử đại diện của
mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn, tài sản của quỹ để đầu tư. CTCK được quyền thu
phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư.
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
13
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
1.2. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán
1.2.1. Khái niệm tự doanh chứng khoán
“Tự doanh chứng khoán là việc các CTCK tự tiến hành các giao dịch mua bán
chứng khoán cho chính mình”.
(Theo “Giáo trình thị trường chứng khoán” NXB Tài chính- 2002-Trường ĐH
Kinh Tế Quốc Dân)
1.2.2. Mục đích của hoạt động tự doanh
Hoạt động tự doanh của CTCK có thể được thực hiện trên các thị trường giao dịch
tập trung (trung tâm giao dịch chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán), hoặc trên thị
trường OTC…Hoạt động tự doanh ngoài mục đích đem lại lợi nhuận cho công ty thì nó
còn góp phần can thiệp, điều tiết giá chứng khoán, tạo lập thị trường cho các chứng
khoán mới phát hành và thu gom cổ phiếu lô lẻ cho các khách hàng của mình.
Bên cạnh đó, hoạt động tự doanh còn gắn liền với hoạt động đầu tư của CTCK
thông qua việc tham gia đấu giá cổ phần, đấu thầu trái phiếu, các hoạt động thâu tóm và
sát nhập (M&A). Trong quá trình thâu tóm và sát nhập các CTCK có thể phối hợp với
các tổ chức tài chính góp vốn đầu tư vào các doanh nghiệp tư vấn, tái cơ cấu tài chính
và nâng cao giá trị doanh nghiệp để từ đó đưa ra niêm yết trên thị trường chứng khoán.
1.2.3. Đặc điểm của hoạt động tự doanh của CTCK
- Tự doanh chứng khoán của CTCK có tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa cao.
Tính chuyên nghiệp thể hiện trước nhất ở trình độ và khả năng của các cán bộ thực
hiện họat động tự doanh của CTCK. Họ là những người có kiến thức chuyên môn, có
khả năng phân tích, đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn và có thể làm việc dưới áp

lực rất cao. Mặc dù tính năng động và tự chủ được đề cao trong hoạt động tự doanh ở
các CTCK song mọi hoạt động đầu tư kinh doanh cổ phiếu, trái phiếu của các CTCK
đều phải tuân theo một quy trình đầu tư chặt chẽ để đảm bảo tính hiệu quả và an toàn
trong đầu tư. Quy trình đầu tư quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của tất cả các đối
tượng tham gia hoạt động tự doanh của công ty, đồng thời cũng đưa ra các bước đầu tư
cần thiết để thực hiện một phương án đầu tư. Bên cạnh đó hoạt động tự doanh của
CTCK luôn mang tính chiến lược, có mục đích và định hướng lâu dài. Dựa vào các phân
tích vĩ mô về thị trường và các điểm mạnh, yếu của công ty trong từng giai đoạn hoạt
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
14
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
động, CTCK đều đề ra các chiến lựợc đầu tư và chính sách quản trị danh mục đầu tư
một cách phù hợp nhất.
- Tự doanh của CTCK có quy mô lớn, mức độ tập trung hóa, đa dạng hóa cao
Do có tính chuyên nghiệp cao cùng một tiềm lực tài chính hùng mạnh nên quy mô
đầu tư vào TTCK của CTCK thường rất lớn và danh mục đầu tư đa dạng. Các CTCK
không chỉ tập trung vào một thị trường, một nghành nhất định mà họ đầu tư rộng khắp
trên nhiều thị trường khác nhau cả trong và ngoài nước. Dựa vào những lợi thế của một
tổ chức tài chính trung gian chuyên nghiệp, các CTCK có khả năng tìm ra những cơ hội
đầu tư nên họ dễ dàng có thể đa dạng hóa đầu tư danh mục của mình.
- Các công ty chứng khoán hầu như đều sử dụng các công cụ phòng vệ phù hợp
với chiến lược và quy trình hoạt động của mình. Mặc dù có nhiều điểm manh
song hoạt động tự doanh của CTCK vẫn luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Bởi vậy,
trong họat động tự doanh chứng khoán của mình, hầu hết các CTCK đều sử dụng
các công cụ phòng vệ. Việc sử dụng các công cụ phòng vệ hữu hiệu đến đâu phụ
thuộc vào các yếu tố khác nhau, các yếu tố khách quan và chủ quan. Yếu tố
khách quan thể hiện ở sự phát triển của thị trường đối với việc sử dụng các công
cụ phòng vệ trong hoạt động đầu tư như future, option… Yếu tố chủ quan lại
thuộc về công ty bao gồm các yếu tố về nhân lực, chiến lược phát triển, chính
sách quản lý danh mục đầu tư.

1.2.4. Phân loại hoạt động tự doanh
- Theo mục tiêu đầu tư
• Hoạt động đầu tư ngân quỹ
Đầu tư ngân quỹ nhằm tăng khả năng sinh lời, tạo một khoản dự trữ thứ cấp cho
nhu cầu thanh toán và dự phòng. Hoạt động này chủ yếu đầu tư vào chứng khoán có tính
thanh khoản cao (cổ phiếu). Mặc dù việc đầu tư này có tính rủi ro lớn nhưng khi công ty
cần có một khoản vốn nhất định thì công ty có thể huy động nhanh chóng bằng cách bán
cổ phiếu ra thị trường trong thời gian ngắn. Hoạt động đầu tư ngân quỹ là hoạt động đầu
tư ngắn hạn của CTCK nhưng lại là khoản đầu tư có mức sinh lời không nhỏ.
• Hoạt động đầu tư hưởng lợi
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
15
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Hoạt động đầu tư hưởng lợi là hoạt động đầu tư chủ yếu quan trọng trong nghiệp
vụ tự doanh của công ty, vì đây là hoạt động có mức sinh lời lớn nhất. Hoạt động đầu tư
hưởng lợi bao gồm: đầu cơ, kinh doanh chênh lệch giá, đầu tư phòng vệ…
• Hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát
Ngoài việc đầu tư hưởng lợi, CTCK có thể thực hiện việc mua chứng khoán nhằm
nắm giữ chứng khoán (cổ phiếu) và trở thành cổ đông của công ty phát hành. Việc nắm
giữ càng nhiều chứng khoán dần dần sẽ trở thành cổ đông lớn và nắm quyền kiểm soát
công ty hoặc CTCK nhờ việc nắm giữ chứng khoán đó mà gây áp lực lên tổ chức phát
hành trong việc điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Tổ chức phát hành muốn tham
gia vào thị trường tài chính (phát hành chứng khoán, phát hành thêm chứng khoán, mở
tài khỏan đầu tư chứng khoán…) đều phải thông qua công ty chứng khoán, từ đó công
ty chứng khoán sẽ được hưởng lợi từ việc thu phí giao dịch.
• Hoạt động tạo lập thị trường
Khi nắm giữ chứng khoán, CTCK nhận được thu nhập từ chứng khoán (trái tức, cổ
tức), chênh lệch giá, hoặc nhận được các quyền lợi khác (quyền mua cổ phiếu khi công
ty phát hành thêm cổ phiếu, nhận cổ phiếu thưởng từ tổ chức phát hành). Khi tạo lập thị
trường cho chứng khoán, CTCK có thể nhận được tiền hoa hồng từ dịch vụ hỗ trợ mua,

bán hộ chứng khoán cho khách hàng, hoặc tiền chênh lệch giá chứng khoán. Ngoài ra,
CTCK còn được hưởng các quyền lợi khác như khoản miễn giảm thuế và phí giao dịch,
quyền được nhận thông tin, quyền lợi từ các chính sách hỗ trợ khác của Nhà nước và
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán.
- Theo đối tượng đầu tư.
• Tự doanh cổ phiếu.
• Tự doanh trái phiếu .
• Tự doanh chứng chỉ quỹ.
• Tự doanh chứng khoán phái sinh.
1.2.5. Những yêu cầu đối với CTCK khi thực hiện hoạt động tự doanh
Yêu cầu đầu tiên đối với bất kỳ một công ty chứng khoán muồn tham gia vào hoạt
động tự doanh đó là mức vốn đăng ký. Nghị định số 14/2007/NĐ-CP ban hành ngày
19/01/2007 đã nêu rõ mức vốn pháp định để một CTCK có thể hoạt động tự doanh là
100 tỷ đồng. Và 31/01/2009 là thời hạn cuối cùng để các công ty chứng khoán thành lập
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
16
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
trước ngày 01/01/2007 phải tăng vốn điều lệ lên mức tối thiểu là 300 tỷ đồng để đủ điều
kiện thực hiện tất cả các nghiệp vụ kinh doanh đã đăng ký (tự doanh chứng khoán: 100
tỷ đồng, môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng, tư vấn đầu tư :10 tỷ đồng, bảo lãnh phát
hành: 165 tỷ đồng). Nếu đến thời hạn mà các công ty chứng khoán chưa đạt vốn tối
thiểu thì sẽ phải cắt giảm bớt các nghiệp vụ. Các CTCK thành lập sau ngày 01/01/2007
đã được cấp phép nghiệp vụ hoạt động tương ứng nên không chịu áp lực tăng vốn này.
Theo điều 20 của Quyết định số 55/2004/QĐ-BTC ban hành ngày 17/06/2004 về
hoạt động tự doanh, khi tiến hành hoạt động tự doanh CTCK không được:
- Đầu tư vào cổ phiếu của công ty sở hữu trên 50% vốn điều lệ của CTCK.
- Đầu tư trên 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm yết.
- Đầu tư trên 15% tổng số cổ phiếu đag lưu hành của một tổ chức không niêm yết.
- Đầu tư hoặc góp vốn trên 15% tổng số vốn góp của một Công ty trách nhiệm hữu
hạn.

Trường hợp CTCK nào vượt quá các hạn mức quy định thì bị sẽ xử lý theo quy định
của pháp luật hiện hành.
Khi thực hiện hoạt động tự doanh thì các CTCK phải tuân thủ 4 nguyên tắc sau:
 Tách biệt quản lý:
Các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để
đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách biệt này bao gồm cả yếu tố
con người và quy trình nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng và công ty.
Các CTCK phải có đội ngũ nhân viên riêng biệt để thực hiện nghiệp vụ tự doanh.
Các nhân viên này phải hoạn toàn tách biệt đối với bộ phân môi giới. Tại một số nước
(như Thái Lan) các CTCK thực hiện hoạt động tự doanh còn phải tuân thủ nguyên tắc
phân chia ranh giới một cách rõ ràng (Chinese Wall). Các nhân viên của bộ phận này
không được phép trao đổi hay sang khu vực làm việc của bộ phận khác.
 Ưu tiên khách hàng
Pháp luật của hầu hết các nước đều yêu cầu công ty chứng khoán phải tuân thủ
nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa
là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty.
Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng cho các khách hàng trong quá trình giao dịch
chứng khoán. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
17
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
trường chứng khoán nên các công ty chứng khoán có thể dự đoán trước được diễn biến
của thị trường và sẽ mua tranh hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc
trên.
 Bình ổn thị trường
Can thiệp giá và bình ổn thị trường là một trong những yêu cầu đối với CTCK mà
pháp luật đã quy định. Theo đó, các CTCK có nghĩa vụ mua vào khi giá chứng khoán
giảm và bán ra khi giá có xu hướng tăng, nhằm giữ giá chứng khoán trong trạng thái ổn
định. Luật các nước đều quy định các CTCK phải dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch
của mình cho hoạt động bình ổn thị trường.

Do đặc thù của thị trường chứng khoán, đặc biệt là các thị trường chứng khoán
mới nổi bao gồm chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân , nhỏ lẻ thì tính chuyên nghiệp trong
hoạt động đầu tư không cao. Điều này rất dễ dẫn đến những biến động bất thường trên
thị trường. Vì vậy, các nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp rất cần thiết để làm tín hiệu hướng
dẫn cho toàn bộ thị trường. Bên cạnh hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán, các
CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của mình có thể thông qua hoạt
động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung cầu , bình ổn giá cả của chứng
khoán trên thị trường.
 Hoạt động tạo lập thị trường
Khi được phát hành, các chứng khoán mới chưa có thị trường giao dịch. Để tạo thị
trường cho các chứng khoán mới này, các công ty chứng khoán thực hiện tự doanh
thông qua việc mua và bán chứng khoán tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp 2. Trên
thị trường chứng khoán phát triển, các nhà tạo lập thị trường sử dụng nghiệp vụ mua
bán chứng khoán trên thị trường OTC để tạo thị trường. Theo đó, họ liên tục có những
báo giá để mua hoặc bán chứng khoán với các nhà kinh doanh chứng khoán khác. Như
vậy, họ sẽ duy trì được một thị trường liên tục đối với chứng khoán mà họ kinh doanh.
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
18
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
 Các hình thức giao dịch trong hoạt động tự doanh:
 Giao dịch gián tiếp: CTCK đặt các lệnh mua và bán chứng khoán trên Sở giao
dịch chứng khoán, và lệnh của họ có thể thực hiện đối với bất kỳ khách hàng nào
không được xác định trước.
 Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch tay đôi giữa hai CTCK hay giữa công ty chứng
khoán với một khách hàng bằng cách thương lượng. Đối tượng của các giao dịch
trực tiếp là các loại chứng khoán đăng ký giao dịch ở thị trường OTC.
1.2.6. Quy trình hoạt động tự doanh chứng khoán
Cũng như các hoạt động nghiệp vụ khác, hoạt động tự doanh không có một quy
trình chuẩn hay bắt buộc nào. Các CTCK tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức của mình sẽ có
các quy trình nghiệp vụ riêng phù hợp. Tuy nhiên, trên giác độ chung nhất, quy trình

hoạt động tự doanh có thể được chia thành 5 giai đoạn sau:
1.2.6.1. Xây dựng chiến lược đầu tư
Trong giai đoạn này, công ty chứng khoán phải xác định được chiến lược đầu tư
trong hoạt động tự doanh của mình. Đó có thể là chiến lược đầu tư chủ động, thụ động
hoặc đầu tư vào một số nghành nghề, lĩnh vực nào đó.
1.2.6.2. Khai thác tìm kiếm cơ hội đầu tư
Sau khi xây dựng chiến lược đầu tư của công ty, bộ phận tự doanh sẽ triển khai tìm
kiếm các cơ hội đầu tư. Công ty chứng khoán sẽ có chiến lược đầu tư cho riêng mình
đối với từng loại cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ tùy theo mức vốn điều lệ và định
hướng phát triển của công ty.
Tìm hiểu thị trường giúp cho nhà đầu tư có cái nhìn toàn cục về thực trạng của thị
trường chứng khoán- nơi mà họ đang kỳ vọng khai thác lợi nhuận. Khi tìm hiểu thị
trường cán bộ tự doanh nên tập trung vào các thông tin sau:
- Quá trình phát triển của thị trường (có ổn định hay không ?)
- Các biến cố lịch sử của thị trường và lý giải các biến cố đó?
- Các nhân tố vĩ mô và vi mô có thể gây ảnh hưởng tới thị trường?
- Tình trạng hiện tại của thị trường?
Dựa vào các thông tin có được trên thị trường, mà các nhân viên tự doanh tìm kiếm
được những cơ hội đầu tư có thể là trên thị trường niêm yết, OTC, hay các đợt đấu giá
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hoặc các đợt phát hành lần đầu khác.
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
19
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
1.2.6.3. Phân tích đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư
Trong giai đoạn này, bộ phận tự doanh có thể kết hợp với bộ phận phân tích trong
công ty tiến hành thẩm định đánh giá chất lượng của các khoản đầu tư. Thu thập và sàng
lọc thông tin là một quá trình thường xuyên trước và sau khi tiến hành đầu tư. Với nhóm
chứng khoán tiềm năng đã được lựa chọn từ bước trên,càn bộ tự doanh có thể tập thu
thập và phân tích thông tin chi tiết hơn để lựa chọn chứng khoán tối ưu cho danh mục
đầu tư của mình. Việc đánh giá chất luợng cơ hội đầu tư thông qua việc đánh giá môi

trường vĩ mô, tình hình thị trường chứng khoán,phân tích nghành nghề và phân tích
công ty đối với từng loại chứng khoán riêng lẻ để từ đó xác định được mức sinh lợi kỳ
vọng và rủi ro dự kiến của khoản đầu tư đó. Lưu ý rằng cảm tính có thể đem lại cho
chúng ta thành công chứ không phải sự chắc chắn do đó, do đó chỉ những chứng khoán
có đầy đủ căn cứ thực tế mới được chọn vào danh mục. Cán bộ tự doanh cũng phải cũng
lên cân nhắc về tính “mở” thông tin của chứng khoán thành phần nhằm giảm thiểu
những hạn chế trong việc quản lý và theo dõi danh mục sau đầu tư.
Đối với các chứng khoán đã niêm yết trên sàn, tùy vào mức vốn đầu tư mà các
nhân viên tự doanh tự sẽ ra quyết định hoặc lập phương án đầu tư đệ trình lên cấp quản
lý cao hơn xét duyệt. Đối với các chứng khoán đầu tư với khối lượng lớn hay tham gia
đấu giá trong các đợt cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, phát hành thêm cổ phiếu của
công ty đại chúng thì các nhân viên tự doanh phải lập các phương án đầu tư đệ trình lên
cấp quản lý cao hơn xét duyệt.
1.2.6.4. Thực hiện phương án đầu tư
Sau khi đánh giá phân tích cơ hội đầu tư, bộ phận tự doanh của công ty sẽ triển
khai các hoạt động giao dịch mua, bán chứng khoán. Đối với các chứng khoán niêm yết
thì nhân viên tự doanh thực hiện đặt lệnh mua, bán theo quy định còn đối với các chứng
khoán khác thì thực hiện theo hướng dẫn của các tổ chức phát hành nếu tham gia đấu
giá hoặc mua cổ phiếu với tư cách là cổ đông chiến lược hoặc thực hiện các hợp đồng
chuyển nhượng và thực hiện các thủ tục sang tên đối với các cổ phiếu trên thị trường
OTC. Các hợp đồng này phải được thực hiện một cách nghiêm túc tuân thủ những hạn
mức do pháp luật quy định nhằm đảm bảo công bằng cho các nhà đầu tư, đồng thời tạo
một môi trường trong sạch cho hoạt động đầu tư.
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
20
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Ngoài ra, một hiện tượng phổ biến hiện nay là các CTCK mua chứng khoán lô lẻ
của các nhà đầu (thường là khách hàng mở tài khoản giao dịch tại CTCK) sau đó CTCK
sẽ gộp thành lô chẵn bán lại trên trung tâm giao dịch chứng khoán.
1.2.6.5. Quản lý đầu tư và thu hồi vốn

Đây là quá trình giám sát danh mục dựa trên các tiêu chí đầu tư đã đề ra từ bước
trên. Trong bước này, thông tin tiếp tục được cập nhập và phân tích theo mức độ thường
xuyên có thể của bộ phận tự doanh, phải đảm bảo và phát hiện kịp thời được những biến
động bất thường của thị trường và của chứng khoán thành phần. Trong trường hợp các
tiêu chí đầu tư đạt mức hoặc bị vi phạm, cán bộ tự doanh phải xác định nguyên nhân của
biến động và tiến hành chỉnh sửa tiêu chí đầu tư, thanh lý, hoặc cắt lỗ (cut loss). Tuy
nhiên, việc chỉnh sửa tiêu chí đầu tư chỉ nên thực hiện khi có những bằng chứng xác
thực về xu thế thị trường. Đặc biệt, với những biến động lớn và bất thường, bộ phận tự
doanh phải theo dõi sắt sao diễn biến thị trường thay vì chỉnh sửa những tiêu chí đặt ra.
Sau khi thu hồi vốn, bộ phận tự doanh sẽ tổng kết, đánh giá lại tình hình thực hiện
so với kế hoạch đã đề ra xem có hoàn thành hay không. Đồng thời rút ra những bài học
kinh nghiệm và trên cơ sở đó xây dựng chiến lược cho thời gian tiếp theo.
1.2.7. Chính sách quản lý danh mục đầu tư
Thị trường chứng khoán, đặc biệt là trong ngắn hạn, luôn có những biến động bất
thường nằm ngoài dự báo của các chuyên gia kể cả các những chuyên gia lão luyện
nhất, khiến nhiều người có cảm giác nó như một trò chơi may rủi, không thể “đem thành
bại mà luận anh hùng”. Tuy nhiên, thực tế TTCK của các quốc gia phát triển lại cho
thấy những nhà đầu tư đạt được những thành công nổi bật, ổn định và lâu dài thường là
những nhà đầu tư chuyên nghiệp có chiến lược đầu tư được hoạch định cẩn trọng, đúng
đắn và kiên trì theo đuổi chiến lược đó.
Quản lý danh mục đầu tư là một nghiệp vụ quan trọng trong kinh doanh chứng
khoán của các CTCK, là công cụ hữu hiệu để hạn chế rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận. Để
có thể gia tăng được nguồn vốn của mình thông qua hoạt động tự doanh thì các CTCK
phải có những chính sách đầu tư hợp lý. Vì vậy, để đảm bảo được mục tiêu đó thì các
CTCK phải lựa chọn cho mình được một danh mục đầu tư hợp lý có khả năng sinh lời
cao nhất và tỷ lệ rủi ro ở mức thấp nhất. Vấn đề đặt ra cho các CTCK là làm thế nào để
quản lý danh mục đầu tư một cách tối ưu nhất? Một danh mục đầu tư có thể bao gồm tất
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
21
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

cả các chứng khoán được giao dịch trên thị trường như cổ phiếu, trái phiếu, chứng
khóan phái sinh.
Quy trình quản lý danh mục đầu tư là quá trình liên tục và có hệ thống bao gồm 4 bước:
Thứ nhất, xây dựng mục tiêu đầu tư. Xây dựng mục tiêu bao giờ cũng là khâu đầu
tiên của một quá trình quản trị. Và quy trình xây dựng danh mục đầu tư cũng bắt đầu
bằng việc xây dựng mục tiêu đầu tư. Mục tiêu đầu tư thường phải đề cập đến 3 yếu tố
cơ bản như: yêu cầu về lợi nhuận, mức độ chấp nhận rủi ro và thời hạn thu hồi vốn.
Ngoài ra, mục tiêu đầu tư còn có thể đề cập đến những hạn chế hay những ưu tiên trong
hoạt động đầu tư. Các CTCK tùy theo những đặc thù, điều kiện cụ thể của mình có thể
có những mục tiêu đầu tư rất khác nhau. Việc xây dựng mục tiêu đầu tư đóng vai trò rất
quan trọng bởi vì: mục tiêu là cơ sở để xây dựng danh mục đầu tư, cơ sở để điều chỉnh
danh mục đầu tư và là căn cứ để đánh giá hiệu quả hoạt động của danh mục đầu tư.
Thứ hai, chính sách phân bổ tài sản (Asset Allocation) hợp lý: Là quyết định tỷ lệ
phân bổ ngân qũy đầu tư của công ty vào các loại tài sản đầu tư chính như : tiền mặt và
các công cụ tương đương tiền mặt, các công cụ thị trường tiền tệ, trái phiếu, cổ phiếu,
bất động sản…) để đạt được các mục tiêu đầu tư đã đặt ra. Quyết định phân bổ tài sản là
đặc biệt quan trọng, vì nó chi phối việc thực hiện của hầu hết toàn bộ danh mục đầu tư.
Thậm chí có nhiều quan điểm cho rằng việc phân bổ tài sản quyết định đến hơn 50% sự
thành công hay thất bại của một DMĐT.
Thứ ba, lựa chọn chứng khoán (Security Selection) đầu tư: Đây là công đoạn,
trong đó nhà quản trị đầu tư phải sử dụng nhiều phương pháp kỹ thuật và chiến lược
khác nhau để lựa chọn các chứng khoán cụ thể vào DMĐT. Có thể nói đây là công đoạn
cuối cùng trong quy trình xây dựng DMĐT. Nhưng đây là một công việc mang tính chất
liên tục, nhà đầu tư không chỉ thực hiện lựa chọn chứng khoán một lần duy nhất trong
tòan bộ quá trình đầu tư mà còn phải thường xuyên điều chỉnh DMĐT khi thị trường có
những biến động hay đưa ra quyết định mua bán kịp thời khi phát hiện có những chứng
khoán bị định giá sai.
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
22
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

Thứ tư, lựa chọn chiến lược quản lý danh mục đầu tư hiệu quả. Trong mô hình
này, việc lựa chọn chiến lược đầu tư xuất hiện với tư cách là một công đoạn độc lập
trong quy trình xây dựng và quản lý DMĐT. Có quan điểm cho rằng nó thuộc công
đoạn phân bổ tài sản, cũng có quan điểm cho rằng nó thuộc công đoạn lựa chọn chứng
khoán. Tuy nhiên, dù là một công đoạn độc lập hay thuộc công đoạn nào thì việc lựa
chọn chiến lược đầu tư vẫn là một khâu quan trọng, bởi nó là cầu nối truyền dẫn mục
tiêu đầu tư và chính sách phân bổ tài sản đến công đoạn thực hiện cụ thể là lựa chọn
chứng khoán. Nó là kim chỉ nam hướng dẫn quan trọng khi tiến hành xây dựng danh
mục đầu tư và toàn bộ quá trình điều chỉnh danh mục đầu tư sau đó.
Về quản lý danh mục đầu tư chứng khoán có 2 hình thức quản lý :
- Chiến lược quản lý danh mục đầu tư thụ động
Chiến lược này được hiểu một cách đơn giản nhất là chiến lược mua và nắm giữ
(buy - and - hold), nhà đầu tư sẽ mua và nắm giữ chứng khoán trong một thời gian dài,
trong suốt thời gian đó họ hầu như không điều chỉnh hoặc chỉ điều chỉnh một cách tối
thiểu danh mục đầu tư. Chiến lược thụ động được cổ vũ bởi lý thuyết thị trường hiệu
quả (Efficient Market Hypothesis), họ cho rằng thị trường là hiệu quả, giá cả thị trường
của các cổ phiếu luôn hợp lý, nó phản ánh một cách nhanh chóng tất cả thông tin liên
quan đến cổ phiếu đó, thị trường là một cơ chế định giá hiệu quả và do đó không tồn tại
các chứng khoán bị định giá sai. Do vậy, không cần phải bỏ công tìm kiếm các chứng
khoán bị định giá sai và mua bán chứng khoán một cách chủ động. Các nhà đầu tư theo
đuổi chiến lược thụ động thường đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm làm cho DMĐT
của mình khớp với một chỉ số chứng khoán nào đó. Do vậy, chiến lược thụ động thường
được gọi là chiến lược khớp chỉ số (Match- Index- Strategy). Chiến lược bị động thuần
túy nhất chính là chiến lược khớp chỉ số một cách hoàn toàn. Theo chiến lược này nhà
đầu tư sẽ chọn một chỉ số chứng khoán nào đó làm chuẩn chẳng hạn như chỉ số S&P
500. Họ mua và nắm giữ tất cả các chứng khoán có trong chỉ số với tỷ trọng của mỗi
chứng khoán trong danh mục đầu tư giống như tỷ trọng của các chứng khoán đó trong
chỉ số. Danh mục đầu tư của họ tăng giảm đúng bằng tốc độ tăng giảm của chỉ số S&P
500, nói cách khác nó giống như bản photocopy thu nhỏ của chỉ số S&P 500.
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C

23
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Chiến lược quản lý DMĐT chủ động (Active Strategy):
Ngược lại với chiến lược quản lý DMĐT thụ động, chiến lược chủ động luôn chú
trọng sử dụng các chỉ số kinh tế, tài chính, cùng các công cụ khác nhau để đưa ra các dự
báo về thị trường và định giá chứng khoán, từ đó mua bán chứng khoán một cách chủ
động để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn so với việc chỉ mua và nắm giữ chứng khoán.
Những yêu cầu của quản trị viên chuyên nghiệp
- Thứ nhất, phải tạo ra mức lợi nhuận trung bình đối với mức độ rủi ro cụ thể. Lý thuyết
phân tích danh mục đầu tư hiện đại đã chứng minh được mức sinh lời sau khi đã loại trừ
rủi ro có thể vượt trội thông qua nắm bắt thời cơ thị trường hoặc khả năng lựa chọn cơ
cấu chứng khoán trong danh mục đầu tư.
Đối với một quản trị viên danh mục cổ phiếu, nếu có khả năng dự báo thời điểm lên
hoặc xuống của thị trường cổ phiếu, có thể điều chỉnh thành phần cấu tạo của danh mục
đầu tư để đón đầu xu hướng thị trường thì có thể nắm giữ những cổ phiếu có lợi nhuận
kỳ vọng cao khi thị trường lên giá.
Đối với một quản trị viên danh mục trái phiếu, nếu có khả năng dự báo xu hướng vận
động của lãi suất, sẽ điều chỉnh kịp thời mức đáo hạn bình quân để đón đầu những biến
động lãi suất thị trường. Kết quả đạt được sao cho nắm giữ được danh mục trái phiếu có
mức đáo hạn bình quân cao khi lãi suất có xu hướng giảm và ngược lại.
- Thứ hai, khả năng đa dạng hóa chứng khoán trong một danh mục để loại bỏ rủi ro
không hệ thống (rủi ro không hệ thống là rủi ro chỉ tác động vào một tài sản hoặc một
chủ thể nào đó). Mức độ đa dạng hóa được đánh giá trên cơ sở mối tương quan giữa
mức sinh lời danh mục do thành viên đó thiết lập với danh mục thị trường.
Vì vậy, quản lý danh mục đầu tư có vai trò rất quan trọng. Tối ưu trong danh mục đầu tư
phụ thuộc vào tuổi tác, mức thuế, tâm lý nhà đầu tư đối với rủi ro.... Nhiệm vụ của nhà
quản lý danh mục đầu tư là tập hợp danh mục các chứng khoán phù hợp với những đòi
hỏi này.
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
24

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
1.3. Sự cần thiết phát triển hoạt động tự doanh của CTCK
1.3.1. Sự cần thiết phát triển hoạt động tự doanh của CTCK
Phát triển hoạt động tự doanh của CTCK là việc tạo điều kiện để hoạt động tự
doanh của công ty tăng cả về mặt chất lượng và số lượng. Tăng về mặt số lượng là quy
mô vốn của công ty ngày càng tăng, doanh thu ngày càng lớn và lợi nhuận thu từ hoạt
động tự doanh cũng tăng theo. Tăng về mặt chất lượng là đưa ra được danh mục đầu tư
hợp lý có khả năng sinh lời cao và rủi ro thấp thông qua những sự phân tích có căn cứ
khoa học chính xác từ đó giúp công ty đạt được mục tiêu của mình trong hoạt động tự
doanh.
Phát triển hoạt động tự doanh các CTCK còn hỗ trợ cho các hoạt động song hành
khác. Các sản phẩm của quá trình phân tích hỗ trợ cho hoạt động tự doanh chứng khoán
có thể dùng để hỗ trợ cho hoạt động tư vấn cho nhà đầu tư, môi giới đầu tư… Mỗi công
ty chứng khoán trên thị trường có một thế mạnh khác nhau, có công ty mạnh về hoạt
động bảo lãnh phát hành hay môi giới… Tuy nhiên rất khó cho công ty nào có thể phát
triển cho mảng tư vấn mà hoạt động tự doanh của chính công ty không đạt kết quả cao.
Khi đó nhà đầu tư nhìn vào họ không có sự tin tưởng đối với công ty. Ngược lại, những
công ty chứng khoán có hoạt động tự doanh phát triển ngoài việc thúc đẩy các mảng
nghiệp vụ khác phát triển, nó còn như một hình thức quảng cáo cho công ty về tính
chuyên nghiệp và khả năng phân tích của công ty. Ngoài ra, trong khi thực hiện hoạt
động tự doanh công ty có thể xây dựng được một mạng lưới nhà đầu tư tiềm năng, từ đó
tăng vị thế và khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường.
Mặt khác, hoạt động tự doanh tận dụng được các nguồn sẵn có, hay tạo các mối
quan hệ mang lại lợi nhuận lớn cho CTCK. Trong giai đoạn thị trường phát triển, hoạt
động tự doanh mang lại phần lớn lợi nhuận cho công ty. TTCK là thị trường đòi hỏi các
nhà đầu tư tham gia phải có trình độ cũng như một sự hiểu biết nhất định và rõ ràng mà
các CTCK là một trong những nhà đầu tư có khả năng nhất trên thị trường. Trong các
hoạt động còn lại của công ty hầu hết đều là nhận phí và hoa hồng từ nhà đầu tư chỉ có
hoạt động tự doanh là sử dụng nguồn vốn của công ty để kinh doanh và tạo ra lợi nhuận.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của hoạt động tự doanh

1.3.2.1. Chỉ tiêu định tính
 Mức độ đa dạng trong hoạt động tự doanh: khi triển khai được đầy đủ các
SV: NGUYỄN THỊ MẾN LỚP: TCDN 47C
25

×