Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Đánh giá hiệu quả kinh tế nghề câu cá ngừ đại dương ở tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 81 trang )

i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG





TRẦN NAM CHUNG




ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ NGHỀ CÂU CÁ
NGỪ ĐẠI DƯƠNG Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH





LUẬN VĂN THẠC SĨ










NHA TRANG – 2011
ii

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG





TRẦN NAM CHUNG




ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ NGHỀ CÂU CÁ
NGỪ ĐẠI DƯƠNG Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH




Chuyên ngành: Khai thác Thủy sản
Mã số: 60.62.80


LUẬN VĂN THẠC SĨ

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN: TS. Phan Trọng Huyến





NHA TRANG – 2011

iii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan Luận văn “Đánh giá hiệu quả kinh tế nghề câu vàng cá ngừ đại
dương ở tỉnh Bình định” là công trình nghiên cứu cứu của riêng tôi.
Các số liệu trong luận văn được thể hiện trung thực, có nguồn trích dẫn cụ thể
và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào khác. Từ số liệu về tàu
thuyền, nghề nghiệp khai thác, hiệu quả kinh tế của nghề câu cá ngừ đại dương của cả
nước đến các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực hải sản, do tôi thu thập tại Cục
Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy
sản Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa, các báo cáo chuyên ngành của Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn của các tỉnh trên, và các số liệu điều tra, phỏng vấn
trong khôn khổ Dự án Quản lý cá ngừ đại dương khu vực Trung và Tây Thái Bình
dương – Đông Á, đề tài nghiên cứu cơ sở khoa học để sắp xếp lại cơ cấu nghề nghiệp
khai thác thủy sản.
Tôi xin cam đoan và chịu trách nhiệm về nội dung trong luận văn “Đánh giá
hiệu quả nghề câu cá ngừ đại dương của tỉnh Bình Định” do tôi thực hiện.

iv

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành Luận văn này, trước tiên tôi muốn nói lời cảm ơn chân thành tới
Ban Giám hiệu Trường Đại Học Nha Trang, các thầy, cô tham gia tổ chức lớp, giảng
dậy đã không quản thời gian và khoảng cách địa lý tạo điều kiện mở lớp cao học Khai

thác thủy sản 2009 tại Hải Phòng, các thầy cô đã tận tình hướng dẫn các học viên hoàn
thành tốt chương trình của trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong luận văn của tôi đã có được sự ủng hộ và giúp đỡ tận tình của các đơn vị:
Tổng cục Thủy sản, Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Dự án Hợp phần
tăng cường quản lý khai thác thủy sản, Dự án Quản lý cá ngừ đại dương khu vực
Trung và Tây Thái Bình Dương; Viện nghiên cứu Hải sản; Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Chi Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Bình Định,
Khánh Hòa và Phú Yên.
Tôi cũng bày tỏ tình cảm trân trọng đến các cá nhân đã trực tiếp quan tâm giúp
đỡ tôi trong quá trình làm luận văn: Ts Chu Tiến Vĩnh, Ths. Nguyễn Ngọc Oai, THs
Lê Trần Nguyên Hùng, Ths. Nguyễn Quốc Ánh, Ths. Nguyễn Văn Kháng, Ths.
Nguyễn Phi Toàn, Ths. Vũ Duyên Hải và các đồng nghiệp làm công tác thống kê số
liệu thuộc các Chi cục KTBVNLTS ở Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa.
Xin cảm ơn và chia sẻ với gia đình, bạn bè cùng các anh em trong lớp cao học
Khai thác thủy sản Hải phòng 2009, những người đã luôn ở bên tôi, động viên tôi
trong học tập, nghiên cứu hoàn thành luận văn. Đặc biệt, tôi đã nhận được sự quan
tâm, chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của thầy Tiến sĩ Phan Trọng Huyến, Khoa Khai thác
thủy sản Trường Đại học Nha trang trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn
này.
Dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn Luận văn của tôi vẫn không tránh
khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong sự chỉ bảo, chia sẻ và rất mong nhận được
những ý kiến góp ý quý báu của các thầy cô, bạn bè.
v

Danh mục chữ viết tắt
TT Chữ viết tắt Nội dung viết tắt
1 A
2 BAC Hệ số hoạt động của tàu
3 CNĐD Cá ngừ đại dương
4 CP Chi phí

5 cv Mã lực
6 d Đường kính dây câu
7 WCPFC
Dự án quản lý cá ngừ đại dương Trung và Tây Thái bình
dương
-
Đông Á

8 DTTB Doanh thu trung bình
9 ĐVT Đơn vị tính
10 FL Chiều dài thân cá
11 g Gram
12 GHTC Giới hạn tin cậy
13 HSBT Hệ số biến thiên
14 N Cỡ mẫu
15 SD Độ lệch chuẩn
16 SL Sản lượng
17 SLTB Sản lượng trung bình
18 SSAP Dự án đánh và điều tra cá ngừ
19 TB Trung bình
20 TBD Thái bình dương
21 TL Trọng lượng
vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1- 1. Thống kê tàu thuyền, lao động theo địa phương 4
Bảng 1-2. Cơ cấu tàu thuyền của tỉnh Bình Định theo nghề và công suất năm 2009 5
Bảng 3-1: Chiều dài trung bình của một số loài cá ngừ đại dương 31
Bảng 3-2: Ước tính trữ lượng và khả năng khai thác cá ngừ đại dương 31

Bảng 3-3. Biến động tàu câu CNĐD tỉnh Bình Định theo huyện từ năm 2006 ÷2010.32
Bảng 3-4: Cơ cấu tàu thuyền nghề câu CNĐD tỉnh Bình Định theo địa phương và
nhóm công suất (năm 2010) 33
Bảng 3-5: Thông số cơ bản của tàu câu CNĐD Bình Định theo nhóm công suất 35
Bảng 3-6: Thống kê tình hình trang bị máy khai thác - hàng hải cho tàu câu CNĐD 36
Bảng 3-7: Thống kê các thông số cơ bản của vàng câu CNĐD Bình Định 37
Bảng 3-8: Kết quả điều tra về lao động nghề câu cá ngừ đại dương Bình Định 39
Bảng 3-9: Sản lượng và tỷ lệ thành phần sản phẩm nghề câu CNĐD tỉnh Bình Định 6
tháng năm 2009. 40
Bảng 3-10: Sản lượng và tỷ lệ thành phần sản phẩm nghề câu cá ngừ đại dương tỉnh
Phú Yên 6 tháng năm 2009. 41
Bảng 3-11: Sản lượng và tỷ lệ thành phần sản phẩm nghề câu cá ngừ đại dương tỉnh
Khánh Hòa 6 tháng năm 2009 42
Bảng 3-12: Thống kê sản lượng và doanh thu tháng 11/2010 của tàu điều tra 42
Bảng 3-13: Thống kê sản lượng và doanh thu tháng 12/2010 của tàu điều tra 44
Bảng 3-14: Doanh thu của tàu câu CNĐD Bình Định theo nhóm công suất 46
Bảng 3-15: Chi phí bình quân của tàu câu cá ngừ đại dương Bình Định theo nhóm
công suất 46
Bảng 3-16: Lợi nhuận bình quân của tàu câu CNĐD trong 1 tháng theo nhóm công
suất 47
Bảng 3-17: Thu nhập bình quân của người lao động trong 1 tháng theo nhóm công suất
48
Bảng 3-18: Năng suất khai thác trung bình của mẻ câu theo địa phương (kg/mẻ) 48
Bảng 3-19. Năng suất khai thác bình quân của nghề câu CNĐD theo địa phương 50
Bảng 3-21: Thống kê hệ số hoạt động của đội tàu 3 tỉnh trong 6 tháng năm 2009 51

vii

DANH MỤC CÁC HÌNH


Hình 1.1 Bản đồ hành chính tỉnh Bình Định 3
Hình 1-2: Biểu đồ phân bố số lượng tàu thuyền của nghề theo nhóm công suất 5
Hình 1-3: Biểu đồ phân bố số lượng tày thuyền của từng nghề theo tổng số tàu 6
Hình 1-4. Cá ngừ mắt to (Thunnus obesus) 16
Hình 1-5. Cá ngừ vây vàng (Thunnus albacares) 17
Hình 1-6. Bản đồ phân bố ngư trường cá ngừ đại dương vụ cá Nam năm 2000-
2004 20
Hình 1-7. Bản đồ phân bố ngư trường cá ngừ đại dương vụ Bắc (2000-2004) 21
Hình 3-6. thành phần sản phẩm khai thác nghề câu Bình Định 40
Hình 3-7: Biểu đồ năng suất đánh bắt theo mẻ câu 49
Hình 3-8. Biểu đồ sản lượng khai thác (kg/ngày hoạt động trên biển) 50
viii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. Tổng quan nghề khai thác thuỷ sản tỉnh Bình Định 3
1.1.1. Điều kiện tự nhiên của Bình Định 3
1.1.2. Năng lực nghề khai thác thủy sản Bình Định 3
1.1.3. Cơ cấu nghề đánh bắt hải sản của Bình Định 4
1.2. Tình hình nghiên cứu nghề khai thác cá ngừ đại dương ở nước ngoài 6
1.2.1. Xác định ngư trường và đặc tính di cư của cá 6
1.2.2. Nghiên cứu tập tính cá ngừ 7
1.2.3. Nghiên cứu về mồi câu cá ngừ 7
1.2.4. Nghiên cứu về công nghệ khai thác cá ngừ 8
1.2.5. Nghiên cứu về hiệu quả khai thác thủy sản 9
1.3. Tình hình nghiên cứu nghề khai thác cá ngừ đại dương ở trong nước 10
1.3.1. Các kết quả nghiên cứu về nguồn lợi cá ngừ trên vùng biển Việt Nam 10
1.3.2. Các kết quả nghiên cứu về công nghệ khai thác cá ngừ 11

1.3.3. Tình hình nghiên cứu về hiệu quả kinh tế của nghề khai thác hải sản 15
1.3.4. Đặc điểm sinh học cá ngừ mắt to (Thunnus obesus) 16
1.3.5. Đặc điểm sinh học cá ngừ vây vàng (Thunnus albacares) 17
1.4. Nhận xét, đánh giá tổng quan 22
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 24
2.1. Nội dung nghiên cứu 24
2.1.1. Thực trạng tàu thuyền và trang thiết bị của tàu thuyền nghề câu cá ngừ đại
dương tỉnh Bình Định 24
2.1.2. Thực trạng ngư cụ nghề câu cá ngừ đại dương tỉnh Bình Định 24
2.1.3. Thực trạng về lao động nghề câu cá ngừ đại dương tỉnh Bình Định. 24
2.1.4. Đánh giá hiệu quả kinh tế nghề câu cá ngừ đại dương tỉnh Bình Định. 24
2.1.5. Ý kiến đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế nghề câu cá ngừ đại
dương tỉnh Bình Định 24
2.2. Phương pháp nghiên cứu 24
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu 24
2.2.2. Thu thập số liệu thứ cấp 24
2.2.3. Thu thập số liệu sơ cấp 25
ix

2.2.3.1. Xác định số lượng mẫu điều tra 25
2.2.3.2. Thu thập số liệu sản lượng khai thác của đội tàu 27
2.2.3.3. Thu thập số liệu về ngư cụ: 28
2.2.3.4. Thu thập số liệu về tàu thuyền: 28
2.2.3.5. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế. 28
2.2.4. Phân tích, xử lý số liệu thống kê 30
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 31
3.1. Kích thước của một số loài cá ngừ đại dương 31
3.2. Thực trạng tàu thuyền, trang thiết bị nghề câu CNĐD tỉnh Bình Định 32
3.2.1. Biến động tàu câu CNĐD tỉnh Bình Định theo địa phương theo năm 32
3.2.2. Cơ cấu tàu thuyền câu CNĐD Bình Định theo địa phương và nhóm công

suất 33
3.2.3. Đặc điểm tàu thuyền nghề câu CNĐD tỉnh Bình Định 34
3.2.4. Tình hình trang bị máy động lực trang bị trên tàu. 35
3.2.5. Tình hình trang bị máy hàng hải-thông tin liên lạc 35
3.3. Thực trạng ngư cụ nghề câu cá ngừ đại dương tỉnh Bình Định 36
3.3. Thực trạng về lao động nghề câu CNĐD tỉnh Bình Định 38
3.4. Đánh giá hiệu quả kinh tế nghề câu CNĐD tỉnh Bình Định 39
3.4.1. Dựa theo sản lượng và thành phần sản phẩm của nghề câu CNĐD 39
3.4.2. Dựa vào doanh thu của nghề câu cá ngừ đại dương tỉnh Bình Định 42
3.4.3. Chi phí cuả nghề câu cá ngừ đại dương tỉnh Bình Định 46
3.4.4. Dựa theo lợi nhuận của nghề câu cá ngừ đại dương tỉnh Bình Định 47
3.4.5. Dựa theo chỉ số thu nhập bình quân của lao động tàu câu CNĐD 47
3.4.6. Đánh giá hiệu quả kinh tế theo năng suất khai thác trung bình mẻ câu. 48
3.4.7. Đánh giá hiệu quả kinh tế theo năng suất khai thác bình quân ngày câu 49
3.4.8. Đánh giá hiệu quả kinh tế qua hệ số hoạt động của cả đội tàu 50
3.5. Ý kiến đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế nghề câu cá ngừ đại dương
tỉnh Bình Định. 51
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 54
1. Kết luận 54
2. Kiến nghị 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56


1


MỞ ĐẦU

Nghề khai thác cá ngừ đại dương của Việt Nam còn rất non trẻ so với các nước
phát triển khác trên thế giới, công nghệ đánh bắt và bảo quản thô sơ theo phương thức

truyền thống là chủ yếu nên chất lượng sản phẩm khai thác chưa đáp ứng yêu cầu của
thị trường xuất khẩu. Đa số tàu thuyền nghề câu cá ngừ đại dương ở Bình Định được
chuyển sang từ các tàu câu mực, câu tay nên có kích thước và công suất nhỏ. Vì thế
khả năng vươn xa và khả năng tìm kiếm những ngư trường có mật độ cá ngừ đại
dương cao, có kích thước loài cá ngừ đại dương lớn của đội tàu này còn rất hạn chế. Vì
thế, trong nhiều năm qua, sản lượng đánh bắt của từng tàu còn rất thấp, chi phí sản
xuất lại cao, trong khi đó chất lượng sản phẩm và thương hiệu chưa được xác định đã
dẫn đến hiệu quả sản xuất của nghề còn ẩn chứa nhiều rủi ro. Những người làm quản
lý, buôn bán và khai thác thời gian vừa qua đã có những hoạt động tích cực nhằm giải
quyết vấn đề này nhưng vẫn chưa có hướng đi cụ thể.
Mặt khác, nghề cá nước ta là nghề cá nhân dân, từ đầu tư đến sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm chủ yếu dựa vào tự lực của người dân là chính. Nghề câu cá ngừ đại
dương tỉnh Bình Định cũng vậy, ngư dân thấy nghề này có hiệu quả là tập trung đầu tư
sản xuất. Đến lúc nào đó thấy không có hiệu quả lại chuyển sang nghề khác. Nghề câu
cá ngừ đại dương tỉnh Bình Định đã phát triển trong nhiều năm qua nhưng đến nay vẫn
chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về hiệu quả sản xuất của nghề này. Vì thế ngư
dân Bình Định vẫn tiếp tục mò mẫm tự tìm kiếm ngư trường, tổ chức khai thác, bảo
quản sản phẩm rồi dựa vào chủ nậu để tiêu thụ.
Mặt khác, các loài cá di cư đại dương trong đó có Cá ngừ đại dương là tài sản
chung của nhân loại, cần được quản lý khai thác, vận chuyển đánh bắt và kinh doanh
là đối tượng được cả thế giới quan tâm, rất nhiều các tổ chức quốc tế quản lý vấn đề
khai thác và kinh doanh cá ngừ đại dương như: Uỷ ban Bảo tồn cá Ngừ đại dương Đại
Tây Dương, Uỷ ban cá ngừ Ấn Độ Dương, Uỷ ban Bảo vệ cá Ngừ vây xanh Nam ấn
Độ Dương, Uỷ ban Nghề cá Tây và Trung Thái Bình Dương, Uỷ ban Nghề cá Đông
Thái Bình Dương… có nhiều rào cản thương mại được sinh ra tại các thị trường lớn và
các quy định ngặt nghèo khác về chất lượng sản phẩm và nguồn gốc đánh bắt. Mới đây
lại rộ lên vấn đề chứng chỉ MSC (Marine Stewardship Council) – Hội đồng quản lý
2



biển được tạm hiểu là 1 chứng chỉ khai thác, kinh doanh có tính bền vững. Nước nào,
sản phẩm nào có chứng chỉ này thì giá bán cao hơn, không có thì giá bán thấp hơn.
Trước những vấn đề hệ lụy của nghề cá quy mô nhỏ trong nước và các yêu cầu
của sự hội nhập thế giới, vấn đề quản lý và phát triển cải thiện đời sống cho bà con
ngư dân theo hướng phát triển bền vững nghề khai thác cá ngừ đại dương là đề bài lớn
cần lời giải cho cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Vì những lý do nêu trên thì việc nghiên cứu ”Đánh giá hiệu quả kinh tế nghề
câu cá ngừ đại dương ở tỉnh Bình Định” là hết sức cần thiết và cấp bách. Trong phạm
vi của luận văn thạc sĩ tôi sẽ trình bày các nội dung chủ yếu là:
Chương 1: Tổng quan các vấn đề nghiên cứu;
Chương 2: Nội dung và phương pháp nghiên cứu;
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận.
3


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan nghề khai thác thuỷ sản tỉnh Bình Định
1.1.1. Điều kiện tự nhiên của Bình Định
Bình Định là tỉnh ven biển miền Trung có diện tích 6025 km
2
, phía Bắc giáp
tỉnh Quảng Ngãi, phía Nam giáp tỉnh Phú Yên, phía Tây giáp tỉnh Gia Lai, phía Đông
giáp Biển Đông. Toàn tỉnh có 10 huyện (An Nhơn, Hoài Nhơn, Tuy Phước Tây Sơn,
Phù Mỹ, Phù Cát, An Lão, Hoài Ân, Vĩnh Thạnh, Vân Canh) và 01 thành phố (Quy
Nhơn). Trong đó có 3 huyện miền núi, 4 huyện và 1 thành phố ven biển là TP Qui
Nhơn, huyện Tuy Phước, huyện Phù Cát, huyện Phù Mỹ và huyện Hoài Nhơn. Theo
kết quả điều tra năm 2005, dân số của tỉnh của tỉnh Bình Định khoảng 1,56 triệu
người. Tỉnh Bình Định có tỷ lệ khoảng 1,8% về diện tích và 1,9% dân số so với cả
nước; chiếm 18,2% diện tích và 22,1% dân số vùng Duyên hải Nam Trung Bộ.













Hình 1.1 Bản đồ hành chính tỉnh Bình Định

1.1.2. Năng lực nghề khai thác thủy sản Bình Định
Với chiều dài bờ biển trên 134 km cùng hệ thống đầm, vịnh, thủy vực phong
phú và đa dạng, Bình Định có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế biển, trong đó có
kinh tế thủy sản. Ngành thủy sản đã được tỉnh xác định là một ngành kinh tế quan
trọng của tỉnh Bình Định.
4


Bình Định có 3 trung tâm nghề cá phát triển là Qui Nhơn, Đề Gi, Tam Quan;
trải dài ở 5 huyện, 26 xã phường ven biển.
Nghề cá của tỉnh phát triển không ngừng trong những năm qua, với 9218 tàu thuyền
lớn nhỏ (năm 2009) các tàu cá của ngư dân Bình định hoạt động trên tất cả các vùng
biển cả nước từ vịnh Bắc Bộ đến vùng biển Tây Nam Bộ.
Nước ta có ba tỉnh tham gia đánh bắt cá ngừ đại dương là Bình Định, Phú Yên
và Khánh Hòa, nghề đánh bắt chủ yếu là nghề câu vàng, ngư trường đánh bắt ở ngư
trường giữa biển Đông và khi khu vực quần đảo Trường Sa. Đối tượng cá ngừ đại

dương là loài cá di cư đại dương nên công tác thống kê đánh giá trữ lượng còn nhiều
khó khăn, phụ thuộc vào số liệu của các nước tham gia đánh bắt cá ngừ và số liệu
nghiên cứu cả vùng đối tượng sinh sống.
Bảng 1- 1. Thống kê tàu thuyền, lao động theo địa phương

TT Huyện Thành phố
Tổng Số Tàu
(chiếc)
Tổng C.Suất
(cv)
Tổng Số LĐ
(người)
1 HOÀI NHƠN 2511 309273 16332
2 PHÙ MỸ 1247 116309 9285
3 PHÙ CÁT 1259 83093 8399
4 TUY PHƯỚC 824 11281 1702
5 QUY NHƠN 2274 116887 10956
TỔNG CỘNG
8115 636843 46674
[Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Bình Định]

1.1.3. Cơ cấu nghề đánh bắt hải sản của Bình Định
Bình Định là tỉnh có nghề cá phát triển theo hướng đa nghề, trong đó có 5 nghề
lưới kéo đơn, nghề vây ánh sáng, nghề câu tay, nghề câu cá ngừ đại dương, nghề vó
mành, còn lại là nghề khác. Kết quả thống kê số lượng tàu thuyền năm 2009 [4] theo
nghề và nhóm công suất được trình bày ở bảng 1-2.
5


Bảng 1-2. Cơ cấu tàu thuyền của tỉnh Bình Định theo nghề và công suất năm 2009


Số lượng tà thuyền theo nhóm công suất (chiếc) TT

Nghề khai
thác
20< 20÷49

50÷89

90÷149

150÷250

≥400
Tổng

1 Lưới kéo đơn 33 300 293 16 3 0 645

2 Vây ánh sáng 15 573 557 214 53 0 1412

3 Câu tay cá 563 1856 802 233 243 0 3697

4 Câu vàng CN 0 11 112 50 152 15 340

5 Vó mành 1011 495 27 0 0 0 1533

6 Nghề khác 983 217 46 4 3 0 1253

Tổng 2605


3452

1837

517

454

15 8880

[ Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Bình Định]

0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
1800
2000
20< 20÷49 50÷89 90÷149 150÷250 ≥400
Nhóm công suất (cv)
Số lượng tàu (chiếc)
Lưới kéo đơn
Vây ánh sáng
Câu tay cá
Câu vàng CN

Vó mành
Nghề khác

Hình 1-2: Biểu đồ phân bố số lượng tàu thuyền của nghề theo nhóm công suất

Từ bảng 1-2 và hình 1-2 cho thấy, số tàu lắp máy công suất dưới 90 cv chiếm tỷ
lệ lớn, chiếm 88,9% trong khi đó số lượng tàu lắp mấy từ 90cv trở lên chỉ có 11,1%.
Đặc biệt là nhóm tàu lắp máy dưới 20cv chiếm tỷ lệ khá cao, 29,34%, ngược lại số tàu
lắp máy trên 400cv chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn (0,17%). Điều này cho thấy khả năng
đánh bắt hải sản xa bờ của nghề cá Bình Định là khá hạn chế.

6


Lưới kéo đơn
7%
Vây ánh sáng
16%
Câu tay cá
42%
Câu vàng CN
4%
Vó mành
17%
Nghề khác
14%
Lưới kéo đơn
Vây ánh sáng
Câu tay cá
Câu vàng CN

Vó mành
Nghề khác

Hình 1-3: Biểu đồ phân bố số lượng tày thuyền của từng nghề theo tổng số tàu

Từ biểu đồ 1-3 cho thấy, Ở Bình Định nghề câu phát triển nhất (46%), đặc biệt
là nghề câu tay chiếm tỷ lệ lớn (42%), còn nghề câu cá ngừ đại dương chỉ chiếm tỷ lệ
rất khiêm tốn (4%). Tiếp đến là nghề vó mành (17%) và nghề vây ánh sáng (16%), còn
nghề lưới kéo chỉ chiếm 7%.
1.2. Tình hình nghiên cứu nghề khai thác cá ngừ đại dương ở nước ngoài
Hiện nay trên thế giới, nghề khai thác các đối tượng cá ngừ đã đạt được trình độ
phát triển cao. Đã có nhiều công trình nghiên cứu nhằm xác định ngư trường, sự di cư
của cá, đánh giá trữ lượng, tập tính sinh học của cá ngừ đại dương trên các vùng biển
nghiên cứu. Các công nghệ mới khai thác cá ngừ đã phát triển rất mạnh ở nhiều nước.
Các đội tàu khai thác cá ngừ có quy mô lớn và đã khai thác rất thành công ở các nghề
lưới vây cá ngừ, câu vàng, câu cần
Những vấn đề đã và đang được các nước trên thế giới tập trung nghiên cứu
được tổng hợp một số kết quả cụ thể như sau:
1.2.1. Xác định ngư trường và đặc tính di cư của cá
Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự phân bố của cá ngừ với điều kiện môi
trường đã được tiến hành. Người ta phát hiện ra rằng sự phân bố của cá ngừ gắn kết
chặt chẽ với nhiệt độ nước biển. Nhiệt độ thích hợp cho sự tập trung các đàn cá ngừ
vào khoảng từ 15 ÷ 31
0
C, phổ biến nhất ở khoảng nhiệt độ từ 18 ÷28
0
C. Dựa vào đặc
7



tính này, kết hợp với kỹ thuật viễn thám sẽ giúp cho việc xác định sự di chuyển của
các đàn cá ngừ. Các ảnh chụp từ vệ tinh sẽ cho bản đồ của cả một vùng biển rộng lớn
với những vùng có màu sắc khác nhau, tương ứng với nhiệt độ. Dựa vào màu sắc của
các bức ảnh, người ta sẽ suy ra sự thay đổi nhiệt độ các vùng trên mặt biển và biết
được sự phân bố cá ngừ thay đổi như thế nào.
Ngoài ra ảnh hưởng của các dòng hải lưu cũng tác động đến sự phân bố và di
cư của cá ngừ đại dương. Ở vùng biển phía tây Thái Bình Dương, cá ngừ thường tập
trung theo dải vĩ độ 2
0
N ÷ 2
0
S và 3
0
N ÷ 6
0
N, tương ứng với ảnh hưởng của dòng hải
lưu xích đạo (EC) và dòng hải lưu ngược xích đạo Bắc (NECC). Rõ ràng, các dòng hải
lưu đã ảnh hưởng đến sự di chuyển của các đàn cá ngừ .
Kết hợp các số liệu đánh bắt của nghề cá thương phẩm thông qua nhật ký đánh
bắt và các số liệu thu được từ các bến cá đã giúp cho việc đánh giá và xác định ngư
trường. Nhiều nước đã tiến hành các chương trình nghiên cứu sự di cư của cá ngừ
thông qua việc đánh dấu, lắp các máy phát tín hiệu vô tuyến điện cực nhỏ vào thân cá
nhờ vậy đã nắm được quá trình di cư của các đàn cá ngừ, giúp cho việc tổ chức khai
thác có hiệu quả và bảo vệ nguồn lợi được tốt hơn.
1.2.2. Nghiên cứu tập tính cá ngừ
Đề tài nghiên cứu tập tính cá ngừ tập trung quanh chà là một trong những
hướng nghiên cứu được chú ý. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng cá ngừ thường tập
trung quanh chà hoặc núp dưới các vật trôi nổi trên mặt biển, cá có xu hướng tập trung
ở vị trí trên nước so với chà đa số các loài cá ngừ cỡ nhỏ như ngừ vằn, ngừ chù, ngừ ồ
thường phân bố gần mặt nước. Cá ngừ vây vàng, cá ngừ mắt to, v.v phân bố ở

những tầng nước sâu hơn (khoảng 50 ÷100 m), nhưng độ sâu phân bố của cá quanh
chà có bị thay đổi bởi các điều kiện ngoại cảnh khác như sóng, gió, nhiệt độ, dòng
chảy hay không thì vẫn cần phải nghiên cứu thêm.
1.2.3. Nghiên cứu về mồi câu cá ngừ
Cá ngừ đại dương ưa thích mồi mực là rõ ràng, nhiều tàu câu vàng của Nhật
Bản, Đài Loan đã sử dụng mồi mực trong quá trình câu cá ngừ đại dương. Tuy nhiên
cần nghiên cứu hiệu quả kinh tế trong việc sử dụng mồi mực và mồi cá. Bên cạnh đó
đã có nghiên cứu thử nghiệm sử dụng mồi giả, gắn thiết bị phát sáng trên thẻo câu.
8


1.2.4. Nghiên cứu về công nghệ khai thác cá ngừ
Để khai thác cá ngừ, có thể sử dụng các loại ngư cụ sau:
- Nghề lưới vây khai thác cá ngừ: Đối tượng khai thác chủ yếu của nghề lưới
vây cá ngừ là các loại cá ngừ cỡ nhỏ ( ngừ vằn, ngừ chù, ngừ ồ ). Các tàu khai thác
cỡ lớn đã được sử dụng với công suất máy tàu từ 1000 cv đến 2500 cv và hơn nữa.
Kích thước lưới vây được tăng cường, chiều dài vàng lưới (giềng phao) lên đến
1.500m và hơn nữa, chiều cao vàng lưới đạt đến 150m. Các vàng lưới vây nói trên còn
được dùng để đánh bắt các đàn cá ngừ vây vàng, cá ngừ mắt to cung cấp giống cho
nghề nuôi cá ngừ. Để khai thác được cá ngừ đại dương đã trưởng thành, chiều cao
vàng lưới phải đạt 200 ÷ 220m và đòi hỏi kỹ thuật đánh bắt phức tạp hơn (các nước có
nghề cá phát triển). Việc dò tìm cá được thực hiện bằng cách sử dụng ống nhòm, máy
dò cá ngang (Sonar); máy bay; Rađa tìm chim
- Nghề câu vàng cá ngừ đại dương: Quy mô công nghiệp ở các nước và khu vực
có nghề câu cá ngừ đại dương phát triển là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc Đội tàu
của các nước này được cơ giới hoá cao trong công tác thu, thả vàng câu. Các nghiên
cứu về ngư trường, tập tính cá, sự di cư của cá đã hỗ trợ cho việc khai thác đạt hiệu
quả cao. Vàng câu được trang bị trên các tàu này thường có chiều dài tới 100 km, với
số lượng lưỡi câu đạt đến 2200 chiếc. Tổng chiều dài dây nhánh thường là 20 ÷ 25 m;
Khoảng cách giữa các dây nhánh từ 40 ÷ 50 m; khoảng cách giữa các phao ganh từ

300 ÷ 350 m. Các tàu câu vàng nói trên áp dụng kỹ thuật bảo quản và được trang bị hệ
thống bảo quản tốt nên duy trì được chất lượng sản phẩm.
- Nghề câu tay cá ngừ đại dương quanh chà: Nghề câu tay câu cá ngừ vây vàng
ở những vùng biển sâu đã được ngư dân Philippine sử dụng như là một nghề chính
khai thác cá ngừ. Sản lượng đem lại từ nghề này khá cao. Lợi dụng đặc tính dựa chà
của cá ngừ vây vàng, người ta dùng những cụm chà lớn và thả ở các ngư trường có cá
ngừ vây vàng, có thể thả chà ở độ sâu tới 1000 m. Chà có cấu tạo gồm 1 phao nổi
(phao nổi có thể làm bằng thép hình trụ dài 2m, đường kính 0,8 m hàn kín hoặc bè tre
có kích thước 1m x 4m) thả nổi trên mặt nước. Một đầu phao được buộc với dây neo,
đầu còn lại được buộc với 1 hệ thống dây chà làm bằng lá dừa hoặc lưới cũ. Sau một
thời gian ngâm chà, cá ngừ vây vàng sẽ tập trung quanh chà để kiếm mồi và thường
tập trung ở độ sâu từ 50 ÷ 200 m. Ngư dân thả câu ở những độ sâu khác nhau quanh
chà để khai thác cá ngừ vây vàng vào ban ngày. Theo báo cáo của Sở Thủy sản tháng
9


8/2003 khi đoàn cán bộ của Viện Nghiên cứu Hải sản tham quan tại đây cho thấy, mỗi
chuyến biển hoạt động của đội tàu làm nghề câu tay cá ngừ vây vàng từ 5 ÷ 7 ngày cho
năng suất khai thác bình quân từ 3 ÷ 5 con cá ngừ vây vàng/1 người câu. Như vậy,
nghề câu tay câu cá ngừ vây vàng đã được ngư dân Philippine sử dụng cho hiệu quả
khá cao và đây cũng là một nghề mới, có năng suất cao cần được nhanh chóng áp dụng
vào nước ta.
- Nghề câu cá cá ngừ vằn bằng câu cần và mồi giả: Trước đây, nghề này đã phát
triển rất mạnh ở các nước có nghề cá phát triển như Nhật Bản, Đài Loan … Ngư dân
ở những nước này sử dụng những tàu có công suất lớn, dò tìm đàn cá trên biển. Khi
phát hiện được đàn cá họ tiến hành vứt mồi sống là cá cơm để dụ cá, đồng thời phun
những tia nước nhỏ, tạo thành màn sương mù che mắt cá ngừ. Sau đó các thủy thủ sẽ
ngồi dọc be tàu sử dụng những cần câu tay mắc mồi giả thả xuống biển rồi giật cần câu
một cách liên tục đưa cá lên tàu. Sản lượng đem lại từ nghề này khá cao, đạt tới hàng
chục tấn cá trong 1 ngày hoạt động. Tuy nhiên, do thời gian gần đây, do nguồn lợi cá

ngừ suy giảm, nên các tàu câu theo hình thức này không mang lại hiệu quả mong
muốn.
1.2.5. Nghiên cứu về hiệu quả khai thác thủy sản
FAO đã tiến hành cuộc khảo sát thông tin liên quan đến hoạt động khai thác
thủy sản nghề lưới vây của 15 quốc gia thuộc châu Âu, châu Á, châu Mỹ và châu Phi
từ năm 1995-1997. Kết quả cho thấy ở một số nước như Pê Ru, Triều Tiên, Malaixia
có lãi ròng dương, ngược lại ở một số nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ có lãi
ròng âm. Lý do của hiệu quả kinh tế thấp là do sự khai thác quá mức về nguồn lợi làm
cho sản lượng ngày càng giảm, ngược lại chi phí đầu tư, chi phí bảo dưỡng cao.
Các công trình nghiên cứu tập trung vào việc tìm ra mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế
và các yếu tố kỹ thuật [21].
Ở Hawaii, nhóm nghiên cứu Hamilton Marcia và Steve Huffiman [20] đã có
nghiên cứu sâu về doanh thu và chi phí hoạt động khai thác của nghề cá nổi quy mô
nhỏ của 4 nhóm ngư dân khác nhau (nhóm đánh cá toàn thời gian, bán thời gian, làm
tiêu khiển và nhóm đánh cá chỉ vì mục đích bù đắp chi phí chuyến biển). Kết quả chỉ
ra rằng nhóm đánh cá toàn thời gian có doanh thu và chi phí cố định cao nhất; ngược
lại nhóm đánh cá chỉ vì mục đích bù đắp chi phí chuyến biển có doanh thu và chi phí
cố định thấp nhất. Chi phí biến đổi của các nhóm là khá giống nhau, chi dao động nhẹ
10


do yếu tố di chuyển ngư trường khai thác. Sự khác nhau về chi phí biến đổi là chi phí
nhiên liệu, nước đá, mồi câu.
Kết quả nghiên cứu về hoạt động kinh tế và tài chính nghề cá biển tại 15 quốc
gia trên thế giới của các tác giả U. Tietze và J.Prado. J.M.Le Ry. R.Lasch [26] cho
thấy, trong tổng số 108 tàu khai thác có đến 105 tàu (chiếm 97%) tàu có dòng tiến luân
chuyển dương và bù đắp được chi phí bỏ ra. Nếu trừ chi phí khấu hao và lãi suất, thì
có 92 tàu (trong số 108 tàu) có lợi nhuận ròng. Chỉ có các tàu lưới kéo tôm, cá tầng
đáy là có dòng tiền luân chuyển âm. Những tàu này trước đây có dòng tiền luân
chuyển dương, nhưng một thời gian sau đó có lợi nhuận âm thường rơi vào những tàu

có tuổi thọ cao.
1.3. Tình hình nghiên cứu nghề khai thác cá ngừ đại dương ở trong nước
1.3.1. Các kết quả nghiên cứu về nguồn lợi cá ngừ trên vùng biển Việt Nam
Trong những năm 1991-1993, Xí nghiệp Liên hợp Thủy sản Hạ Long đã thực
hiện đề tài nghiên cứu KN-04-01 nghiên cứu nguồn lợi cá ngừ ở vịnh Bắc Bộ và vùng
biển miền Trung Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã xác định được 8 loài cá
ngừ phân bố ở biển Việt Nam, như cá ngừ Chù (auxis tharzard), cá ngừ Ồ (auxis
rochei), cá ngừ Chấm (euthynnus affinis), cá ngừ Bò (thunnus tonggol). Kết quả
nghiên cứu cũng đưa ra Atlat cá ngừ và mô tả đặc điểm sinh học của chúng, bước đầu
xác định được mùa vụ và công cụ khai thác.
Năm 1994-1997, đề tài “Nghiên cứu nguồn lợi sinh vật biển quần đảo Trường
Sa” đã tiến hành khảo sát trên vùng biển ven đảo phía Nam và Tây nam quần đảo
Trường Sa [2]. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở khu vực nghiên cứu có trên 400 loài hải
sản, trong đó trên 40 loài thu được bằng các loại lưới rê, trên 10 loài thu được bằng
nghề câu vàng. Kết quả nghiên cứu trên cũng cho biết đặc điểm sinh học, năng suất
khai thác, sản lượng của một số đối tượng chính như cá ngừ vằn, cá nổi nhỏ … và sự
phân bố của chúng. Tuy nhiên, do phạm vi và nội dung nghiên cứu còn hạn chế nên
kết quả chỉ dừng lại ở mức độ nhất định
Năm 2000-2002, Viện Nghiên cứu Hải sản đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu
thăm dò nguồn lợi hải sản và lựa chọn công nghệ khai thác phù hợp phục vụ phát triển
nghề cá xa bờ Việt Nam” [13]. Kết quả nghiên cứu cho biết thành phần loài của cá
trong vùng biển xa bờ miền Trung và Đông Nam Bộ bắt gặp trong các chuyến điều tra
có 174 loài cá nổi, trong đó có các loài cá ngừ vằn, cá ngừ Chù, cá ngừ Bò….
11


Trong những năm 1999-2004, Viện nghiên cứu Hải sản đã tiến hành điều tra nguồn lợi
cá ngừ ở vùng biển Việt Nam, nghiên cứu tập tính cá và các yếu tố ảnh hưởng đến sự
tập trung của cá ngừ đại dương [1, 6, 13, 14]. Kết quả nghiên cứu cho thấy đối tượng
chính của nghề câu vàng là cá thu ngừ, chiếm tỷ lệ 17,55-60,79% sản lượng nghề câu

vàng vụ Nam và 2,19-66,80% sản lượng nghề này trong vụ Bắc. Kết quả điều tra cũng
cho thấy thêm, thành phần chủ yếu là cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to.
Đề tài cấp Nhà nước, Mã số KC-09-03 “Xây dựng mô hình dự báo cá khai thác và
các cấu trúc hải dương có liên quan phục vụ đánh bắt xa bờ ở vùng biển Việt Nam” do
PGS.TS Đinh Văn Ưu chủ trì [15] đã nghiên cứu những yếu tố hải dương liên quan
đến nghề câu cá ngừ đại dương trên vùng biển Việt Nam.
Về trữ lượng và khả năng khai thác cá ngừ đại dương trên vùng biển Việt Nam,
kết quả tổng hợp các nguồn số liệu cho thấy:
- Trữ lượng cá ngừ vằn ở vùng biển xa bờ miền Trung và Đông Nam Bộ ước tính vào
khoảng 618.000 tấn, khả năng khai thác bền vững là 216.000 tấn;
- Trữ lượng cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to khoảng 44.853-52.591 tấn, khả năng
khai thác là 17.000 tấn.
1.3.2. Các kết quả nghiên cứu về công nghệ khai thác cá ngừ
Đề tài: "Đánh giá hiện trạng công nghệ khai thác xa bờ ở những vùng trọng
điểm” đã được Viện Nghiên cứu Hải sản tiến hành vào năm 1997. Đề tài đã điều tra
khảo sát để đánh giá hiện trạng công nghệ khai thác của các nghề khai thác xa bờ về
tàu thuyền, máy tàu, cấu tạo ngư cụ, kỹ thuật khai thác và phân tích hiệu quả kinh tế
của 4 loại nghề khai thác xa bờ chính là: nghề lưới kéo, nghề lưới rê, nghề lưới vây,
nghề câu.
Năm 1998, Viện Nghiên cứu Hải sản đã thực hiện đề tài: “Xác định các nghề có
năng suất cao, thích hợp với cỡ loại tàu khai thác hải sản xa bờ”. Đề tài đã điều tra tại
các bến cá thuộc các tỉnh trọng điểm cũng như trên các tàu đang sản xuất để thu thập
các số liệu về tàu thuyền, ngư cụ và hiệu quả kinh tế của nhiều con tàu tham gia khai
thác hải sản với 4 loại nghề chủ yếu là: lưới kéo, lưới vây, lưới rê và nghề câu. Bằng
phương pháp tính toán so sánh, đề tài đã xác định được các mẫu lưới phù hợp với điều
kiện tự nhiên của từng vùng biển, tương ứng với từng nghề: lưới kéo, lưới vây, lưới rê
và nghề câu.
12



Trong đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu thăm dò nguồn lợi hải sản và lựa chọn
công nghệ khai thác phù hợp phục vụ phát triển nghề cá xa bờ Việt Nam” [16] cũng
đã đi sâu về công nghệ khai thác xa bờ, trong đó có nghề câu vàng cá ngừ đại dương.
Ngoài nội dung đánh giá được tình hình về nguồn lợi của các vùng biển, kết quả
nghiên cứu của đề tài đã đánh giá hiệu quả đầu tư của các tàu đánh cá xa bờ, tình hình
sử dụng máy móc thiết bị của các tàu cá và tình hình cơ giới hóa của các nghề khai
thác hải sản xa bờ. Kết quả nghiên cứu đã đề xuất lựa chọn công nghệ khai thác phù
hợp với nghề cá xa bờ, trong đó có nghề câu cá ngừ đại dương.
Đề tài "Nghiên cứu trữ lượng và khả năng khai thác nguồn lợi cá nổi (chủ yếu là
cá ngừ vằn, ngừ vây vàng và ngừ mắt to) và hiện trạng cơ cấu nghề nghiệp khu vực biển
xa bờ miền Trung và Đông Nam Bộ" đã được tiến hành từ năm 2003÷2005 [14]. Kết quả
nghiên cứu của đề tài đã đánh giá trữ lượng và khả năng khai thác bền vững cá nổi lớn ở
vùng biển xa bờ miền Trung và Đông Nam Bộ, các đối tượng được đánh giá là: cá ngừ
vằn, cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to. Đề tài đã đánh giá hiện trạng tàu thuyền và công
nghệ khai thác của một số nghề như: nghề lưới vây, nghề câu, nghề lưới rê. Nhìn chung,
nghề cá của các tỉnh trong khu vực nghiên cứu đang phát triển một cách tự phát, tàu
thuyền có công suất nhỏ hơn 90 CV chiếm số lượng khá lớn. Kết quả nghiên cứu còn
đánh giá hiệu quả kinh tế của một số nghề khai thác cá nổi lớn trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài.
Năm 2005-2006, Viện Nghiên cứu Hải sản đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu cải
tiến và ứng dụng công nghệ mới trong nghề câu cá ngừ đại dương ở vùng biển miền
Trung và Đông Nam Bộ” [11]. Các kết quả của đề tài đã đạt được:
+ Một trong những nội dung được nghiên cứu là sử dụng chà thả ở độ sâu lớn (tới
2000m) để tập trung cá ngừ đại dương. Kết quả nghiên cứu cho thấy có nhiều khả
năng khai thác cá ngừ đại dương quanh chà bằng lưới vây và câu vàng quanh chà.
Ngoài ra đề tài còn nghiên cứu tập tính cá ngừ bám quanh chà như độ sâu và khoảng
cách phân bố của cá quanh chà.
+ Hiện tại ngư dân mới chỉ sử dụng nghề câu vàng để khai thác cá ngừ đại
dương như cá ngừ vây vàng, cá ngừ mắt to. Đây là loại hình khai thác xa bờ có hiệu
quả. Tuy nhiên đối tượng khai thác được từ nghề câu vàng thường là những đối tượng

đã trưởng thành và thường đều bị xây sát và bị chết trong quá trình khai thác.
13


+ Nghề lưới rê thường chỉ khai thác được các đối tượng cá ngừ nhỏ như: Cá Ngừ
chù, Ngừ ồ, Ngừ bò, Ngừ chấm, Ngừ chấm mà không khai thác được hoặc khai thác
được rất ít các đối tượng là cá ngừ vây vàng, cá ngừ mắt to đã trưởng thành. Đồng thời
các đối tượng này đều bị chết sau một thời gian ngắn đóng lưới. Mặt khác để phát triển
nghề cá theo hướng hội nhập với thế giới thì nghề lưới rê sẽ chỉ còn được phép hoạt
động với chiều dài vàng <2,5 km và điều này sẽ làm cho nghề lưới rê dần bị mai một.
Đề tài nghiên cứu ngư trường và công nghệ khai thác cá ngừ đại dương giống
(Thunnus albacares; Thunnus obesus) phục vụ nuôi thương phẩm. Viện nghên cứu Hải
sản được Viện Nghiên cứu Hải sản triển khai năm 2010 [12] đã mở ra hướng mới cho
nghề khai thác cá ngừ đại dương. Kết quả nghiên cứu bước đầu của đề tài cho thấy lần
đầu tiên ở Việt Nam, đã thiết kế và thi công lồng lưu giữ và vận chuyển cá ngừ đại
dương giống. Lồng có dạng hình trụ tròn, đường kính miệng lồng 13m, độ sâu lồng
8m. Khung lồng được làm bằng ống vật liệu dẻo HDPE, có độ bền cao, chịu được
sóng gió biển khơi. Lồng có ”Cửa lưới” được thiết kế đặc biệt để nhận cá ngừ đại
dương giống dồn từ lưới vây sang. Cấu tạo, kích thước lồng được thiết kế phù hợp với
sức kéo của tàu cá Việt Nam.
Đề tài đã xây dựng được quy trình khai thác cá ngừ đại dương giống bằng lưới
vây và đã phát hiện ra tập tính cá ngừ đại dương giống thường hay tập trung ở đỉnh các
gò nổi ở vùng biển xa bờ, nhờ vậy có thể sử dụng lưới vây kết hợp ánh sáng để khai
thác chúng. Khai thác cá ngừ đại dương giống bằng lưới vây kết hợp ánh sáng tại các
gò nổi rất phù hợp với nghề cá Việt Nam vì không phải thường xuyên kéo lồng nên đã
giảm đáng kể chi phí và trong điều kiện tàu thuyền và ngư cụ rất thô sơ của nước ta đã
khai thác thành công cá ngừ đại dương giống, có chuyến biển đã khai thác được
7.830kg cá ngừ vây vàng và 839 kg cá ngừ mắt to; đạc biệt mẻ lưới ngày 14/ 4/2009
đã khai thác được 2.650 kg cá ngừ vây vàng giống. Cá ngừ giống có trọng lượng cá thể
phổ biến từ 3-4 kg/con .

Năm 2000 Trường Đại học Thủy sản đã triển khai đề tài: “Nghiên cứu ứng
dụng chà di động cho nghề lưới vây xa bờ khai thác cá ngừ tại Việt Nam” [10]. Nhằm
xây dựng cơ sở khoa học cho việc du nhập công nghệ mới cho nghề khai thác cá ngừ
đại dương ở nước ta.
14


Đề tài “Đánh giá trình độ công nghệ khai thác hải sản xa bờ”, đã được Viện
nghiên cứu Hải sản thực hiện năm 2006 [10], trong đó có nghề khai thác cá ngừ đại
dương. Kết quả đề tài đã đạt được là:
+ Trình độ công nghệ khai thác hải sản xa bờ nước ta đã được cải thiện đáng kể,
đáp ứng tốt hoạt động khai thác ở vùng biển xa bờ.
+ Tuổi của thiết bị và công nghệ khá trẻ có thể đáp ứng tốt cho sản xuất trong
thời gian 5 năm tới.
+ Mức độ sử dụng thiết bị hiện đại và đổi mới thiết bị, công nghệ thấp và chậm.
+ Trình độ tự động hoá, cơ khí hoá các khâu thao tác ngư cụ còn thấp, sử dụng
lao động thủ công vẫn chiếm ưu thế.
+ Mức độ trang bị động lực và huy động thiết bị vào sản xuất thấp,.
+ Chi phí nhiên liệu trên đơn vị sản phẩm cao. Chất lượng sản phẩm thấp.
+ Chất lượng lao động đảm bảo vận hành tốt các thiết bị và công nghệ hiện có.
+ Hiệu quả đầu tư và lợi ích kinh tế của công nghệ khai thác hiện có khá tốt,
nhưng đang có xu hướng giảm dần và không bền vững.
Kết quả nghiên cứu đã cho ta thấy toàn bộ bức tranh về công nghệ khai thác hải
sản xa bờ của Việt Nam, nhằm mục đích chỉ ra được hướng đầu tư chiều sâu công
nghệ phục vụ cho nghề cá xa bờ phải như thế nào.
Năm 2011, Nguyễn Văn Kháng, Viện Nghiên cứu Hải sản, đã hoàn thành quá
trình nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học phục vụ cho việc điều chỉnh cơ
cấu đội tàu và nghề nghiệp khai thác hải sản” [11].
Đề tài đã hoàn thành xuất sắc mục tiêu và nội dung dung nghiên cứu theo đề
cương đã được phê duyệt cho các năm 2008 và 2009 để đánh giá hiện trạng khai thác

và nguồn lợi hải sản theo từng vùng biển ở Việt Nam và nghiên cứu tình hình kinh tế-
xã hội của cộng đồng ngư dân ven biển liên quan đến khai thác hải sản; đề tài còn xác
lập được cơ sở khoa học để xây dựng mô hình tổ chức sản xuất cho các vùng biển
tuyến bờ, tuyến lộng và tuyến khơi.
Từ đó có được cơ sở khoa học (dựa vào tính toán khả năng nguồn lợi, năng lực
khai thác và kinh tế - xã hội) góp phần chuyển đổi cơ cấu đội tàu và nghề nghiệp khai
thác hải sản theo Nghị định 123-2006/NĐ-CP (nay là Nghị định 33/2010/NĐ-CP) và
đề xuất được các giải pháp phục vụ cho việc sắp xếp đội tàu khai thác hải sản hợp lý
với từng vùng biển nhằm phát triển bền vững nghề khai thác hải sản.
15


1.3.3. Tình hình nghiên cứu về hiệu quả kinh tế của nghề khai thác hải sản
Mặc dù lĩnh vực nghiên cứu hiệu quả kinh tế không thuộc chuyên ngành khai
thác thủy sản. Tuy nhiên, xét về hiệu quả công việc, thì dù là làm công việc gì cuối
cùng vẫn phải mang lại hiệu quả kinh tế. Để thấy rõ hiệu quả kinh tế của nghề câu cá
ngừ đại dương ở nước ta, tác giả Hoàng Trọng Oanh đã thực hiện đề tài cho luận văn
thạc sĩ của mình “Đánh giá hiệu quả kinh tế của nghề câu cá ngừ đại dương tại công
ty trách nhiệm hữu hạn Việt Tân” [14]. Tác giả đã phân tích đánh gái các chỉ tiêu ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh tế của đội tàu thuộc công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Tân.
Các chỉ tiêu cụ thể là:
- Trình độ công nghệ tàu thuyền và trang thiết bị máy móc.
- Tuổi thọ, thời gian và hệ số đổi mới trang thiết bị máy móc.
- Hệ số đổi mới tàu thuyền và trang thiết bị máy móc.
- Trình độ công nghệ của yếu tố lao động.
- Các chỉ tiêu đặc trưng đóng góp vào hiệu quả khai thác cá ngừ đại dương của
công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Tân. Tác giả đã quan tâm đến các chỉ tiêu đóng góp
về hiệu quả kinh tế của nghề câu cá ngừ đại dương là:
+ Sản lượng khai thác của đội tàu của công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Tân.
+ Năng suất lao động.

+ Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
+ Chất lượng sản phẩm và giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Để thấy rõ hiệu quả kinh tế của nghề lưới vây và lưới kéo, tác giả Đoàn Xuân Nhân đã
thực hiện đề tài nghiên cứu “Đánh giá hiệu quả sản xuất nghề lưới kéo và lưới vây ven
bờ tại khu vực Nha Trang, Khánh Hòa” [13]. Trong khi đánh giá hiệu quả kinh tế của
nghề lưới vây và lưới kéo tác giả đã sử dụng các chỉ tiêu:
- Chỉ tiêu về sản lượng khai thác.
- Giá trị bằng tiền của sản phẩm khai thác;
Để tính toán hiệu quả kinh tế của các nghề này, tác giả đã sử dụng các đại lượng:
+ Chi phí vận hành, bao gồm chi phí cố định và chi phí biến đổi.
+ Doanh thu và lợi nhuận.
Để phân tích hiệu quả kinh tế của các nghề này, tác giả đã sử dụng các chỉ số:
+ Hiệu suất sử dụng chi phí.
+ Tỷ suất lợi nhuận.
16


1.3.4. Đặc điểm sinh học cá ngừ mắt to (Thunnus obesus)
Cá ngừ Mắt to mặc dù phân bố rộng trong cùng vĩ độ với cá ngừ vây vàng,
nhưng cá ngừ mắt to thường ưa thích nước lạnh nên sống sâu hơn. Chúng có đặc điểm
là lớn nhanh trong giai đoạn còn non, di chuyển giữa vùng ôn đới và nhiệt đới. Cá
thường đẻ ở vùng xích đạo với lượng trứng nhiều. Người ta cho rằng cá ngừ Mắt to
sống lâu hơn cá ngừ vây vàng nhưng không lâu như loài cá ngừ vây xanh.
Cá ngừ Mắt to ăn mồi sâu hơn cá ngừ vây vàng, chúng ăn nhiều mực và cá nổi
tầng giữa. Cá non thường tập trung ở lớp nước xáo trộn gần tầng mặt cùng với những
con cá ngừ vây vàng nhỏ có cùng kích thước. Cá lớn thường ở tầng nước sâu hơn, lạnh
hơn và có ít oxy hoà tan hơn so với cá ngừ vằn và cá ngừ vây vàng. Hanamoto (1987)
ước tính vùng cư trú ưa thích của cá ngừ mắt to là ở nhiệt độ 10
0
- 15

0
C, bình thường
từ 10
0
- 29
0
C, trong khoảng độ muối 34,5 - 35,5%0, nơi mà lượng oxy đạt mức cao
(trên 1ml/l).

Hình 1-4. Cá ngừ mắt to (Thunnus obesus)
Trong vùng biển TBD, cá ngừ mắt to phân bố rộng. Ở phần phía tây TBD, cá
phân bố từ phía Bắc Nhật Bản đến Bắc Newzeland, từ vĩ độ 400N đến 300S. Sự phân
bố của cá ngừ phụ thuộc vào nhiệt độ nước và lượng oxy hoà tan. Độ muối không
đóng vai trò quan trọng trong sự phân bố của cá ngừ [18,19].
Schaefer và Fuller (2002) nhận thấy cá ngừ ở Đông Thái Bình Dương dùng hầu
hết thời gian ban ngày ở độ sâu 200 ÷ 300 m, với nhiệt độ 13
0
÷ 14
0
C. Chúng có thể
lặn xuống độ sâu trên 1.500m và ở nhiệt độ nhỏ hơn 3
0
C.
Vào ban ngày, cá ngừ mắt to thường tập trung ở độ sâu 220 ÷ 240m và ban đêm
nổi lên ở độ sâu 70 ÷ 90m, [18,19]. Tập tính di cư thẳng đứng, nổi lên đến tầng nước

×