Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

HỘI PHỤ NỮ XÃ VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.48 KB, 26 trang )

HỘI PHỤ NỮ XÃ VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ
HỘ Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH HIỆN NAY.
A.MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện hiện nay, với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước,
việc làm, tăng thu nhập chính đáng. Bên cạnh đó cũng có một số địa phương
chưa vận dụng, thực hiện tốt công tác này
Từ thực tế đó, để làm rõ vai trò, hoạt động của Hội phụ nữ xã, nhất là
trong lĩnh vực phát triển kinh tế hộ gia đình, chúng tôi quyết định chọn nội
dung: “HỘI PHỤ NỮ XÃ VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ Ở TỈNH
BÌNH ĐỊNH HIỆN NAY” làm đề tài khoa học cấp cơ sở. Qua đó mong muốn
cùng với Hội phụ nữ cấp xã của tỉnh Bình Định tham gia tích cực trong phát
triển kinh tế phát triển kinh tế xã hội có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân, hộ gia
đình và ở mỗi địa phương, đơn vị.
Trong nhiều năm qua, được sự lãnh đạo của Hội phụ nữ cấp trên, của cấp
ủy các cấp trong phát triển kinh tế- xã hội, nhất là chương trình phụ nữ hỗ trợ
nhau phát triển kinh tế do TW Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam phát động chị
em phụ nữ có điều kiện phát triển kinh tế gia đình- kinh tế hộ, từng bước cải
thiện đời sống gia đình, phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương.
Hội phụ nữ xã là tổ chức cơ sở của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, là
cấp thấp nhất trong hệ thống 4 cấp của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, nhưng
lại có vị trí cực kỳ quan trọng vì đây là nơi giữ mối liên hệ và giải quyết có hiệu
quả các công việc của Hội.
Nhận thức được ý nghĩa của phát triển kinh tế gia đình, nhiều Hội phụ nữ
xã ở tỉnh Bình Định trong những năm qua đã có những chương trình, kế hoạch
giúp đỡ cho chị em phụ nữ cũng như các hội viên của mình có điều kiện tạo
công ăn việc làm ở tỉnh Bình Định trong thời kỳ hiện nay góp phần vào sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước
2.Tình hình nghiên cứu
Có những đề tài, bài viết đề cập ở những góc độ khác nhau:
1


- Phụ nữ và vấn đề phát triển kinh tế hộ gia đình của người Chăm ở tỉnh
Ninh Thuận (dưới góc độ nhân học kinh tế)- Quảng Đại Tuyên- Trung tâm
nghiên cứu văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận)
- Bức tranh kinh tế hộ nông dân hiện nay và một số vấn đề đặt ra - Lê
Xuân Đình
- Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế - theo Báo Bình Thuận
- Chính sách xã hội nông thôn TS Mai Ngọc Cường: Nhà xuất bản Lý
luận Chính trị, năm 2006
- Hiệu quả từ phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế- Báo Bắc
cạn
- v.v…
Nhưng chưa có đề tài nào đề cập cụ thể về vấn đề HỘI PHỤ NỮ XÃ
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH HIỆN NAY.
3. Mục tiêu
Trên cơ sở nghiên cứu những hoạt động của Hội phụ nữ xã đối với việc
phát triển kinh tế hộ ở tỉnh Bình Định, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hơn nữa vai trò, hoạt động của Hội phụ nữ xã trong việc phát triển kinh tế hộ ở
tỉnh Bình Định.
Bên cạnh đó kết quả nghiên cứu còn là tư liệu phục vụ cho công tác
giảng dạy trong môn học Kỹ năng, nghiệp vụ công tác đoàn thể ở trường
Chính Trị tỉnh Bình Định.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về Hội phụ nữ xã- vai trò, hoạt động của Hội trong phát triển
kinh tế hộ
+ Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Ở tỉnh Bình Định (trên cơ sở khảo sát tại Hội phụ nữ
của một số xã ở một số huyện của tỉnh Bình Định)
- Về thời gian thực hiện: từ tháng 3/ 2011 đến tháng 11/ 2011.
2

Trong quá trình thực hiện, các tài liệu thu thập trong thời gian từ 2006-
2010 và số liệu điều tra thực trạng trong năm 2010
5. Phương pháp nghiên cứu
- Khảo sát, điều tra thực tế tại các xã
- Thống kê, tổng hợp, phân tích
- Lịch sử cụ thể…
- Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
3
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò, hoạt động của Hội phụ nữ xã
trong phát triển kinh tế hộ
1. Cơ sở lý luận
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Phụ nữ?
Theo Đại từ điển tiếng việt:
Phụ nữ hay đàn bà là từ chỉ giống cái của loài người. Phụ nữ thường
được dùng để chỉ một người trưởng thành. Bên cạnh đó từ phụ nữ đôi khi dùng
để chỉ đến một con người giống cái, bất kể tuổi tác, như là trong nhóm từ
“quyền phụ nữ”
Phụ nữ chỉ một, một nhóm hay tất cả nữ giới đã trưởng thành, hoặc được
cho là đã trưởng thành về mặt xã hội. Nó cho thấy một cái nhìn ít nhất là trung
lập, hoặc thể hiện thiện cảm, sự trân trọng nhất định từ phía người sử dụng, nó
đề cập đến hoặc hướng người ta đến những mặt tốt, hoặc ít nhất là không xấu,
đến những giá trị, những đóng góp, những ảnh hưởng tích cực từ những nữ giới
này.
1.1.2. Công tác phụ nữ?
Công tác phụ nữ được hiểu một cách khái quát là toàn bộ những hoạt
động của Đảng, Nhà nước và các chủ thể xã hội khác trong đó có tổ chức Hội
Liên hiệp phụ nữ nhằm tác động đến mọi đối tượng phụ nữ một cách đồng bộ
để bồi dưỡng, tổ chức, động viên phụ nữ phát huy mọi tiềm năng và thế mạnh

tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển, cống hiến, trưởng thành vì sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.3. Hộ gia đình?
Theo Bộ luật Dân sự năm 2005, tại Điều 106 định nghĩa như sau:
Hộ gia đình là chủ thể của quan hệ dân sự khi các thành viên trong một
gia đình có tài sản chung, cùng có quyền chiếm hữu sử dụng, định đoạt và cùng
có trách nhiệm dân sự đối với khối tài sản đó. Như vậy, hộ gia đình nhất thiết
phải có mối quan hệ về huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ về nuôi
dưỡng (quan hệ về cha mẹ nuôi và con nuôi)
Theo quan niệm khác:
4
Hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ sở- vừa là đơn vị sản xuất, vừa là đơn vị
tiêu dùng, vừa là đơn vị kinh doanh, vừa là một đơn vị xã hội.
1.1.4.Kinh tế hộ?
Kinh tế hộ gia đình là các mô hình canh tác thích hợp với khả năng lao
động của gia đình và điều kiện đất đai để sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập,
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho gia đình.
Kinh tế hộ gia đình là loại hình kinh tế trong đó các hoạt động sản xuất
chủ yếu dựa vào lao động gia đình (lao động không thuê) và mục đích của loại
hình kinh tế này trước hết nhằm đáp ứng các nhu cầu của hộ gia đình.
Đặc trưng của kinh tế hộ gia đình
-Là loại hình kinh tế trong đó các thành viên làm việc một cách tự chủ, tự
nguyện vì lợi ích kinh tế của bản thân, gia đình và xã hội. Xét về nội tại của hộ
thì các thành viên cùng huyết tộc.
-Là đơn vị kinh tế cơ sở vừa sản xuất vừa tiêu dùng. Có sự thống nhất
giữa đơn vị kinh tế và đơn vị xã hội. Do đó đồng thời thực hiện hài hòa được
nhiều chức năng mà các đơn vị kinh tế khác không thể có được. Kinh tế hộ có
khả năng điều chỉnh rất cao trong mối quan hệ sản xuất – trao đổi – phân phối –
tiêu dùng.
-Là hình thức kinh tế luôn thích nghi với các đặc điểm của sản xuất nông

nghiệp là sinh vật, đất đai là TLSX chủ yếu.
-Là một tế bào xã hội phổ biến mang tính chất đặc thù với điều kiện tự
nhiên của mỗi nước và mỗi khu vực trên thế giới. Trình độ của nó phát triển từ
thấp đến cao.
-Tuy là đơn vị kinh tế độc lập, nhưng không đối lập với kinh tế HTX và
kinh tế Nhà nước.
Vai trò của kinh tế hộ gia đình
Trong thời kỳ chiến tranh, hộ gia đình Việt Nam vừa cung cấp nguồn
nhân lực, vừa là nguồn của cải vật chất (chưa nói tới tinh thần) cho cuộc chiến,
đồng thời lại là nơi sản xuất vật chất để bảo đảm cuộc sống không những cho
gia đình (chỉ với 5% quỹ đất canh tác được chia cho các hộ gia đình làm kinh tế
5
vườn theo lối tự túc, tự cấp), mà còn đóng vai trò là hậu phương lớn miền Bắc
cho tiền tuyến lớn miền Nam (trên cơ sở phát triển hợp tác xã theo kiểu cũ).
Vai trò của kinh tế hộ có nhiều thay đổi cả về phương thức quản lý lẫn
lao động sản xuất, nhất là kể từ khi phong trào hợp tác xã mất dần động lực
phát triển. Mốc quan trọng của sự thay đổi đó là sự ra đời của Chỉ thị 100,
ngày 31- 01- 1981 của Ban Bí Thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán
sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã. Tiếp theo đó, Nghị
quyết 10, ngày 05- 04- 1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý nông nghiệp
đã tạo cơ sở quan trọng để kinh tế hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ
trong nông nghiệp. Ngoài ra, đối với khu vực nông, lâm trường, nhờ có Nghị
định số 12/NĐ-CP, ngày 03- 02- 1993 về sắp xếp tổ chức và đổi mới cơ chế
quản lý các doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước, các nông, lâm trường đã từng
bước tách chức năng quản lý nhà nước đối với quản lý sản xuất, kinh doanh,
các gia đình nông, lâm trường viên cũng được nhận đất khoán và hoạt động
dưới hình thức kinh tế hộ. Tuy những đặc điểm truyền thống của kinh tế hộ vẫn
không thay đổi, nhưng việc được giao quyền sử dụng đất lâu dài đã làm cho hộ
gia đình trở thành đơn vị sản xuất, kinh doanh tự chủ, tự quản. Động lực mới
cho sự phát triển kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn đã xuất hiện.

Kinh tế hộ gia đình đã có đóng góp lớn cho kinh tế nông nghiệp, sản xuất
lúa gạo đạt tỷ suất hàng hóa khoảng trên 50%, cà phê 45%, cao su 85%, chè
trên 60%, điều trên 90%. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ hộ gia
đình đang loay hoay trong cảnh sản xuất tự cấp, tự túc, thậm chí còn nhiều hộ
sản xuất tự nhiên, nhất là ở vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nền kinh
tế hàng hóa phát triển cũng đồng thời dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo. Về tỷ lệ
hộ nghèo cả nước là 9,45%. Khu vực nông thôn là 35,7% (thấp nhất là vùng
Đông Nam Bộ 22%, cao nhất là vùng Tây Bắc 68,7%). Theo Bộ Lao động
thương binh- xã hội, hiện nay, cả nước vẫn còn trên 3 triệu hộ nghèo và 1,6
triệu hộ cận nghèo. Vì vậy, việc nghiên cứu vận dụng các mô hình kinh tế hộ
gia đình sản xuất hàng hóa nhằm nâng cao năng lực sản xuất của các hộ kinh tế
nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay là rất cấp thiết
1.2. Quan điểm của Đảng ta về kinh tế hộ
Trong quá trình đổi mới, đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển
nông nghiệp, nông thôn đã khơi dậy nguồn động lực to lớn của nhân dân, đưa
đến những thành tựu rất quan trọng. Đảng ta xác định nền kinh tế nhiều thành
6
phần trong nông nghiệp, nông thôn tồn tại lâu dài, mỗi thành phần có vị trí, vai
trò riêng và đều được khuyến khích phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX đã xác định: Kinh tế hộ nông dân tồn
tại lâu dài trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ, kinh tế
trang trại phát triển sản xuất hàng hóa với quy mô ngày càng lớn.
Nghị quyết 06 của Bộ chính trị khóa IX đã xác định:
Khuyến khích phát triển kinh tế hộ. Kinh tế hộ gia đình ở nông thôn (làm
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, dịch vụ, tiểu thủ công
nghiệp hoặc kết hợp làm nhiều ngành nghề) là loại hình tổ chức sản xuất có
hiệu quả về kinh tế - xã hội, tồn tại, phát triển lâu dài, có vị trí quan trọng trong
sản xuất nông nghiệp và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn. Tiếp tục khuyến khích kinh tế hộ phát triển mạnh mẽ để tạo ra lượng
sản phẩm hàng hoá đa dạng có chất lượng, giá trị ngày càng cao, tăng thu nhập
cho mỗi gia đình nông dân, cải thiện đời sống mọi mặt ở nông thôn, cung cấp
sản phẩm cho đô thị, công nghiệp và xuất khẩu, đồng thời thực hiện việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngay từ kinh tế hộ;
Sớm hoàn thành việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
để ổn định lâu dài cho hộ nông dân; mở rộng việc cho nông dân vay vốn bằng
nhiều hình thức phù hợp với từng loại cây trồng, vật nuôi nhằm hỗ trợ đúng lúc,
đúng đối tượng thực sự có nhu cầu và khả năng sử dụng hiệu quả vốn vay,
trước hết chú trọng đáp ứng nhu cầu giống, các vật tư thiết yếu, dịch vụ kỹ
thuật; gắn việc hình thành vùng nguyên liệu với các cơ sở chế biến; có cơ chế
và hình thức tổ chức thích hợp để tạo sự gắn bó về tổ chức và lợi ích giữa các
cơ sở chế biến với đơn vị sản xuất nguyên liệu;
Đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hỗ trợ hộ
nông dân vươn lên sản xuất hàng hoá với quy mô ngày càng lớn, gắn với công
nghiệp và dịch vụ. Ở nông thôn hiện nay đang phát triển mô hình trang trại
nông nghiệp nông thôn hiện nay đang phát triển mô hình trang trại nông
nghiệp, phổ biến là các trang trại gia đình, thực chất là kinh tế hộ sản xuất hàng
hoá với quy mô lớn hơn, sử dụng lao động, tiền vốn của gia đình là chủ yếu để
sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Một bộ phận trang trại ngoài lao động của gia
đình, có thuê thêm lao động để sản xuất, kinh doanh, quy mô diện tích đất canh
7
tác xoay quanh mức hạn điền ở từng vùng theo quy định của pháp luật.
Nhà nước có chính sách khuyến khích phát triển hình thức trang trại gia đình
như các loại hình sản xuất khác của kinh tế hộ gia đình. Đặc biệt khuyến khích
các hộ nông dân, các trang trại gia đình và các thành phần kinh tế khác liên kết
với nhau, hình thành các tổ chức, các hình thức kinh tế hợp tác để mở rộng quy
mô sản xuất, kinh doanh, thu hút và hỗ trợ các hộ gia đình còn khó khăn
2. Cơ sở thực tiễn về vai trò, vị trí của phụ nữ trong phát triển kinh
tế gia đình ở nước ta.

Thực hiện nghị quyết của Đảng và Chương trình mục tiêu quốc gia về
xóa đói giảm nghèo, trong những năm qua, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam,
cơ quan có nhiệm vụ hàng đầu của nhà nước về nâng cao vị thế của người phụ
nữ trong xã hội, đã đề ra chương trình hành động thiết thực, vận động phụ nữ
cả nước tham gia tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo. Qua các phong
trào thi đua với sự tham gia chủ động tích cực của chính bản thân các chị em
phụ nữ như phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”, “Ngày
tiết kiệm vì phụ nữ nghèo”… với nội dung chủ yếu là vận động phụ nữ tương
trợ giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần “ai có gì giúp nấy, người khó ít giúp người
khó nhiều”, với nội dung, hình thức phù hợp đã thu hút đông đảo các chị em
phụ nữ tham gia, trở thành phong trào quần chúng rộng lớn trong cả nước. Phụ
nữ nước ta có vị trí, vai trò quan trọng trong đội ngũ đông đảo những người lao
động trong xã hội. Bằng lao động sáng tạo của mình, họ đã góp phần làm giàu
cho xã hội, làm phong phú cuộc sống con người. Phụ nữ luôn thể hiện vai trò
của mình trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, cụ thể là trong lĩnh vực hoạt
động vật chất, phụ nữ là một lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải để nuôi
sống con người. Không chỉ sản xuất ra của cải vật chất, phụ nữ còn tái sản xuất
ra con người để duy trì và phát triển xã hội. Trong lĩnh vực hoạt động tinh thần,
phụ nữ có vai trò sáng tạo nền văn hóa nhân loại.Nền văn hóa dân gian của bất
cứ nước nào, dân tộc nào cũng có sự tham gia bằng nhiều hình thức của đông
đảo phụ nữ.
Ở Việt Nam, phụ nữ chiếm trên 51% dân số cả nước, họ tham gia vào tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và càng
ngày càng thể hiện vị trí, vai trò của mình trong xã hội. Trong suốt chặng
đường đấu tranh dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước, lịch sử Việt Nam
đã ghi nhận những cống hiến to lớn của phụ nữ. Trong công cuộc đổi mới đất
nước của Đảng, họ luôn giữ gìn, phát huy và nêu cao tinh thần yêu nước, đoàn
8
kết, năng động, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn để vươn lên trong học tập,
lao động, phấn đấu đạt những thành tích xuất sắc trên mọi lĩnh vực. Trong gia

đình, mỗi phụ nữ vừa là người con dâu, người vợ, người mẹ, người thầy đầu
tiên của con người.
Với truyền thống đó, phụ nữ Việt Nam “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”
tiếp tục vượt qua mọi thành kiến và thử thách, vươn lên đóng góp tích cực vào
các hoạt động xã hội, duy trì ảnh hưởng rộng rãi vai trò của mình trên nhiều
lĩnh vực như: tham gia quản lý nhà nước; tham gia xóa đói giảm nghèo; xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; tham gia phòng chống tệ
nạn xã hội; thúc đẩy hoạt động đối ngoại nhân dân…Có thể nói, vai trò của phụ
nữ Việt Nam được thể hiện ngày càng sâu sắc và có những đóng góp quan
trọng trong thành tựu của cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, khi đất nước bước vào kỷ nguyên hội nhập với thế giới, trong
công cuộc xây dựng đất nước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phụ nữ Việt Nam tiếp tục đóng vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát
triển chung của xã hội.
Theo Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh
hành động của Hội nghị thế giới lần thứ 4 về phụ nữ tại Bắc Kinh, vai trò, vị trí
của phụ nữ Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt.
Hiện nay, phụ nữ Việt Nam góp một phần rất lớn vào quá trình phát triển
của đất nước, thể hiện ở số nữ chiếm tỉ lệ cao trong lực lượng lao động. Với
hơn 51% dân số và gần 50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ
nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ
quan trọng trong bộ máy nhà nước. Chỉ cần điểm qua một vài con số: Hiện có
122 đại biểu nữ chiếm 24,40% trong Quốc hội (khóa XIII) - cao nhất ở châu Á
và là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế giới; số
phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp trên 20%.
Hơn 90% phụ nữ biết đọc, biết viết. Tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là
36,24%; thạc sĩ 33,95%; tiến sĩ 25,69%. Ngay trong giới báo chí, tỷ lệ các nhà
báo nữ cũng ước tính tới gần 30%. Phụ nữ chiếm ưu thế trong một số ngành
như giáo dục, y tế, và dịch vụ. Trong công tác chuyên môn, phụ nữ chiếm số
đông trong các bộ môn văn học, ngôn ngữ, y dược, khoa học xã hội, khoa học

tự nhiên và kinh tế. Nếu tính tổng số giờ làm việc của nữ giới (kể cả ở nhà và
bên ngoài) cao hơn rất nhiều so với nam giới.
9
Có tới 71% phụ nữ từ 13 tuổi trở lên là những người có thu nhập. Số hộ
nghèo do phụ nữ làm chủ đã giảm từ 13,4% năm 2008 xuống còn 12,3% năm
2010 Đây là những con số sinh động, là bằng chứng chứng minh hiệu quả
của những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện cho phụ nữ
Việt Nam phát triển.
Quyền của phụ nữ về kinh tế đã được nâng lên thông qua việc pháp luật
quy định phụ nữ cùng đứng tên với nam giới trong giấy chứng nhận quyền sở
hữu đất đai, nhà ở, và tài sản. Việt Nam cũng là một trong số ít các quốc gia đã
hoàn thành báo cáo về tình hình thực hiện Công ước về xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Đặc biệt, hệ thống các ban Vì sự tiến
bộ của phụ nữ đã được thành lập ở 45 bộ, ngành và toàn bộ 64 tỉnh, thành phố.
Mạng lưới cán bộ tư vấn về giới hoạt động hiệu quả, hệ thống pháp luật bảo
đảm quyền bình đẳng của phụ nữ được tăng cường, Luật Bình đẳng giới chính
thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2007.
Trong bài phát biểu tại buổi toạ đàm “Vai trò của Phụ Nữ Việt Nam
Trong Thế Kỷ XXI” do Quỹ Phát triển Phụ Nữ Liên Hợp Quốc UNIFEM và
Hội phụ nữ Việt Nam tổ chức dưới sự hỗ trợ của các tổ chức Liên Hợp Quốc tại
Việt Nam, Chủ tịch Hội phụ Nữ Việt Nam Hà Thị Khiết đã tôn vinh người phụ
nữ Việt Nam: “Trong thành tựu chung của đất nước, có sự đóng góp tích cực
của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Là một lực lượng lao động xã hội đông đảo,
phụ nữ Việt Nam đã tỏ rõ vai trò, khả năng, sức sáng tạo của mình trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, thích ứng với sự hội nhập và phát triển theo xu thế
chung của nhân loại”
Như vậy có thể nói, trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước, phụ
nữ Việt Nam tiếp tục phát huy và khẳng định vai trò, vị trí của mình đối với sự
phát triển của xã hội. Khi nền kinh tế của chúng ta càng phát triển, phụ nữ càng
có nhiều cơ hội hơn. Nó phá vỡ sự phân công lao động cứng nhắc theo giới, cho

phép phụ nữ tham gia vào nền kinh tế thị trường và khiến nam giới phải chia sẻ
trách nhiệm chăm sóc gia đình. Nó có thể giảm nhẹ gánh nặng việc nhà cho phụ
nữ, tạo cho họ nhiều thời gian nhàn rỗi hơn để tham gia vào các hoạt động
khác. Đồng thời nó còn tạo ra nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ trên thị trường lao
động v.v… Chính nhờ Đảng có sự lựa chọn đường lối đúng đắn cho sự phát
triển của đất nước mà vai trò của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam không
ngừng được nâng cao.
10
II. Thực trạng Hội phụ nữ xã ở tỉnh Bình Định với việc phát triển
kinh tế hộ thời gian qua ( 2006- 2010)
2.1. Đặc điểm tình hình của phụ nữ, Hội phụ nữ xã
Phụ nữ nông thôn là lực lượng lao động chính trong gia đình, chủ yếu là
sản xuất trên đồng ruộng và phát triển chăn nuôi, gia súc, gia cầm; ngoài ra phụ
nữ còn tham gia các ngành nghề phụ để tăng thu nhập cho gia đình như: Làm
nghề thủ công, dịch vụ buôn bán. Trong gia đình ở nông thôn quan niệm trọng
nam, khinh nữ, đã được xóa bỏ cơ bản. Phụ nữ cùng với nam giới quyết định
việc định hướng sản xuất, quản lý kinh tế trong gia đình. Từ những hoạt động
trên giúp cho phụ nữ biết hạch toán trong sản xuất, năng động hơn và biết cách
tính hiệu quả kinh tế, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm và hợp tác với các
hộ khác trong quá trình mở mang ngành nghề trong sản xuất kinh doanh.
Bình Định là một tỉnh duyên hải miền trung, có 159 xã, phường, thị trấn,
trong đó có 129 xã, 30 phường và thị trấn. Nữ chiếm 51,1% dân số toàn tỉnh,
nông dân chiếm 72,2% trong cơ cấu dân số của tỉnh.
Hội phụ nữ các xã đã được kiện toàn về tổ chức, mỗi xã có một đồng chí
là cán bộ chuyên trách- là chủ tịch Hội. Trong những năm gần đây hoạt động
của Hội có nhiều chuyển biến tích cực về xây dựng tổ chức, vận động các hội
viên tham gia tốt các phong trào của địa phương, đơn vị và nhiệm vụ của Hội
phụ nữ cơ sở.
Từ những kết quả nghiên cứu và khảo sát thực tế tại xã Cát Chánh, Cát
Hải, Cát Hanh, Phước Sơn, Vĩnh An, Tây Giang, Bình Tường…đã khẳng định,

trong những năm qua, nhất là từ khi đất nước bước vào thời kỳ CNH,HĐH
nông nghiệp, nông thôn, phụ nữ nông thôn Bình định đã phát huy truyền thống
và phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam: yêu nước, cần cù, tự lực trong lao
động sản xuất và tổ chức cuộc sống gia đình. Vai trò và đóng góp của phụ nữ
trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn đã khẳng định sự bình
đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế ngày càng được nâng cao. Ngoài việc
tham gia phát triển kinh tế, phụ nữ nông thôn còn tham gia tích cực vào các
hoạt động xã hội và cộng đồng. Đối với gia đình phụ nữ đã thể hiện rõ vai trò
người vợ, người con hiếu thảo, góp phần xây dựng gia đình văn hóa, bình đẳng,
tiến bộ và hạnh phúc.
2.2. Thực trạng
11
Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo của tỉnh giai đoạn
(2006 – 2010) và Nghị quyết Đại hội phụ nữ lần thứ X về chủ trương giúp phụ
nữ nghèo và phụ nữ nghèo là chủ hộ xoá đói giảm nghèo. Hội phụ nữ xã cùng
với các cấp các ngành và chị em phụ nữ qua thực hiện chương trình đạt kết quả
như sau:
2.2.1. Công tác chỉ đạo
Phát triển kinh tế - xã hội gắn với nhiệm vụ xoá đói, giảm nghèo là chủ
trương, nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước. Trong những năm qua,
thực hiện Chương trình mục tiêu giảm nghèo của tỉnh giai đoạn (2006 – 2010)
và quán triệt các Nghị quyết của Đảng, Trung ương Hội và tổ chức Hội phụ nữ
cấp trên ngay từ khi triển khai, Ban chấp hành Hội LHPN các xã đã xây dựng
kế hoạch hoạt động toàn khoá nhiệm kỳ (2006 – 2011), trong đó chú trọng đến
công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Chỉ đạo các tổ
hội tổ chức tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên quần chúng tham gia học
tập nâng cao năng lực trình độ, kiến thức về sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi; chú
trọng đến hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tàn
tật, đơn thân Đồng thời, tổ chức rà soát số phụ nữ nghèo làm chủ hộ, nắm bắt
tình hình đời sống, việc làm và tìm ra nguyên nhân từ đó có biện pháp hỗ trợ

phát triển kinh tế tạo việc làm tăng thu nhập, nhằm giúp chị em phụ nữ tham
gia phát triển kinh tế gia đình, góp phần xoá đói giảm nghèo.
Bên cạnh đó, phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp, các hội đoàn thể,
ngân hàng chính sách, ngân hàng NN & PTNT, Trung tâm Khuyến nông -
khuyến ngư huyện tổ chức tập huấn nghề trồng trọt – chăn nuôi cho phụ nữ,
xây dựng các mô hình nông nghiệp đạt hiệu quả; Tham gia ký các chương trình
liên tịch với ngân hàng Nông nghiệp & PTNT, Ngân hàng CSXH, vận động
xây dựng quỹ “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo” để huy động vốn nhàn rỗi
trong nhân dân, khai thác các nguồn vốn từ các tổ chức Quốc tế, dự án giải
quyết việc làm, dự án nâng cao năng lực, kiến thức cho phụ nữ nông thôn.
Để đạt được hiệu quả trong công tác chỉ đạo triển khai thực hiện, luôn có
sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa Hội và các ngành liên quan, chính
quyền địa phương, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ và nâng cao tính
hiệu quả của chương trình. Đồng thời, Hội đặc biệt quan tâm đến các đối tượng
phụ nữ nghèo, dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, phụ nữ hoàn lương, gia đình
chính sách nghèo, vùng khó khăn; coi trọng công tác kiểm tra để phát hiện
12
những đơn vị, địa phương, các cá nhân làm tốt, phát huy nhân tố điển hình; phát
hiện những tồn tại kịp thời chấn chỉnh hỗ trợ giúp các điạ phương làm tốt hơn.
2.2.2. Kết quả thực hiện
Để góp phần thực hiện đạt hiệu quả chương trình mục tiêu giảm nghèo
trên địa bàn tỉnh, Hội LHPN tỉnh đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao
nhận thức về vấn đề an sinh xã hội đến các cấp Hội. Vận động phụ nữ tham gia
ứng dụng tiến bộ KHKT, thực hiện các chương trình lớn của Tỉnh như: Chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ gắn liền với việc chuyển sản xuất 3 vụ lúa sang 2
vụ; Chương trình giống cây trồng, giống vật nuôi; Phòng chống dịch lở mồm
long móng, cúm gia cầm; Chương trình phát triển lâm nghiệp, kinh tế trang trại,
kinh tế VAC. Phối hợp ngành nông nghiệp tổ chức nhiều chương trình chuyển
giao tiến bộ KHKT, kiến thức sản xuất nông nghiệp, giúp chị em phụ nữ nông
thôn, chị em dân tộc thiểu số nhanh chóng tiếp cận ứng dụng khoa học công

nghệ mới, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất
hàng hoá. Đến nay, các cấp Hội phụ nữ phối hợp ngành nông nghiệp tổ chức
tuyên truyền hướng dẫn chuyển giao KHKT về sản xuất nông nghiệp cho
413.899 lượt chị, giúp chị em phụ nữ nông thôn, chị em dân tộc thiểu số nhanh
chóng tiếp cận ứng dụng khoa học công nghệ mới, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ.
Qua tuyên truyền vận động, nhiều chị đã mạnh dạn ứng dụng KHKT vào
sản xuất chăn nuôi thông qua các mô hình: trồng bí đỏ, nuôi hươu, mô hình
chăn nuôi kết hợp, chăn nuôi gà thả (Hoài Ân), mô hình lúa lai, Mì xen lạc
(Vân Canh) …. Bên cạnh một số mô hình phát triển kinh tế gia đình hiệu quả
đang được các cấp Hội duy trì và nhân rộng như: CLB Phụ nữ giỏi nghề nông,
Khuyến nông, CLB Chăn nuôi giỏi, Tổ phụ nữ dệt thổ cẩm, sản xuất kinh
doanh giỏi…
Cùng với các hoạt động tuyên truyền, Hội đã phối hợp với ngành chức
năng, Hội nông dân, tổ chức mở 592 lớp nghề nông, về trồng rừng (WB3), sơ
cấp thú y, về kỹ thuật chăn nuôi an toàn sinh học … cho 228.661 chị. Tổ chức
đào tạo trên 118 lớp nghề nữ công gia chánh, may công nghiệp tại chỗ và lưu
động cho 2.983 học viên đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.
Nhằm tạo cơ hội cho phụ nữ nghèo có điều kiện tiếp xúc kiến thức cơ bản
về kinh doanh, biết nắm bắt cơ hội kinh doanh, góp phần xoá đói giảm nghèo,
nâng cao chất lượng cuộc sống cho phụ nữ. Trong những năm qua, được sự
quan tâm của Hội LHPN tỉnh, hội phụ nữ các xã đã phối hợp tổ chức trên 40
13
khoá tập huấn kiến thức Khởi sự doanh nghiệp và kỹ năng quản lý kinh doanh
tại hầu hết các xã thông qua khai thác các dự án quốc tế của các tổ chức phi
chính phủ như dự án Nuffic (Hà Lan), dự án Phòng ngừa và giảm nhẹ tác động
hạn hán (Tổ chức Care quốc tế), dự án Nâng cao năng lực, kiến thức cho phụ
nữ kinh doanh và chuẩn bị khởi sự doanh nghiệp (Quỹ Citi), phối hợp Bộ Công
Thương, Công ty Monaco và Hiệp hội Việt Nam - Vương quốc Anh tổ chức mở
lớp tập huấn “Nâng cao kỹ năng quản lý kinh doanh cho các hộ kinh doanh
công nghiệp nông thôn”…

Bên cạnh đó, Hội phụ nữ xã xây dựng, duy trì và phát triển mô hình ứng
dụng tiến bộ KHKT, tham gia học tập kinh nghiệm, trao đổi tại các lớp tập
huấn, hội thảo đầu bờ để chị em có điều kiện cọ sát thực tế, trao đổi, học tập
kinh nghiệm lẫn nhau, áp dụng kiến thức mới vào sản xuất ở hộ gia đình; góp
phần đưa tiến bộ KHKT về nông thôn và lên với vùng cao, nâng cao năng suất
cây trồng ở địa phương, tăng thu nhập cho hộ gia đình, xoá đói giảm nghèo,
điển hình: mô hình trồng lúa lai Nhị ưu 838 ở xã Canh Liên (Vân Canh); trồng
đậu tương thâm canh tại Nhơn Hậu (An Nhơn). Phối hợp với các ngành duy trì
và phát triển các làng nghề truyền thống phát triển như: thêu ren, mây tre, dệt
thổ cẩm, đan bẹ chuối xuất khẩu, sản xuất nước mắm, chiếu cói, thủ công mỹ
nghệ… Đến nay, các làng nghề đã thu hút và giải quyết việc làm cho hàng ngàn
lao động nữ nông thôn.
Hội phụ nữ xã còn chủ động tham gia các chương trình liên tịch với
ngân hàng NN&PTNT, Ngân hàng CSXH, vận động xây dựng quỹ “Ngày tiết
kiệm vì phụ nữ nghèo”; huy động vốn nhàn rỗi trong nhân dân; vốn từ các tổ
chức Quốc tế, dự án giải quyết việc làm để tăng nguồn vốn cho phụ nữ vay.
Những dự án xóa đói, giảm nghèo đã được triển khai thực hiện rất có hiệu quả
như: cho vay tiết kiệm xoay vòng từ nguồn vốn tài trợ của tổ chức Consortium
Mỹ, Quỹ quay vòng vốn vệ sinh môi trường, Quỹ cánh tả Thuỵ Điển, chương
trình cho vay vốn từ quỹ tiết kiệm phụ nữ nghèo. Nhìn chung, các nguồn vốn
này được người vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả không bị thất thoát
vốn và giải quyết việc làm cho lao động nữ nông thôn, tác động tích cực thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển ngành nghề thủ công nghiệp mang
lại hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay, tổng dư nợ các nguồn vốn Hội đang quản lý
hơn 889 tỷ đồng (6/2010) cho 58.284 thành viên trong đó có 16.012 phụ nữ
nghèo vay vốn. Qua vay vốn đầu tư sản xuất phát triển kinh tế gia đình, nhiều
chị đã biết sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, vươn lên thoát nghèo, điển hình
như chị: Đỗ Thị Xuân Thuỷ (Nhơn Hưng – An Nhơn) vay 20 triệu từ nguồn giải
14
quyết việc làm địa phương (2009) cùng nguồn vốn tự có gia đình, mạnh dạn

đầu tư trồng mai; Chị Chu Thị Thảo (Nhơn Phúc – An Nhơn) vay 5 triệu đồng
từ nguồn vốn 120 – giải quyết việc làm TW Hội cùng với nguồn vốn gia đình,
chị đầu tư chăn nuôi 03 bò con, 16 heo lứa, 4 heo nái, mỗi năm thu lãi được 10
– 15 triệu; Chị Tạ Thị Danh (TT Bồng Sơn – Hoài Nhơn) vay 20 triệu đầu tư
xây dựng 2 hồ nuôi hơn 2.000 con cá lóc nước ngọt. Sau 4 tháng, trừ các
khoản chi phí, thu được 50 – 60 triệu đồng. Chị Đinh Thị Día - dân tộc Bana,
hội viên làng L7 Vĩnh Hảo - Vĩnh Thạnh, chị mạnh dạn vay 30 triệu vốn ngân
hàng CSXH đầu tư mô hình trồng cây điều, hoa màu ngắn ngày, chăn nuôi
bò mỗi năm thu nhập trên 100 triệu đồng; chị Trần Thị Liễu phường Nhơn
Phúc (An Nhơn) là một gia đình nghèo, năm 2006, vay vốn 25 triệu đồng từ
NHCSXH, đầu tư trồng nấm, trồng rau. Tổng thu nhập trừ các khoản đầu tư,
chi phí, gia đình chị thu lãi gần 70 triệu đồng/năm; Chị Tô Thị Tám - Hội viên
PN xã Cát Tài, Phù Cát chuyển từ diện đất thiếu nước chị mạnh dạn chuyển
sang trồng ớt, trồng dưa, đậu phộng…trừ chi phí thu lãi 89 triệu đồng/năm.
Chị Trịnh Thị Thơm, Hội viên phụ nữ xã Cát Tường, huyện Phù Cát. Với nguồn
thu nhập duy nhất là từ đồng ruộng với năng suất thấp, gia đình chị Thơm gặp
không ít khó khăn. Thông qua Hội phụ nữ xã, chị tham gia vào dự án Duy trì
và phát triển nghề làm nhang truyền thống. Sau khi được học nghề, chị được
vay 5 triệu đồng từ dự án để mua dụng cụ, nguyên vật liệu sản xuất tại nhà có
năng suất và chất lượng tốt, bán được giá. Sau 1 năm, đã hoàn trả được món
vay và bắt đầu có tích lũy. Tiếp theo, Hội phụ nữ xã đã hỗ trợ chị làm các thủ
tục vay vốn ngân hàng, mua máy móc, xây dựng nhà xưởng. Hiện nay ngoài
việc tạo ra thu nhập hàng năm cho gia đình khoảng 100 triệu đồng, chị Thơm
còn tạo được việc làm thường xuyên cho 40 phụ nữ khác trong xã với mức thu
nhập 1,5 – 2 triệu đồng/tháng, góp phần hạn chế tình trạng phụ nữ phải đi làm
ăn xa những lúc nông nhàn. Chị Nguyễn Thị Nga: Ở thôn Chánh Khoan Đông,
xã Mỹ Lợi (Phù Mỹ) là hộ nghèo, chị vay số vốn 30.000.000 đồng để phát triển
kinh tế, mua 12 con dê sinh sản về nuôi. Gần 02 năm sau chị đã bán được 40
con dê con với số tiền 100.000.000 đồng. trong vòng 03 năm chị đã trả vốn, lãi
cho Ngân hàng còn tích lũy được 70.000.000 đồng và 12 con dê giống. Chị

Đinh Thị ngắc: Chi hội trưởng Chi hội Phụ nữ làng 2, xã Vĩnh Thuận, huyện
Vĩnh Thạnh, là phụ nữ sản xuất, chăn nuôi giỏi thu nhập hàng năm 60 triệu
đồng; chị đã vận động chị em tham gia các lớp tập huấn chuyển giao KHKT và
tổ VV&TK ban đầu có 08 thành viên với số vốn 40 triệu đồng, đến nay đã có
34 thành viên tổng số tiền 546 triệu đồng. Từ nguồn vốn vay chị em đã đầu tư
vào cây điều, cây bạch đàn, chăn nuôi heo, bò lai, có gia đình thu nhập khoảng
15
30 triệu đồng/năm, nhiều hộ đã thoát nghèo như: Chị Đinh Thị Thấy, Đinh Thị
Huơ, Đinh Thị Mắc… Chị Nguyễn Thị Hiệp: Cán bộ Tổ phụ nữ thôn Hội Nhơn,
xã Ân Hữu (Hoài Ân) là hộ nghèo không có điều kiện phát triển kinh tế gia
đình, được Hội LHPN xã giải quyết cho vay vốn ban đầu 17 triệu đồng chị đầu
tư trồng hoa màu và chăn nuôi đem lại hiệu quả kinh tế mỗi năm thu nhập 170
triệu đồng. Ngoài ra, chị còn tạo việc làm thường xuyên cho 10 lao động với
mức lương từ 1- 1,2 triệu đồng/tháng.
Cùng với việc hỗ trợ trực tiếp cho phụ nữ, Hội phụ nữ xã cũng vận động
các chị em giúp đỡ lẫn nhau, cùng phát triển kinh tế và cải thiện cuộc sống.
Phong trào giúp nhau có địa chỉ được thực hiện với những hoạt động cụ thể và
thiết thực như cho vay vốn, cho mượn cây con giống, hướng dẫn kỹ thuật, phổ
biến kinh nghiệm ngay tại cánh đồng, hỗ trợ xây nhà kiên cố để an cư tiến tới
lạc nghiệp. Chỉ tính riêng trong những năm gần đây, đã có 121.562 lượt phụ nữ
nghèo được hỗ trợ bằng lương thực, vật tư, tiền vốn và cây con giống để ổn
định đời sống, phát triển sản xuất kinh doanh.
Song song với việc hỗ trợ phụ nữ tiếp cận các nguồn vốn vay, được sự
chỉ đạo của Hội phụ nữ tỉnh, Hội phụ nữ xã vận động chị em tham gia các hình
thức tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, tuyên truyền nâng cao trình độ
cho phụ nữ trong phát triển kinh tế bằng nhiều hình thức hấp dẫn và thiết thực
như: sinh hoạt CLB lồng ghép tăng thu nhập với chăm sóc sức khỏe sinh sản,
vệ sinh môi trường, KHHGĐ; hội thảo chuyên đề; hội nghị đầu bờ; hội thi phụ
nữ giỏi nghề nông; giao lưu kiến thức; hội nghị biểu dương chia sẻ kinh nghiệm
phụ nữ sản xuất giỏi; CLB nữ cựu chiến binh, thương bình làm kinh tế giỏi; tọa

đàm trao đổi kinh nghiệm; tham quan mô hình sản xuất giỏi
Với những kết quả đạt được trong thời gian qua, bằng nhiều mô hình và
biện pháp thiết thực, có hiệu quả như hỗ trợ vốn, chuyển giao khoa học kỹ
thuật, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế hộ gia đình đã giúp cho 37.744 hộ
thoát nghèo, góp phần thực hiện hiệu quả chương trình mục tiêu giảm nghèo
của tỉnh giai đoạn 2006 – 2010.
2.3. Đánh giá kết quả thực hiện
2.3.1. Thuận lợi
- Có sự quan tâm lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự hỗ trợ tạo điều kiện
của chính quyền các cấp, sự phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành, đoàn thể, đã
tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách, dự án, hỗ trợ trực tiếp cho người
16
nghèo, đảm bảo đúng đối tượng chính sách, thực sự đi vào cuộc sống, góp phần
làm cho đời sống nhân dân nói chung và phụ nữ nói riêng từng bước được cải
thiện.
- Sự tận tụy, nỗ lực với tinh thần trách nhiệm cao của cán bộ các cấp hội
nhất là cơ sở, mặc dù chỉ có một chuyên trách, một bán chuyên trách và một chi
hội trưởng ở mỗi thôn nhưng các chị rất tận tụy, nắm chắc tình hình đời sống
của các hộ gia đình nên nhiều hoạt động giảm nghèo được triển khai đúng đối
tượng mang lại hiệu quả thiết thực. Bên cạnh đó, là ý thức công dân, ý thức
trách nhiệm đối với gia đình của chị em phụ nữ.
- Trong chỉ đạo, Hội phụ nữ các xã đặc biệt quan tâm đến công tác hỗ trợ
phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, xoá đói giảm nghèo; coi trọng công tác kiểm
tra, giám sát, kịp thời phát hiện những tồn tại chấn chỉnh hỗ trợ giúp chị em
thực hiện tốt công việc.
- Hội phụ nữ các xã phối hợp với các ngành chức năng thường xuyên
thay đổi nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng các mô hình phụ nữ làm
kinh tế phù hợp với điều kiện, đặc trưng của địa phương; Tổ chức, đào tạo nâng
cao năng lực cho đội ngũ cán bộ Hội làm công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh
tế gia đình về kỹ năng quản lý, điều hành hoạt động tín dụng - tiết kiệm.

2.3.2. Tồn tại
- Phần lớn cán bộ Hội ở cơ sở trình độ năng lực còn hạn chế, chưa có
kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động tín dụng - tiết kiệm. Một số nơi chưa có
kế hoạch triển khai cụ thể, hình thức hoạt động còn chung chung. Bên cạnh đó
lực lượng lại mỏng, chế độ lương, phụ cấp lại thấp đã làm hạn chế công tác của
Hội nói chung và công tác vận động giúp đỡ chị em phụ nữ tiếp cận các nguồn
vốn để vay phát triển kinh tế gia đình nói riêng và theo đó cũng làm hạn chế đối
với công tác xây dựng tổ chức hội, phát triển hội viên- có lẽ đây là hạn chế lớn
nhất trong hoạt động phong trào phụ nữ ở các xã.
- Phần lớn hộ nghèo là những chị em thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm
làm ăn, một số chị em còn tư tưởng ỷ lại trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà
nước. Quen với phương thức canh tác cũ, chưa tiếp cận và mạnh dạn ứng dụng
tiến bộ KHKT vào sản xuất.
- Tỷ lệ hộ nghèo ở một số nơi vẫn đang ở mức cao, đặc biệt các xã miền
núi. Một bộ phận hộ thoát nghèo còn có nguy cơ tái nghèo cao vì phải sống
trong những vùng không thuận lợi về điều kiện tự nhiên, thời tiết, thiếu việc
làm và việc làm không ổn định thu nhập thấp.
17
- Việc tiếp cận các nguồn vốn vay còn hạn chế nhất định, một số chị em
khó tiếp cận các nguồn vốn, nhất là những nguồn vốn nước ngoài, cả nguồn
vốn từ các quỹ xóa đói giảm nghèo, nguồn vốn từ ngân hàng chính sách xã hội,
ngân hàng nông nghiệp. Một số thủ tục vay còn nhiêu khê, yêu cầu thế chấp tài
sản, trong khi đây là những hộ phụ nữ nghèo tài sản không đáng kể.
III. Mục tiêu, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao vai trò, hoạt động của Hội phụ nữ xã trong phát triển kinh tế hộ ở tỉnh
Bình Định hiện nay
3.1. Mục tiêu, phương hướng
- Tiếp tục vận động cán bộ hội viên phụ nữ tham gia tích cực chương
trình xoá đói giảm nghèo, thực hiện kế hoạch chuyển dịch kinh tế, chuyển đổi
giống cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề thương mại - dịch vụ - du lịch;

giúp phụ nữ nghèo có địa chỉ, xây dựng nhà tình thương cho phụ nữ.
- Tiếp tục phối hợp với các ngành liên quan mở tập huấn chuyển giao tiến
bộ KHKT vào chăn nuôi, trồng trọt, chế biến thuỷ hải sản… nhằm nâng cao
trình độ, năng lực cho cán bộ và hội viên phụ nữ, đặc biệt phụ nữ nghèo. Tranh
thủ các nguồn tài trợ để tổ chức các lớp đào tạo doanh nghiệp nữ, tập huấn cán
bộ Hội về phát triển doanh nghiệp.
- Gắn công tác phát triển kinh tế gia đình của chị em phụ nữ với công tác
xây dựng, củng cố tổ chức và phát triển hội viên.
- Đẩy mạnh phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, tăng
thu nhập ổn định cuộc sống. Tổ chức kiểm tra giám sát việc triển khai thực hiện
chương trình, kịp thời chấn chỉnh những vướng mắc và sai sót.
3.2. Giải pháp
3.2.1.Tăng cường tuyên truyền, vận động chị em phụ nữ tích cực
tham gia công tác xây dựng tổ chức Hội gắn với các hoạt động lao động
sản xuất, phát triển kinh tế.
Hỗ trợ hội viên phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm của Hội Phụ nữ các cấp trong đó cấp hội cơ sở
có vai trò đặc biệt quan trọng. Công tác này không chỉ giúp chị em phụ nữ phát
triển kinh tế gia đình, đảm bảo thu nhập mà còn góp phần xóa đói, giảm nghèo
ở địa phương. Những năm qua đã có nhiều phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn,
18
vươn lên thoát nghèo, tự chủ được về kinh tế nhờ vào hiệu quả của phong trào
này.
Tổng kết phong trào “phụ nữ thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi”, Hội
LHPN tỉnh Bình Định nhận định kết quả hoạt động của các cấp Hội và đóng
góp của phụ nữ cơ sở đã góp phần đáng kể vào việc thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế của tỉnh, giảm khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và
nông thôn, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương và
nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội, Trong quá
trình thực hiện các hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, Hội cũng ngày

càng thu hút được đông đảo phụ nữ tham gia các hoạt động của Hội, từ đó
lồng ghép nâng cao kiến thức và kỹ năng mọi mặt cho phụ nữ, thực hiện nhiệm
vụ chính trị của Hội. Cán bộ Hội cũng ngày càng được nâng cao trình độ và
năng lực trong công tác quản lý, điều hành các chương trình, hoạt động tín
dụng và hỗ trợ phát triển kinh doanh cho phụ nữ. Với những kinh nghiệm bước
đầu đã đạt được, trong thời gian tới, Hội phụ nữ xã cần tập trung đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, vận động, kết hợp kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu
quả các hoạt động tín dụng tiết kiệm, đồng thời nhân rộng mô hình sản xuất
kinh doanh hiệu quả, đặc biệt ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc. Bên cạnh đó Hội phụ nữ xã phải không ngừng tăng cường công tác
phát triển hội viên xây dựng tổ chức hội, tạo sự gắn kết hữu cơ giữa các hội
viên với tổ chức hội. Có thể nhận thấy rằng bản thân Hội rất khó duy trì các
hoạt động nếu không tạo điều kiện thiết thực giúp các hội viên vươn lên trong
cuộc sống, đảm bảo cuộc sống gia đình.
3.2.2. Hội phụ nữ xã cần tranh thủ mọi nguồn vốn, giúp cho nhiều
hội viên được tiếp cận các nguồn vốn phát triển kinh tế gia đình
Cần tăng cường hình thức tín dụng qua các chương trình dự án xoá đói
giảm nghèo. Tuy nhiên đối với hình thức tín dụng này cần có sự thống nhất
quản lý chung trên phạm vi tỉnh, có sự đánh giá tổng kết để rút kinh nghiệm
nhất là kinh nghiệm về giải quyết mối quan hệ giữa cho vay ưu đãi với hướng
dẫn sản xuất và tiêu thụ cho các hộ gia đình nhằm đẩy nhanh quá trình xoá đói
giảm nghèo. Đối với các hộ sản xuất hàng hoá cần tăng cường vốn vay và thời
gian cho vay (chủ yếu là vốn trung và dài hạn) để các hộ có điều kiện đầu tư
theo chiều sâu. Trong quá trình sử dụng vốn của các hộ gia đình, cần tăng
cường vai trò giúp đỡ hướng dẫn của các tổ chức tín dụng, các tổ chức khuyến
nông, các hộ sản xuất giỏi, các tổ chức kinh tế xã hội khác.
19
Đối với các hộ phụ nữ nghèo muốn phát triển sản xuất nông lâm nghiệp
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế như hiện nay thì cần phải có vốn do
đó để tạo nên các nguồn vốn, ngoài việc đầu tư của nhà nước, tỉnh, địa phương

cần huy động vốn trong dân, các nguồn vốn của dự án, của các tổ chức phi
chính phủ, nguồn vốn vay nước ngoài, đặc biệt là vốn của các tổ chức kinh tế
cá nhân trong nước, như vậy tạo nên một nguồn vốn đa dạng phong phú. Ngoài
các biện pháp huy động vốn trên thì cần phát triển mạnh hơn các kênh chuyển
vốn nhất là quỹ tín dụng nhân dân và các tổ chức hiệp hội các ngành khác.
Bên cạnh việc tạo nên các nguồn vốn vay thì cơ chế vay vốn cũng rất
quan trọng với nông nghiệp và nông thôn. Trong những năm qua, Đảng và Nhà
nước ta đã có cơ chế kinh tế mới, cơ chế mở cửa và giao quyền chủ động cho
hộ sản xuất. Song thực tế là hộ sản xuất nghèo không có đủ tài sản để thế chấp
khi đi vay, mặt khác do thiếu vốn, nghèo nàn khi gặp những rủi ro trong sản
xuất thường không trả nợ kịp. Vì vậy thực hiện cơ chế cho vay thích hợp đối
với các hộ nghèo cần tạo điều kiện cho các họ được tiếp cận nhiều nguồn vốn
khác nhau để có sự lựa chọn khả thi và như vậy các hình thức tín chấp, tiến tới
cho vay không cần thế chấp đối với các hộ sản xuất có năng lực sản xuất. Mặt
khác mức vốn vay đối với những hộ có năng lực sản xuất nhất thiết phải đáp
ứng nhu cầu của họ. Đối với hình thức thế chấp thì mức tối đa là 10 triệu đồng,
trên 10 triệu đồng thì áp dụng thế chấp quyền sử dụng ruộng đất hoặc tài sản có
giá trị tương đương … Thời hạn vay đối với loại hình này không dưới 5 năm
Mức lãi xuất vay phải được quy định cụ thể rõ ràng qua các năm nhưng mức
cao nhất vẫn phải đảm bảo cho người vay tái sản xuất mở rộng.
Như vậy lúc này Hội phụ nữ xã trở nên có ý nghĩa quan trọng khi là tổ
chức có đầy đủ tính pháp lý đứng ra làm vai trò trung gian, tín chấp cho các hội
viên của mình có nhu cầu về vốn vay vốn, vừa đảm bảo ý nghĩa chính trị lại
đúng chức năng của tổ chức Hội đoàn thể.
3.2.3. Hội phụ nữ xã không ngừng đẩy mạnh vận động các hội viên
đa dạng hóa các mô hình sản xuất, kinh doanh, góp phần cùng địa phương
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế gia đình
Trong các năm 2006-2010 hội phụ nữ xã ở Bình định đã giúp cho nhiều
gia đình chị em phụ nữ thoát nghèo, mặt khác hội cũng đã đầu tư nâng cao chất
lượng nhiều mô hình, câu lạc bộ, tổ nhóm làm kinh tế với hàng nghìn thành

viên và hàng chục mô hình mới được thành lập trong đó có nhiều mô hình hoạt
20
động hiệu quả. Chính vì vậy hội phụ nữ xã phải không ngừng động viên các
hội viên của mình tích cực tìm tòi các mô hình xản xuất, kinh doanh nhằm đa
dạng hóa các mô hình, tập trung vào những mô hình sản xuất chăn nuôi có hiệu
quả
3.2.4. Hội phụ nữ xã thường xuyên phối hợp với các ngành, tổ chức,
đoàn thể mở các lớp chuyển giao khoa học kỹ thuật nâng cao kiến thức cho
các hội viên
Đây là một giải pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc khai thác
hiệu quả nguồn năng lực sản xuất của hộ sản xuất nhằm góp phần đẩy mạnh sự
phát triển kinh tế gia đình. Qua điều tra cho thấy việc đầu tư nâng cao kỹ thuật
sản xuất của các hộ gia đình hiện nay chưa được quan tâm thích đáng. Các hộ
mới tập trung vào việc làm sao để đảm bảo đủ yêu cầu chi tiêu trước mắt, chưa
chú ý đến nâng cao trình độ của người lao động (các thành viên trong gia đình).
Thực tế cho thấy ở những hộ mà chủ hộ có trình độ văn hoá, kỹ thuật cao
thường có kết quả sản xuất khá và mưc thu nhập của hộ cao. Do đó một mặt các
hộ phải có nhận thức đúng đắn về vấn đề này, mặt khác tổ chức hội phụ nữ cần
phối hợp với chính quyền cơ sở có biện pháp để giúp đỡ các thành viên trong
gia đình các hộ sản xuất nâng cao trình độ hiểu biết về kinh tế thị trường, nâng
cao năng suất để nâng cao năng lực lao động.
Hội phụ nữ xã cần phối hợp với các cơ quan chuyên môn như trung tâm
khuyến nông của Huyện, trung tâm dạy nghề, hội cựu chiến binh, đoàn thanh
niên, hội nông dân… tổ chức được các lớp tập huấn chuyển giao KHKT cho
cán bộ, hội viên phụ nữ. Phối hợp với Ngân hàng CSXH, NHNN và các tổ chức
tài chính khác tổ chức các lớp tập huấn kiến thức quản lý và sử dụng vốn vay,
nghiệp vụ công tác kiểm tra cho cán bộ hội, qua đó thu hút cán bộ, hội viên
tham gia, qua đó góp phần nâng cao trình độ, tay nghề, quản lý có hiệu quả
nguồn vốn vay.
3.2.5. Tăng cường sự hỗ trợ của Hội cấp trên, cấp ủy, chính quyền

cùng cấp trong tạo điều kiện cho phát triển kinh tế gia đình của chị em
phụ nữ
Để phát huy tốt vai trò của mình, Hội Phụ nữ các xã cần tranh thủ sự lãnh
đạo của cấp ủy Đảng, thường xuyên tham mưu đề xuất với cấp ủy thực hiện tốt
Nghị quyết số 11-NQ/ TW của Bộ chính trị (khóa X) về công tác phụ nữ thời
kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH ”. Định kỳ đăng ký làm việc với cấp ủy cùng cấp để
21
báo cáo tình hình hoạt động Hội và phong trào phụ nữ ở địa phương, xin ý kiến
chỉ đạo về một số chương trình công tác trọng tâm của Hội trong từng thời gian
cụ thể. Tham mưu cho cấp ủy chỉ đạo chính quyền và các ngành phối hợp và
tạo điều kiện cho Hội phụ nữ hoạt động.
Thường xuyên chủ động đề xuất với chính quyền thực hiện các nội dung
của Nghị định số 19 của Chính phủ, “về quy định trách nhiệm của cơ quan hành
chính nhà nước các cấp trong việc đảm bảo cho các cấp Hội LHPN Việt nam
tham gia quản lý nhà nước”.
Trong thời kỳ hiện nay, cần tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức Hội cấp
trên, của cấp ủy đảng, sự hỗ trợ của chính quyền cơ sở trong công tác xóa đói
giảm nghèo là hết sức có ý nghĩa, qua đó Hội phụ nữ cơ sở sẽ có thêm động
lực, chỗ dựa để phát huy ưu thế của mình trong công tác vận động chị em phụ
nữ phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao đời sống.
3.2.6. Hội phụ nữ xã cần chủ động, tích cực tham gia thực hiện tốt
chủ trương xây dựng nông thôn mới của Đảng, Nhà nước
Thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2010-2020, năm 2010, tỉnh Bình định đã chọn 4 xã: Nhơn Lộc (huyện An
Nhơn); Bình Thành (huyện Tây Sơn); Hoài Hương (huyện Hoài Nhơn); xã Ân
thạnh (Hoài ân) làm xã điểm xây dựng nông thôn mới. Đồng thời, tỉnh đặt ra
mục tiêu đến năm 2015, có 26 xã (chiếm 20% tổng số xã) đạt tiêu chí về nông
thôn mới .
Xây dựng nông thôn mới là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước và
là một việc làm có ý nghĩa thiết thực. Không thể có một nước công nghiệp theo

hướng hiện đại nếu nông nghiệp, nông thôn lạc hậu, nông dân có đời sống văn
hóa và vật chất thấp. Trong quá trình triển khai xây dựng nông thôn mới, phải
xác định nông dân là chủ thể và phụ nữ các xã có vị trí quan trọng trong quá
trình đó- họ phải được tham gia đóng góp những vấn đề liên quan đến xây
dựng, phát triển nông thôn. Bởi hơn ai hết, họ là người được hưởng thành quả,
có nhiệm vụ giữ vững, bảo vệ thành quả đó. Chính vì vậy, trước hết Hội phụ nữ
xã cần tuyên truyền sâu rộng trong chị em phụ nữ để họ thấy được ý nghĩa quan
trọng đó, thực sự tham gia tích cực vào chủ trương lớn này, mà trước hết là từ
ngay việc phát triển kinh tế của chính gia đình mình.
3.2.7. Hội phụ nữ xã cần phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quần
chúng trong công tác xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế gia đình.
22
Hội phụ nữ cần phát huy vai trò của bản thân đồng thời tranh thủ sự giúp
đỡ của các hội đoàn thể, các tổ chức kinh tế, hợp tác, tổ chức thực hiện tốt
phong trào thi đua yêu nước, thi đua lao động sản xuất, kinh doanh giỏi, phong
trào xây dựng gia đình văn hoá thôn bản, tổ nhân dân văn hoá, đoàn kết giúp
nhau xoá đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng, tích cực tham gia cuộc vận
động: “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” “Đền ơn đáp
nghĩa” “Uống nước nhớ nguồn “…Thông qua các tổ chức quần chúng để vay
vốn sản xuất, đồng thời phải tuyên truyền vận động đến chị em về ý nghĩa mục
đích của các dự án cho vay vốn để các hội viên hiểu được giá trị của vốn vay
sản xuất và đề ra phương hướng phát triển kinh tế hộ gia đình góp phần thực
hiện xoá đói giảm nghèo .
Phối hợp với Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh thường
xuyên tăng cường công tác tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật và của Nhà nước, động viên hội viên tích cực sản xuất, nâng cao đời
sống xoá đói giảm nghèo, phải có biện pháp giúp đỡ các hộ đói nghèo vươn lên.
Qua các lớp tập huấn, xây dựng mô hình trình diễn, chuyển giao khoa học kỹ
thuật trồng cây và chăn nuôi,… Hỗ trợ giúp đỡ hội viên nghèo có vốn đầu tư
cho sản xuất, biết lập phương án phát triển kinh tế gia đình và biết tiết kiệm,

tăng cường kiểm tra những hộ đã vay vốn để biết được người nông dân sử dụng
đúng mục đích và có hiệu quả chưa, để góp phần vào tăng năng xuất cây trồng,
vật nuôi, tăng mức sống của hộ gia đình phụ nữ nói riêng và các hộ gia đình
trên cùng địa bàn nói chung. Các tổ chức quần chúng có vai trò rất quan trọng
trong xoá đói giảm nghèo nhưng cần phải biết kết hợp giữa các tổ chức đó với
nhau và có quan hệ với Ngân hàng phục vụ người nghèo, Ngân hàng NN và
phải biết kết hợp chặt chẽ giữa các tổ chức này để qua đó giúp các hộ phụ nữ
nghèo làm các thủ tục cần thiết, cùng giải quyết các vướng mắc, làm thủ tục
vay nhanh gọn để tạo điều kiện cho các hộ gia đình vay kịp thời,.
Có phát huy tất cả những vai trò trên thì mới có thể thúc đẩy các hộ phụ
nữ nghèo tự lực vươn lên, phát triển kinh tế hộ gia đình, cải thiện đời sống bằng
chính sức lao động của mình, mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, góp phần tăng năng suất sản lượng
lương thực thực hiện tốt các mục tiêu đề ra góp phần thực hiện xoá đói giảm
nghèo.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
23
Từ thực tế đó cho thấy vai trò của hội phụ nữ các cấp rất quan trọng nhất
là hội phụ nữ cơ sở, vì đây là nơi gần gũi với chị em nhất, là nơi đứng ra thực
hiện tín chấp vay vốn cho chị em, cũng là nơi phát động nhiều phong trào của
phụ nữ đạt hiệu quả cao. Khi trao đổi với nhiều chị em, hộ gia đình có vay vốn
đều được khẳng định về sự quan tâm của hội phụ nữ cơ sở… từ ý nghĩa đó đã
tạo ra cơ sở để hội phụ nữ thực hiện tốt nhiệm vụ, chức năng của mình là vận
động tập hợp, phụ nữ vào tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng,
Nhà nước, của địa phương, đơn vị. Được biết có xã đã tập hợp được thường
xuyên 50- 60%, một tỷ lệ không nhỏ so với các đoàn thể khác.
Đánh giá của đảng ủy, ủy ban nhân dân các xã cũng khẳng định những
đóng góp quan trọng của Hội phụ nữ xã đối với sự phát triển kinh tế xã hội nói
chung, và phát triển kinh tế hộ gia đình nói riêng ở từng xã nói riêng.

Đạt được những kết quả như trên,các cấp Hội đã bám sát sự chỉ đạo của
Hội cấp trên và nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Cụ thể hoá các hoạt
động trong chỉ đạo và thực hiện có trọng tâm trọng điểm, sâu sát cơ sở; việc
xây dựng kế hoạch các hoạt động ngay từ đầu. Phương thức tổ chức, nội dung
được đổi mới, xây dựng các mô hình tập hợp hội viên phù hợp tình hình địa
phương, đơn vị đáp ứng nhu cầu tham gia sinh hoạt, thu hút đông đảo hội viên
tham gia gắn bó với tổ chức Hội; Hội LHPN các cấp đã năng động, sáng tạo,
tranh thủ sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, sự hỗ trợ,
tạo điều kiện và sự phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành đoàn thể trong quá
trình tổ chức triển khai thực hiện.
Bên cạnh đó, Hội phụ nữ cơ sở đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; phát
huy tốt vai trò chức năng đại diện, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong việc chủ
động tham mưu, đề xuất chính sách liên quan đến cán bộ nữ; Tổ chức các hoạt
động luôn hướng về cơ sở, quan tâm vùng sâu, vùng xa, miền núi, ven biển;
động viên cán bộ, hội viên nỗ lực vượt qua khó khăn, tích cực tham gia công
tác Hội. Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, xây dựng gia
đình hạnh phúc góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương bảo đảm an
sinh xã hội.
Nhìn chung trong những năm qua, nhất là từ khi đất nước bước vào thời
kỳ CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn, Hội phụ nữ cơ sở nói chung và Hội phụ
nữ cơ sở tỉnh Bình Định nói riêng đã phát huy được vai trò của mình trong việc
24
phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn, khẳng định sự bình đẳng của phụ nữ
trong lĩnh vực kinh tế ngày càng được nâng cao. Trong đó kết quả việc phát
triển kinh tế hộ gia đình đem lại có nhiều khởi sắc, đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân nói chung, hội viên phụ nữ nói riêng được cải thiện, nhiều hộ làm
ăn kinh tế khá giả, các hộ nghèo thì vươn lên thoát nghèo, tình hình an ninh
chính trị- trật tự an toàn xã hội được giữ vững ổn định, con cái được học hành
đến nơi, đến chốn, nạn bạo hành gia đình giảm… tạo được niềm tin của nhân

dân đối với Hội và tham gia công tác Hội ngày càng đông, góp phần thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Bình Định ngày thêm vững mạnh.
II. Kiến nghị
Trong thời gian tới, mục tiêu của Hội LHPN tỉnh hướng tới tiếp tục đẩy
mạnh các hoạt động hỗ trợ phụ nữ nâng cao trình độ, năng lực; phát triển kinh
tế xoá đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho phụ nữ; Khơi
dậy tiềm năng, sức sáng tạo của chị em góp phần vào sự phát triển chung của
tỉnh. Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ, về phía Hội là thành viên Ban chỉ
đạo giảm nghèo của tỉnh kiến nghị một số vấn đề như sau:
- Tăng cường đào tạo nghề, chuyển giao các tiến bộ, KHKT nâng cao kỹ
năng nghề nghiệp cho lao động nữ, nhất là phụ nữ vùng sâu, vùng xa, phụ nữ
mất việc làm, việc làm không ổn định để chị em tự tìm việc làm, tự tạo việc làm
tại địa phương.
- Hỗ trợ thêm các nguồn lực cho các hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển
kinh tế vì tỷ lệ phụ nữ nghèo làm chủ hộ còn cao. Hội phụ nữ được tham gia
trong xây dựng các dự án xoá đói, giảm nghèo của tỉnh.
- Cần có chính sách ưu đãi về lãi suất cho vay vốn với hộ cận nghèo, giúp
họ thoát nghèo bền vững hơn.
Tài liệu tham khảo:
-Văn kiện ĐHĐB toàn quốc của Đảng IX, X, XI;
- Nghị quyết về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2001- 2010;
25

×