Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Tìm hiểu qui trình nuôi thương phẩm tôm he chân trắng Penaeus vannamei (Boone, 1931) tại Kiên Lương Kiên Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (679.45 KB, 52 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là quốc gia có thế mạnh rất lớn về ngành thủy sản.Với bờ
biển dài 3260 km, kéo dài từ Bắc đến Nam, nằm trong vùng biển Thái Bình
Dương được thiên nhiên ưu đãi , về số lượng và thành phần loài sinh vật ở
biển rất phong phú và đa dạng.
Với lợi thế đó ngành thủy sản Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm tuy
nhiên sự phát triển của nó vẫn chưa xứng đáng với tiềm năng vốn có, diện
tích nuôi còn ít, các đối tượng nuôi còn hạn chế, chúng ta chỉ tập trung nuôi
những đối tượng quen thuộc và có giá trị kinh tế như tôm sú và một số đối
tượng khác…
Vì vậy những năm gần đây sản lượng của ngành nuôi nuôi giáp xác
của nước ta giảm, chúng ta chỉ có đầu tư nuôi tôm sú mà hiện nay nghề
nuôi tôm sú đang rất bấp bênh do dịch bệnh đốm trắng xảy ra tràn lan và
một số bệnh khác.
Để đảm bảo cho ngành thủy sản phát triển, có đủ sản lượng để cung
cấp nhu cầu cho người tiêu dùng, ngành thủy sản cần có những biện pháp
để giải quyết vấn đề này. Gần đây Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông
Thôn bắt đầu cho phép nhập nội các đối tượng mới nhằm đa dạng hóa đối
tượng nuôi, cung ứng đủ sản phẩm cho thị trường.Và tôm he chân trắng
một loài thủy sản mới đã được nhập nội vào nước ta từ năm 2001 để nuôi
thử nghiệm.Tôm he chân trắng có ưu điểm lớn nhanh, chu kỳ nuôi ngắn phù
hợp với điều kiện khí hậu Việt Nam.Vì vậy đối tượng này đang là một trong
những hướng đi mới cho nghề nuôi tôm tại Việt Nam.
Được sự cho phép của Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn
một số cơ quan địa phương, công ty ở nước ta đã nhập nội đối tượng này để
nuôi thử nghiệm và bước đầu đạt nhiều khả quan.Vì không phải là loài bản
địa mà còn là đối tượng mới ở nước ta nên tôm he chân trắng vẫn chưa
được phổ biến và chưa được biết nhiều về qui trình kỹ thuật nuôi. Do đó
việc xây dựng một qui trình nuôi hoàn chỉnh đối tượng này ở nước ta là rất
cần thiết. Chính vì thế tôi được bộ môn Kỹ Thuật Nuôi Hải Sản, Khoa Nuôi
Trồng Thủy Sản, Trường Đại Học Nha Trang giao cho thực hiện đề tài: “


1
Tìm hiểu qui trình nuôi thương phẩm tôm he chân trắng Penaeus
vannamei (Boone, 1931) tại Kiên Lương- Kiên Giang”.
Các nội dung của đề tài bao gồm:
- Hiện trạng nuôi tôm he chân trắng tại Kiên Lương – Kiên Giang
- Kỹ thuật nuôi tôm he chân trắng
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của vụ nuôi
Qua việc thực hiện đề tài này tôi hy vọng mở rộng thêm kiến thức
của bản thân về nghề nghiệp, học hỏi kinh nghiệm và phương pháp nghiên
cứu khoa học.
Do thời gian thực tập có hạn, cơ sở vật chất còn thiếu thốn và trình
độ bản thân còn hạn chế nên không tránh khỏi sai sót. Rất mong được sự
chỉ bảo của quý thầy cô giáo và sự đóng góp ý kiến của bạn bè để luận văn
của em được hoàn chỉnh hơn.
Qua đề tài này em xin tỏ lòng biết ơn đến thầy Nguyễn Đình Trung
đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình thực tập và đồng cảm ơn đến các
thầy cô giáo trong khoa Nuôi Trồng Thủy Sản – Trường Đại Học Nha
Trang đã truyền đạt kiến thức để em hoàn thành đề tài này.

Kiên Giang, tháng 8 năm 2009
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Thanh Thương


2
PHẦN 1: TỔNG LUẬN
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Hệ thống phân loại tôm he chân trắng
Nghành chân khớp: Arthropoda
Lớp giáp xác: Crustacea

Bộ mười chân: Decapoda
Bộ phụ bơi lội: Natantia
Họ tôm he: Pennaeidae
Giống: Pennaeus
Loài: Pennaeus Vannamei (Boone, 1913).
Tên tiếng Anh: White leg shrimp.
Tên tiếng Việt: Tôm he chân trắng.
2. Đặc điểm sinh học của tôm he chân trắng.
2.1. Đặc điểm phân bố.
Tôm he chân trắng có nguồn gốc ở ven biển Tây Thái Bình Dương
thuộc châu Mỹ Latinh,từ phía Nam Peru đến phía Bắc Mêhicô. Ở những
vùng biển này quanh năm nhiệt độ trên 20
o
C. Chúng phân bố nhiều ở vùng
biển gần Equado, tại vùng biển Esmieraldes quanh năm đều bắt được tôm
cái mang trứng.
2.2. Đặc điểm hình thái.
Nhìn bên ngoài tôm he chân trắng rất giống với tôm he Trung Quốc
(Penaeus chinensis) và tôm bạc (Penaeus merguiensis). Tôm có màu trắng
đục, trên thân không có đốm vằn, chân bò có màu trắng ngà nên gọi là tôm
chân trắng, chân bơi có màu vàng, các vành chân đuôi có màu đỏ nhạt và
xanh. Vỏ tôm mỏng có thể nhìn thấy đường ruột rất dễ. Râu tôm có màu đỏ
và dài gấp rưỡi lần chiều dài thân. Tôm cái có Thelycum dạng hở. Cá thể
lớn nhất có thế dài tới 23 cm.
3
2.3. Tập tính sống
Trong tự nhiên tôm sống nơi đáy cát, độ sâu từ 0 – 72m, nhiệt độ
nước ổn định từ 25 – 32
o
C, độ mặn từ 28 – 34‰, pH từ 7,7 – 8,3. Tôm

trưởng thành thích sống ven biển, tôm con ưa sống vùng cửa sông nơi có
nguồn dinh dưỡng dồi dào. Ban ngày tôm vùi mình trong bùn, ban đêm mới
đi kiếm ăn, tôm lột xác về ban đêm.
Nếu nuôi trong điều kiện thí nghiệm thì ít thấy tôm ăn thịt lẫn nhau,
nhờ tập tính này mà tỷ lệ hao hụt giảm rất nhiều so với tôm sú.
2.4. Khả năng thích nghi với môi trường sống.
2.4.1. Nhiệt độ
Tôm sống trong phạm vi nhiệt độ nước từ 9 – 41
o
C. Tuy nhiên nhiệt
độ thích hợp cho tôm phát triển là 25 – 35
o
C, song chúng vẫn thích nghi
được khi nhiệt độ thay đổi lớn. Theo J.Wyban và CTV 1995, đối với tôm cỡ
<10g, nhiệt độ thích hợp nhất cho sự phát triển là ≥30
o
C. Trong khi đó cỡ
tôm >15g thì không có sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng ở nhiệt độ 27
o
C
và 30
o
C. Do đó các trại nuôi tôm nên lựa chọn mùa vụ thích hợp, nuôi tôm
nhỏ vào tháng có nhiệt độ cao, nuôi tôm lớn vào tháng có nhiệt độ thấp hơn.
4
Hình 1.1: Đặc điểm hình thái của tôm he chân
trắng(P.vannamei)
2.4.2.Độ mặn.
Tôm he chân trắng thích nghi với độ muối rộng từ 0 – 50‰, chúng
có thể sinh trưởng được cả trong nước lợ và nước mặn, khoảng độ mặn

thích hợp cho tôm phát triển là 10 – 40‰.
2.4.3.Oxy hòa tan.
Ngưỡng oxy thấp nhất là 1,2mg/l, tôm càng lớn thì ngưỡng oxy càng
cao dần (với cỡ tôm 2 – 4cm là 2mg/l, cỡ tôm dưới 2cm
là 1,05mg/l),ngưỡng oxy thích hợp 4mg/l.
2.4.4. Tính ăn
Tôm he chân trắng là loài ăn tạp, giống như những loài tôm he khác,
chúng cũng cần một tỷ lệ thích hợp trong thành phần dinh dưỡng
như Protid, Lipid, Glucid, Vitamin, muối khoáng… Dinh dưỡng thiếu hoặc
không cân đối đều ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và sức khỏe của tôm.
Khả năng chuyển hóa thức ăn của tôm he chân trắng rất cao, chúng
đòi hỏi thức ăn có hàm lượng protein cao, 35% Protein được coi là thích
hợp. Tuy nhiên, vẫn thấp hơn tôm sú (40% protein), tôm he Nhật Bản (60%
protein).
Trong ao nuôi, tôm có thể ăn cả những hợp chất hữu cơ, lablab,
các sinh vật đáy, thức ăn công nghiệp, thức ăn tươi sống… nên ruột tôm
luôn có thức ăn. Chúng bắt mồi linh hoạt, khả năng bắt mồi tương đương
nhau cho nên tôm ít bị phân đàn.
2.4.5. Sinh trưởng và tuổi thọ
Tôm he chân trắng có tốc độ sinh trưởng nhanh, đặc biệt ở 2 tháng
nuôi đầu tiên, mỗi tuần có thể tăng 3g với mật độ nuôi 100 con/m
2
tại
Hawaii. Do đó trong quá trình nuôi cần tăng cường lượng thức ăn cho tôm
ngay từ đầu để tận dụng hết khả năng lớn nhanh của tôm, rút ngắn thời gian
nuôi. Sau đó, tôm bắt đầu lớn chậm lại, khoảng 1g/tuần. Tôm cái thường
lớn nhanh hơn tôm đực. Theo viện Hải Dương Học tại Hawaii, trong điều
5
kiện nuôi thương phẩm với mật độ 100con/m
2

sau 60 ngày nuôi có thể đạt
23g/con.
Tuổi thọ trung bình của tôm he chân trắng ít nhất là 32 tháng tuổi.
2.4.6 Đặc điểm sinh sản.
Khu vực có tôm phân bố tự nhiên, quanh năm đều bắt được tôm cái
mang trứng. Mùa vụ sinh sản của tôm he chân trắng có thể chênh lệch theo
từng vùng, tùy vĩ độ như ở ven biển phía bắc Equado tôm đẻ từ tháng 3 đến
tháng 8 nhưng đẻ rộ vào tháng 4 – 5. Ở biển Pêru mùa tôm đẻ chủ yếu từ
tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Tôm he chân trắng có túi tinh hở. Tôm đực và tôm cái thường tìm
nhau giao vỹ sau khi hoàng hôn, tôm đực phóng các chùm tinh từ cơ quan
giao cấu, cho dính vào đôi chân bò thứ 3 đến thứ 5 của con cái. Trong điều
kiện nuôi , tỷ lệ giao vỹ có kết quả rất thấp.
Tôm cái có khối lượng 30 – 45g là có thể tham gia sinh sản. Sức sinh
sản thực tế của tôm he chân trắng từ 10 – 25 vạn trứng/tôm mẹ. Trứng có
đường kính trung bình 0.22mm. Sau khi thụ tinh 14 – 16h thì trứng nở ra ấu
trùng Nauplius. Quá trình biến thái của ấu trùng trải qua 6 giai đoạn
Nauplius, 3 giai đoạn Zoaes, 3 giai đoạn Mysis, rồi đến post-larvae sống ở
cửa sông có độ mặn thấp. Sau vài tháng, tôm con trưởng thành bơi ra biển
giao vỹ và tiến hành sinh sản. Trong tự nhiên, tôm mẹ đẻ trứng ở độ sâu
70m nước, độ mặn 35‰, nhiệt độ nước 26 – 28
o
C.
Đặc biệt khác với tôm sú , tôm he chân trắng có thể thành thục ngay
trong ao nuôi thương phẩm và người ta đã khép kín vòng đời của nó.
Nhờ đó, có thể chủ động tiến hành chọn giống để tạo ra những dòng có ưu
thế vượt trội. Đồng thời người ta có thể đảm bảo sản xuất được con giống
không mang mầm bệnh nguy hiểm.
II. TÌNH HÌNH VÀ KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN NGHỀ NUÔI TÔM
HE CHÂN TRẮNG

1.Tình hình nuôi tôm he chân trắng trên thế giới
6
1.1. Tình hình nuôi tôm he chân trắng ở Châu Mỹ
Tôm he chân trắng là một trong ba loài tôm được nuôi phổ biến nhất
trên thế giới. Sản lượng tôm he chân trắng chỉ đứng sau sản lượng tôm sú
và là đối tượng nuôi chính trong các loài tôm he ở Nam Mỹ (chiếm hơn
70%) (Wedner và Rosenberry, 1992). Các quốc gia Châu Mỹ như Equado,
Mehico, Panama… là những nước có nghề nuôi tôm he chân trắng phát
triển từ đầu những năm 90.
Equado là nước đứng đầu về sản lượng tôm he chânt rắng tại Nam
Mỹ, năm 1991 đạt sản lượng 103.000 tấn, chủ yếu nuôi bán thâm canh.
Năm 1993 do gặp dịch bệnh (hội chứng Taura), sản lượng giảm chỉ còn 1/3,
sau đó bắt đầu khôi phục lại 1998 đạt 120.000 tấn, 1999 đạt 130000 tấn.
Sau đó lại tiếp tục bị đại dịch đốm trắng và sản lượng chỉ còn 35000 tấn
(2000). Đứng thứ 2 là Mehico với sản lượng 24000 tấn (2000) và Panama là
nước đứng thứ 3 với sản lượng 10000 tấn (1999).
Bảng 1.1. Sản lượng tôm he chân trắng ở Châu Mỹ
Năm 1994 1995 1997 1998 1999 2000
107 140 169 191 140 190
Từ những năm 1970, tôm he chân trắng được đưa đến các đảo trên
Thái Bình Dương để nghiên cứu về tập tính sinh sản và khả năng nuôi
thương phẩm. Đến cuối những năm 1970, chúng được đưa đến Hawaii
và bờ biển Đông Thái Bình Dương từ bang South Carolina và Texas đến
vùng Trung Mỹ và Braxin, trở thành đối tượng nuôi chủ yếu trong 20 – 25
năm qua. Tổng sản lượng tôm he chân trắng đã đạt khoảng 213.800 tấn, trị
giá 1,1 tỷ đôla năm 2005.
Năm 1992 đại dịch bệnh bùng phát đối với tôm thẻ chân trắng (hội
chứng Taura) làm giảm sút sản lượng một cách nghiêm trọng ở các quốc
gia Châu Mỹ, gây tâm lý e ngại cho các nhà quản lý ở các quốc gia có ý
định nhập nội loài này để nuôi thử nghiệm và phát triển. Tuy nhiên tôm he

7
chân trắng có nhiều ưu điểm là loài dễ nuôi, tôm lớn nhanh, thời gian nuôi
ngắn, nên loài tôm này rất được chú ý và đã được các chuyên gia nghiên
cứu kết hợp nuôi thương phẩm với sản xuất tôm bố mẹ trong cùng một ao ở
qui mô lớn, cho phép thuần hóa và chọn giống để tạo ra những dòng tôm có
đặc tính tốt hơn, tốc độ sinh trưởng cao, khả năng kháng bệnh tốt. Bằng
biện pháp này nước Mỹ đã tạo ra những nguồn giống tôm không có tác
nhân gây bệnh đặc hữu – Specific Pathogen Free (SPE) và tôm giống có
sức đề kháng với tác nhân gây bệnh đặc hữu – Specific Pathogen Resist
(SPR) ở qui mô thương mại. Điều này mở ra triển vọng cho việc duy trì và
phát triển nghề nuôi tôm he chân trắng nói riêng và nghề nuôi tôm biển nói
chung ở tất cả các vùng sinh thái trên thế giới.
1.2. Tình hình nuôi tôm he chân trắng ở các nước Châu Á
Sau khi thử nghiệm và nuôi thành công loài tôm he chân trắng ở Nam
Mỹ thì loài tôm này được phát triển và nhân rộng ra các nước khác.Vào
năm 1998 Trung Quốc đã di giống loài tôm này về nuôi thử nghiệm và đã
thành công.Tôm he chân trắng đã trở thành đối tượng nuôi phổ biến ở nước
này. Năm 2001 Trung Quốc đã xuất khẩu sang Mỹ với số lượng lớn và giá
rẻ. Sau Trung Quốc, tôm he chân trắng được đưa đến các nước khác như
Thái Lan, Malaixia, Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam. Sản lượng tôm he chân
trắng ở Châu Á vào năm 2002 là 316.000 tấn (chiếm 27% sản lượng tôm
nuôi), năm 2003 đạt 500.000 tấn (chiếm 38% sản lượng tôm nuôi) đạt giá
trị 4 tỷ USD. Năm 2007 sản lượng đạt 1,5 triệu tấn.
Bảng 1.2 Sản lượng tôm he chân trắng ở một số quốc gia Châu Á
8
Nước/quốc
gia
Tổng sản lượng
tôm
P.vannamei

Tổng sản lượng tôm he
chân trắng
Tỷ lệ % tôm he chân
trắng so với TSL tôm
2002 2003 2002 2003 2002 2003
Trung
Quốc
415.000 420.000 272980 300.000 66 71
Thái Lan 260.000 300.000 10.000 120.000 4 40
Việt Nam 180.000 205.000 10.000 30.000 6 15
Philippin 36.000 38.000 3425 5000 10 13
Indonesia 5000 20.000 10 23
Malaisia 23200 27000 1200 3600 5 13
Qua bảng 1.2 ta thấy sản lượng và tỷ lệ phần trăm sản lượng tôm he
chân trắng so với tổng sản lượng của các nước đều tăng. Như vậy tôm he
chân trắng đã trở thành đối tượng phổ biến và ngày càng chiếm ưu thế. Tuy
nhiên một số nước vẫn còn khá dè dặt với đối tượng này như Indonesia,
Việt Nam… và một số nước còn ban hành cấm du nhập kinh doanh loài
tôm này. Và hiện nay luật này đã dần được bác bỏ. Tôm he chân trắng được
du nhập ra nhiều nước trên thế giới và chiếm sản lượng cao nhất, chiếm 2/3
sản lượng tôm nuôi của thế giới.
2.Tình hình nuôi tôm he chân trắng tại Việt Nam
Diện tích mặt nước đưa vào nuôi trồng thủy sản của Việt Nam 2005
dự kiến là 1 triệu ha, nhưng trong thực tế 2003 nước ta đã sử dụng 0,97
triệu ha. Riêng nuôi tôm là 46.000 ha, góp phần quan trọng nâng cao giá trị
kim nghạch xuất khẩu gần 2,3 tỷ USD vào năm 2003. Tuy diện tích nuôi
tôm tăng nhanh mở rộng diện tích nuôi và đa dạng hóa các đối tượng nên
tôm he chân trắng đã được du nhập vào nước ta và bắt đầu nuôi thử nghiệm
ở một số tỉnh như Quảng Ninh, Phú Yên, Bạc Liêu…Tất cả đều cho kết quả
khả quan. Tôm he chân trắng lớn nhanh, thời gian nuôi ngắn, lại thích nghi

9
ở cả nước mặn, lợ và ngọt điều này mở ra triển vọng rất lớn cho nghề nuôi
tôm ở nước ta.
Tôm he chân trắng đã và đang được nuôi phát triển theo chiều hướng
tốt trên vùng đất thịt, đất cát từ Quảng Ninh đến Bình Thuận, sản lượng tôm
chân trắng chiếm 5 – 7% sản lượng tôm trên phạm vi cả nước, nhiều cơ sở
nuôi đạt năng suất từ 12 – 24 tấn/ha.
Năm 2001 Công ty Duyên Hải Bạc Liêu đã nhập loài tôm này
về nuôi thử nghiệm và đã thành công, mỗi ngày có thể sản xuất được 3 triệu
con giống để cung ứng cho người nuôi, hiện nay chính công ty cũng nuôi
gần 1000 ha tôm thương phẩm với năng suất 3 – 5 tấn/ha. Tại huyện Hoành
Bồ Quảng Ninh, công ty Việt Mỹ đã nuôi đạt năng suất 8,4 – 11,8 tấn/ha.
Đặc biệt tỉnh Tiền Giang đã thử nghiệm nuôi tôm he chân trắng trong ao
nước ngọt đạt năng suất 1,7 tấn/ha.
Tôm he chân trắng dần dần đã được nuôi lan rộng ra cả nước, các
tỉnh ở ĐBSCL bắt đầu nuôi thử nghiệm và đã cho kết quả rất khả quan, tôm
he chân trắng phần nào đã khẳng định ưu thế trên ruộng tôm ở ĐBSCL. Tại
Kiên Giang, bốn doanh nghiệp nuôi tôm he chân trắng đều cho năng suất 12
– 13 tấn/ha, thu lợi bình quân 120 triệu đồng /ha. Tại Cà Mau, Công ty hải
sản Minh Phú đã nuôi thí điểm 13 ha tại Ấp Kinh Bắc, Xã Hàm Rồng,
Huyện Năm Căn, năng suất ước tính 10 tấn/ha, lãi suất 150 triệu
đồng/ha.Tại Sóc Trăng, Bến Tre tôm he chân trắng đang phát triển rất tốt và
hứa hẹn mang lại thu nhập cho người nuôi.
Tổng sản lượng tôm he chân trắng nước ta năm 2002 là 10.000 tấn
(chiếm 6% tổng sản lượng tôm nuôi cả nước), năm 2003 ước đạt 30.000 tấn
(chiếm 15% tổng sản lượng tôm nuôi của cả nước). Tổng diện tích nuôi tôm
he chân trắng tính đến tháng 6/2008 là 12.411ha.
Nhìn chung ở nước ta việc nuôi tôm he chân trắng đã có những kết
quả khá tốt, góp phần đa dạng hóa các đối tượng nuôi và tạo công ăn việc
làm cho người dân. Khác với tôm sú, tôm he chân trắng có thể tận dụng

nguồn thức ăn trong ao nuôi nên làm giảm được chi phí sản xuất, đồng thời
10
thời gian nuôi tôm he chân trắng ngắn từ 3 – 3,5 tháng, năng suất lại khá
cao đạt từ 6 – 7 tấn/ha. Tuy nhiên, tôm he chân trắng không những mắc
nhiều bệnh của tôm sú mà còn mắc bệnh rất nguy hiểm ( hội chứng Taura)
có thể lây lan sang các đối tượng khác làm thiệt hại nghiêm trọng đến sản
xuất thủy sản và tới môi trường tự nhiên. Cho nên Bộ Nông Nghiệp & Phát
Triển Nông Thôn đã có chỉ thị số 01/2004/CT – BTS về việc tăng cường
quản lý tôm he chân trắng ở Việt Nam. Theo đó, tôm he chân trắng chỉ
được phép nuôi tại các ao, đầm có sự tách biệt nhằm đảm bảo không lây lan
dịch bệnh cho các đối tượng nuôi khác và bảo vệ môi trường sinh thái.
Theo viện Kinh Tế và Qui hoạch của Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển
Nông Thôn cho biết. Tôm he chân trắng tuy có những ưu điểm như thời
gian nuôi ngắn, năng suất cao nên được người dân đầu tư và nuôi trên diện
rộng. Song như vậy không phải đối tượng này không có những khó khăn
như qui trình sản xuất tôm giống đòi hỏi kỹ thuật cao, sức sinh sản của tôm
he chân trắng lại thấp hơn nhiều so với tôm sú cho nên đòi hỏi số lượng lớn
tôm bố mẹ. Mặc dù thừa nhận là đối tượng có sức đề kháng bệnh cao nhưng
trong thực tế cho thấy tôm nuôi với mật độ cao thì tôm vẫn bị bệnh và chết
hàng loạt do bệnh hội chứng Taura gây nên.
Hiện nay viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III là đơn vị duy
nhất được Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn chỉ định: “Nghiên
cứu áp dụng kỹ thuật sản xuất giống và cơ sở khoa học để phục vụ quy
hoạch vùng nuôi tôm he chân trắng”. Hy vọng đề tài này sẽ mở ra những
hướng mới cho nghề nuôi tôm ở nước ta.
3.Tình hình nuôi tôm he chân trắng tại Huyện Kiên Lương.
Tôm he chân trắng đã được được đưa vào Việt Nam cách đây
khoảng 7 năm nhưng vẫn chỉ ở hình thức nuôi thử nghiệm. Tôm he chân
trắng được Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn cho phép nuôi thử
nghiệm ở các tỉnh từ Quảng Ninh đến Bình Thuận. Ở các tỉnh ĐBSCL mới

được phép nuôi vài năm gần đây do thông tin vùng đất ở ĐBSCL là đất bùn
không phù hợp cho nuôi tôm he chân trắng.
11
Tôm he chân trắng được coi là loài tôm có sức chống chịu tốt với
ngoại cảnh nên dễ nuôi, cho năng suất cao và mang lại hiệu quả kinh tế khá
cao. Tuy giá tôm he chân trắng thấp hơn giá tôm sú (giá tôm he chân trắng
là 45.000đ/kg, giá tôm sú 90.000đ/kg) nhưng do sản lượng nhiều nên mức
thu nhập vẫn không kém hơn tôm sú. Tuy vậy, tôm he chân trắng vẫn chưa
được coi là đối tượng chủ yếu ở Việt Nam do đây là đối tượng mới nên
người dân vẫn chưa nắm vững kỹ thuật nuôi, vẫn còn nhiều khó khăn nên
người dân chưa đầu tư trên diện rộng.
Hiện nay ở huyện Kiên Lương hiện có khoảng 120 ha tôm he chân
trắng được Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn tỉnh Kiên Giang cho
phép nuôi theo mô hình công nghiệp và do một số công ty như Trung Sơn,
Minh Phú, Bim (Hạ Long) triển khai thực hiện. Đây cũng là địa điểm đầu
tiên nuôi tôm he chân trắng ở vùng Tứ Giác Long Xuyên (Kiên Giang)
trong thời gian gần đây và đạt hiệu quả cao từ 10 – 12 tấn/ha. Sắp tới các
công ty ở đây sẽ đầu tư dây chuyền sản xuất giống tôm he chân trắng tại
chỗ để giảm giá thành sản xuất và cung cấp giống cho bà con ngư dân nuôi
tôm he chân trắng nhằm mở rộng diện tích nuôi tôm thuộc khu vực Tứ Giác
Long Xuyên và các khu vực khác trong tỉnh.
Năm nay, trung tâm khuyến ngư thủy sản huyện Kiên Lương bắt đầu
nuôi thử nghiệm và chuyển giao kỹ thuật cho người dân trong huyện.
III. Một số bệnh thường gặp trên tôm he chân trắng.
1.Bệnh do virus hội chứng Taura – Taura Syndrome Virus (TSV):
Đây là bệnh gây nhiều tổn thất nhất cho nghề nuôi tôm he chân
trắng trên thế giới trong nhiều năm qua. Bệnh này chỉ gặp trên tôm he chân
trắng, được phát hiện đầu tiên tại trại nuôi tôm gần sông Taura(Equado) vào
năm 1992. Tác nhân gây bệnh Taura là do virus RNA biến đổi cao có thể
chuyển thành những dòng virus độc hại hơn có khả năng lây lan sang các

loài tôm khác. Mặc dù chưa có bằng chứng về hội chứng Taura có thể lây
lan sang các loài tôm khác như tôm sú (P. monodon ) và tôm he Trung
Quốc(P.chinensis), nhưng ở Đài Loan đã có báo cáo về sự lây lan sang tôm
12
rảo (Metapenaeus ensis) hoang dã và xuất hiện sự thích ứng về sự di truyền
của loài virus này.
Hội chứng Taura ở tôm he chân trắng có mức độ nghiêm trọng khác
nhau, có thể chia thành hai mức độ:
Thể thứ cấp tính: Thường gặp ở tôm 20 – 40 ngày tuổi. Thể bệnh này
không nguy hiểm lắm và có thể nuôi đến khi thu hoạch.
Triệu chứng của bệnh là thấy tôm chết rải rác quanh ao, tôm vẫn
giữ màu sắc bình thường có khi chuyển sang phớt hồng. Khi nhấc sàng ăn
lên tôm không búng lên ( tôm khỏe sẽ búng ra nhanh khỏi sàng).
Thể cấp tính: Thường xuất hiện ở ao nuôi 50 – 80 ngày tuổi. Tôm bị
bệnh có màu hơi đỏ hoặc đen hồng, gan tụy có màu vàng hơn bình thường,
mang có thể bị sưng. Thường ít thấy tôm chết ven bờ nhưng lại chết nhiều ở
đáy ao. Thể cấp tính rất nguy hiểm, có thể gây chết hầu hết tôm trong 3
ngày.
2. Bệnh do virus đốm trắng gây ra – White Spot Baculovirus ( WSBV):
Đây là bệnh rất nguy hiểm và phổ biến ở các loài tôm biển, trong đó
có tôm he chân trắng. Tác nhân gây bệnh đốm trắng là do Baculovirus,
thuộc loại không có thể ẩn (Non Occlusion body) chứa AND. Bệnh đốm
trắng thường xảy ra trong ao nuôi tôm ở giai đoạn 1 – 2 tháng đầu. Khi bị
bệnh tôm sẽ kém ăn hoặc bỏ ăn, xuất hiện các đốm trắng tròn đường kính
0,5 – 2mm ở mặt trong của vỏ kitin, các đốm trắng này tập trung nhiều ở
giáp đầu ngực và mặt lưng của đốt bụng thứ sáu. Ngoài ra tôm có thể
chuyển thành màu đỏ tối, bệnh đốm trắng có thể gây chết 90 – 95% trong
vòng 5 – 7 ngày.
3. Bệnh hoại tử cơ quan tạo máu – Infectious Hypodermal and
Hematopoietic Virus (IHHNV)

Bệnh này cũng gặp ở nhiều loài tôm biển khác nhau. Tác nhân gây
bệnh là một loại Virus có tên là Pavovirus chứa DNA mạch đơn. Tôm he
chân trắng thường bị bệnh này ở dạng mãn tính và thể hiện ở một số đặc
13
điểm như còi cọc, dị dạng, vỏ kitin bị xù xì thô ráp, tôm kém ăn. Bệnh
IHHNV thường không gây chết nhưng tác hại của nó làm tôm chậm lớn,
phân đàn cao.
4.Bệnh do vi khuẩn
Các bệnh do vi khuẩn gây ra: thường gặp nhất ở tôm chân trắng là
các bệnh đứt râu, phồng mang, đen mang và bệnh phân trắng.
Tác nhân chính gây ra các bệnh trên là vi khuẩn thuộc giống Vibrio,
ngoài các biểu hiện bệnh như tên gọi của nó còn kèm theo một số dấu hiệu
khác như: tôm bị bẩn mình, bẩn mang, cơ thể chuyển màu hồng đỏ, tôm
yếu, bỏ ăn rồi chết. Hiện tượng chết có thể xảy ra khi bệnh ở mức độ cấp
tính. Nếu mãn tính có thể gây chậm lớn, phân đàn, mềm vỏ
Vi khuẩn Vibrioxâm nhập vào ao nuôi theo một số con đường:
nguồn nước, tôm giống, thức ăn, đặc biệt là thức ăn tươi sống và từ đáy ao
nếu công tác tẩy dọn chưa tốt.
5. Bệnh do các yếu tố vô sinh: bao gồm các loại bệnh sau:
Bệnh do các yếu tố môi trường: như nhiệt độ, độ mặn, pH, khí
độc khi nằm ngoài ngưỡng thích ứng hoặc bị thay đổi đột ngột có thể gây
hại hoặc gây chết đối với động vật thủy sản, thường gặp nhất là bệnh cong
thân, bệnh đục cơ.
Bệnh do yếu tố dinh dưỡng: các thành phần dinh dưỡng như: đạm,
đường, chất béo, vitamin và khoáng khi thiếu hoặc thừa đều có thể gây
bệnh cho tôm như: bệnh mềm vỏ
Tóm lại hiện nay nghề nuôi tôm chân trắng đang phải đối đầu với 3
loại bệnh nguy hiểm trên, các bệnh này có thể lây lan thành dịch và gây tổn
thất lớn trong sản xuất. Để đề phòng các bệnh này cần làm tốt công tác
chọn giống trước khi đưa vào nuôi (có thể dùng máy PCR để kiểm tra),

đồng thời phải quản lý môi trường nuôi tốt, đặc biệt là nguồn nước trước
khi đưa vào nuôi cần qua xử lý theo đúng yêu cầu kỹ thuật
PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I.THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
14
1. Thời gian nghiên cứu.
Từ ngày 04/06/2009 đến ngày 15/08/2009
2. Địa điểm nghiên cứu.
Trại thực nghiệm Ba Hòn thuộc Trung Tâm Khuyến Ngư – ấp Hòa
Lộc – xã Dương Hòa – huyện Kiên Lương – tỉnh Kiên Giang.
II SƠ ĐỒ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
15
:
Hình 2.1 Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu
II. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP SỐ LIỆU
1. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: Qua điều tra phỏng vấn các cán
bộ kỹ thuật tại cơ sở thực tập như:
1.1 Tìm hiểu kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm.
1.1.1Cải tạo ao.
1.1.2 Tuyển chọn tôm giống, mật độ và cách thả tôm giống.
1.1.3 Quản lý và chăm sóc.
16
Hiện trạng nuôi tôm he
chân trắng
Tìm hiểu kỹ thuật
nuôi tôm he chân
trắng
Đánh giá hiệu
quả kinh tế của
vụ nuôi

Cơ sở
vật chất
của trại
Chuẩn bị
ao và thả
giống
Quản lý
và chăm
sóc
Thu
hoạch
Môi
trường
Thức
ăn
Theo dõi sức khỏe
và kiểm tra tốc độ
tăng trưởng
Phòng
và trị
bệnh
Kết luận và đề xuất ý kiến
NỘI DUNG CẦN NGHIÊN CỨU
• Thức ăn và chế độ cho ăn
• Quản lý chất lượng nước
• Diễn biến các yếu tố môi trường trong ao nuôi.
• Theo dõi tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của tôm
• Phương pháp xác định tốc độ tăng trưởng của tôm.
• Chiều dài của tôm: dùng thước đo từ chuỷ đầu cho tới cuối
Telson, độ chính xác 1mm. Số lượng mẫu 30 con cho một lần

kiểm tra, 15 ngày kiểm tra 1 lần.
• Phương pháp xác định tỷ lệ sống của tôm
• Ước lượng tỷ lệ sống: Dùng chài có đường kính 4m chài 4 điểm
xung quanh ao và 1 điểm giữa ao. Cứ 15 ngày ước lượng tỷ lệ
sống 1 lần.
• Chế độ phòng và trị bệnh
• Thu hoạch đánh giá hiệu quả kinh tế.
2. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Thu thập qua sách tham khảo,
các luận văn của khóa trước…vv
3. Phương pháp xác định các yếu tố môi trường.
3.1 Nhiệt độ (
o
C ): Đo ngày 2 lần ( 6h và 14h) bằng nhiệt kế với độ
chính xác 1
o
C.
3.2. Độ mặn ( S‰): Đo 1 lần/ngày bằng Sali kế ( độ chính xác 1‰).
3.3 pH: Đo 2 lần / ngày bằng test so màu.
3.4 Độ trong (cm): Đo 1 lần/ngày bằng thước gỗ (độ chính xác 0,1 m).
3.5 Độ kiềm (mg CaCO3/L) : Đo 1 lần/tuần bằng text nhỏ giọt.
3.6 Oxy hoà tan (mg/l) : Đo 2 ngày/tuần, 2 lần/ngày (6h và 14h) theo
phương pháp Wikler.
3.7 Màu nước: Quan sát hằng ngày bằng trực quan.
17
III.PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
1.Phương pháp ước lượng tỷ lệ sống:
%100×
×
×
=

Ns
Sn
T
Trong đó :
T: Tỷ lệ sống (%)
n: Tổng số tôm thu được của các chài (con)
s: Tổng diện tích các lần chài (m
2
)
S: Diện tích ao
N: Số tôm lúc thả ban đầu(con)
2. Phương pháp theo dõi tốc độ tăng trưởng:
2.1. Sự tăng trưởng trung bình ngày:
- Chiều dài:
12
12
tt
LL
Ln


=
Ln: Sự tăng trưởng chiều dài (cm /ngày)
L
2
: Chiều dài trung bình tại thời điểm t
2

L
1

: Chiều dài trung bình tại thời điểm t
1
- Khối lượng :
12
12
tt
WW
W
n


=
( g / ngày)

Wn: Sự tăng trưởng khối lượng (g /ngày)
W
2
: Khối lượng trung bình tại thời điểm t
2

W
1
: Khối lượng trung bình tại thời điểm t
1
.
2.2. Phương pháp ước lượng tổng khối lượng tôm trong ao.
M = (m * T * N)/1000
Trong đó:
M: Tổng khối lượng tôm trong ao (kg)
18

m: Khối lượng trung bình của tôm (g/con)
T: Tỷ lệ sống tại thời điểm kiểm tra (%)
N: Số tôm lúc thả ban đầu (con)
1000: Hệ số chuyển đổi ra đơn vị khối lượng
2.3.Phương pháp tính hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR)
12
12
MM
WW
FCR


=
Trong đó:
W1: Tổng khối lượng thức ăn đã sử dụng tại thời điểm 1 (kg)
W2: Tổng khối lượng thức ăn đã sử dụng tại thời điểm 2 (kg)
M1: Tổng khối lượng tôm tại thời điểm 1 (kg)
M2: Tổng khối lượng tôm tại thời điểm 2 (kg)
FCR của toàn bộ vụ nuôi
12
WW
B
FCR

=
Trong đó:
B: Khối lượng thức ăn sử dụng trong suốt vụ nuôi (kg)
W1: Khối lượng tôm lúc thu hoạch (kg)
W2: Khối lượng tôm khi thả (kg)
2.4. Xác định năng suất.

000.10×=
S
H
K
Trong đó:
19
H: Sản lượng thu hoạch một vụ
S: Diện tích ao nuôi (ha)
2.5. Xác định trọng lượng tôm.
G = W * P
tb
Trong đó:
G: Trọng lượng tôm (kg)
W: Tổng số lượng tôm trong ao (con)
P
tb
: Trọng lượng trung bình của tôm trong ao(kg)
2.6. Xử lý số liệu bằng chương trình Ms – Ecel version.
20
PHẦN 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
1. Vị trí địa lý
Kiên Lương là một huyện duy nhất của tỉnh Kiên Giang có diện tích
gồm hai phần đất liền và hải đảo. Phía Bắc giáp với Campuchia, phía Tây
giáp với thị xã Hà Tiên và vịnh Thái Lan, phía Đông giáp với huyện Tri
Tôn của tỉnh An Giang và huyện Hòn Đất
Huyện Kiên Lương gồm 13 xã Vĩnh Điều, Vĩnh Phú, Sơn Hải,
Dương Hòa,Hòa Điền, Bình An, Bình Trị, Phú Mỷ, Phú Lợi, Tân Khánh
Hòa, Kiên Bình, Hòn Nghệ và thị trấn Kiên Lương
2. Khí hậu

Địa hình của Kiên Lương rất đa dạng,nhiệt độ trung bình hằng năm
27.20C, cao nhất 37
o
C,thấp nhất 17
o
C,độ ẩm trung bình 81,9%. Lượng mưa
lớn, lượng mưa trung bình hằng năm 2.498mm, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5
đến tháng 10
II. HỆ THỐNG CÔNG TRÌNH TẠI CƠ SỞ THỰC TẬP.
Diện tích tại cơ sở thực tập tương đối lớn khoảng 10 ha. Tuy nhiên
do mới sát nhập vào cùng với sở nông nghiệp nên diện tích nuôi bị hạn chế.
Đồng thời tôm thẻ chân trắng là đối tượng mới được trung tâm nuôi thử
nghiệm nên chỉ nuôi có một ao với diện tích 0,5 ha.
Hệ thống ao tại trại nuôi gồm có một ao nuôi, một ao lắng, một ao
chứa. Ao nuôi có một cống thoát không có cống cấp, việc cấp nước được
thực hiện bằng máy bơm nước.
Tại trại các thiết bị phục vụ cho quá trình nuôi tôm he chân trắng
tương đối đầy đủ.
21
Bảng 3.1: Hệ thống ao phục vụ cho trại nuôi
Tên ao Hình dạng Diện tích
(ha)
Độ sâu
(m)
Ao nuôi B1 Hình vuông 0.5 ha 2m
Ao lắng Hình vuông 0.15 ha 2.5m
Ao xử lý nước
thải
Hình chữ nhật 0.1 ha 2m
Bảng 3.2: Dụng cụ thiết bị tại trại

STT
Dụng cụ, Trang
thiết bị
Số lượng
Đơn vị tính
Ghi chú
1 Máy quạt nước 4
Cái Máy được chạy
bằng điện
2 Máy bơm 1 Cái
3 Cân 1 Cái
4 Bè 1
Cái Dùng chủ yếu cho
tôm ăn
5 Lưới thu tôm 4 Cái
6 Thước đo 2
Cây Một loại dài 20 cm
và một loại dài 3m
7 Nhiệt kế 1 Cái
8 Đĩa secchi 1 Cái
9
Các loại chậu,
xô đựng
thức ăn, các loại
vợt
22

Ghi chú

Ghi chú

Hình 3.1: Sơ đồ hệ thống ao nuôi thử nghiệm
Ao chứa
Ao xử lý nước
thải
23
Sông Tà Xăng
Nơi đặt nhá
Máy quạt nước
Máy bơm
Nhà kho
III. QUY TRÌNH NUÔI THƯƠNG PHẨM TÔM HE CHÂN TRẮNG
TẠI KIÊN LƯƠNG
1Chuẩn bị ao.
Đây là khâu quan trọng trong qui trình nuôi tôm thương phẩm, nếu công
đoạn này mà chuẩn bị tốt thì sẽ góp phần không nhỏ vào sự thành công của
vụ nuôi. Mục đích của việc chuẩn bị ao là làm cho nền đáy sạch, tạo được
môi trường nước ban đầu ổn định, thích hợp với đời sống của tôm. Vì thế
trong qui trình nuôi ta cần phải chú ý đến khâu này.
1.1Cải tạo ao
Mục đích của việc cải tạo ao là nhằm loại bỏ một lượng lớn chất
hữu cơ, chất thải tích tụ trong ao và những mầm bệnh từ vụ nuôi trước để
tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho đối tượng mới phát triển tốt.
Tùy vào điều kiện của từng vùng, từng loại đất và tình trạng của ao
nuôi mà ta có cách cải tạo hợp lý.
Tại cơ sở thực tập đã tiến hành cải tạo ao theo phương pháp cải tạo
khô. Sau khi vụ nuôi trước kết thúc người ta tiến hành tháo hết nước, nạo
vét bùn đáy để đưa hết chất lắng đọng hữu cơ ra khỏi ao, rồi rải vôi bột
CaO khắp quanh ao với liều lượng 200 kg/0,5ha và phơi đáy khoảng 15
ngày.
Tác dụng của việc bón vôi là tiêu diệt các mầm bệnh, các

ký chủ trung gian mang mầm bệnh,cung cấp hệ đệm cho ao và ổn định pH
Tác dụng của việc phơi đáy là làm thoát các khí độc, tiêu diệt một số
mầm bệnh và các vi sinh vật gây hại, tăng cường quá trình oxy hóa các chất
hữu cơ còn xót lại.
Kết hợp với việc cải tạo nền đáy người ta tiến hành gia cố bờ ao,
bờ ao được phủ kín bằng bạt nhằm hạn chế việc rữa trôi đất từ bờ ao,đào
hang của cua, ghẹ…gây rò rỉ , thẩm lậu ao khó khăn trong việc giữ nước.
1.2 Xử lý nước.
24
Sau khi cải tạo nền đáy xong người ta tiến hành lấy nước vào. Nước
được lấy từ sông vào ao chứa và sau đó bơm trực tiếp vào ao bằng máy
bơm qua túi lọc nhằm loại bỏ rác rưởi, cặn bã.
Nước được lấy vào ao để khoảng 2 – 3 ngày cho các loại trứng các
loài động vật theo nước vào trong ao nở ra hết và tiến hành xử lý chlorine
liều lượng 200kg/0,5ha (27ppm). Chlorine trước khi dùng được ngâm vào
nước khoảng 12h rồi mới tạt xuống ao. Dùng Chlorine để xử lý nước thì ta
phải kết hợp với việc chạy quạt nước để phân tán đều chlorine và phơi nắng
khoảng 1 tuần để cho dư lượng Chlorine bay hết vì chlorine rất độc đối với
tôm
1.3 Bón phân gây màu nước
Trong ao nuôi việc gây màu nước và giữ được màu nước thích hợp là
điều rất cần thiết. Dựa vào màu nước trong ao ta có thể đánh giá được chất
lượng nước của ao tốt hay xấu. Bởi màu nước trong ao là do các chất lơ
lửng và các sinh vật sống trong ao tạo nên trong đó thực vật phù du giữ vai
trò quan trọng nhất và nó quyết định nên màu nước của ao, màu nước trong
ao tốt nhất là màu xanh lá cây hoặc màu vàng nâu. Do vậy việc gây màu
nước trong ao là tạo điều kiện cho thực vật phù du phát triển vì nó có vai trò
rất quan trọng như:
• Là nguồn cung cấp oxy chính cho ao nuôi để duy trì sự sống cho tôm
và đẩy nhanh quá trình phân hủy các chất hữu cơ trong ao.

• Tảo sẽ ngăn cản sự phát triển của tảo đáy đồng thời làm màn che
giảm stress cho tôm.
• Làm cho nhiệt độ nước ổn định và góp phần lớn vào việc điều chỉnh
giá trị pH trong ao nuôi tôm.
• Hấp thụ các chất thải trong ao để lấy dinh dưỡng
• Là móc xích đầu tiên của chuỗi thức ăn trong ao nuôi, nó làm thức
ăn cho các loài động vật nổi và các loài này lại là thức ăn rất tốt cho
tôm
25

×