Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

trình bày các mục tiêu của chính sách tiền tệ 2005-2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.35 KB, 46 trang )

PHẦN A: NHẬN XÉT CHUNG TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2005-2008
1) Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam năm 2005
Theo Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực châu Á-Thái Bình Dương (ESCAP), với tốc độ
tăng trưởng 8,4%, mức cao kỷ lục trong vòng 5 năm trở lại đây, là một con số biết nói lên tất cả,
Việt Nam là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất ở khu vực Đông Nam Á trong năm 2005.
Kết quả điều tra kinh tế xã hội trong khu vực của ESCAP cho thấy, ngành sản xuất là
động lực chủ yếu của nền kinh tế và tăng trưởng trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp được ghi
nhận ở mức 10,6%. Ngành dịch vụ cũng tăng trưởng mạnh với tốc độ 8,4%; trong khi ngành
nông nghiệp tăng 4%.
Sau khi phân tích nguyên nhân của tình trạng lạm phát năm 2005 ở mức cao do ảnh
hưởng của hạn hán, cúm gia cầm và việc tăng giá hàng nhập khẩu, ESCAP cho rằng, Ngân hàng
Nhà nước đã duy trì được chính sách tiền tệ thắt chặt và sử dụng nhiều chính sách khác để giảm
bớt sức ép của lạm phát.
Về hoạt động thương mại, xuất khẩu của Việt Nam ước tính tăng khoảng 20% trong năm
ngoái, nhập khẩu tăng 22,5% do sản phẩm dầu khí đắt đỏ hơn và hoạt động xây dựng tăng mạnh
dẫn tới tăng nhập khẩu sắt thép, nhu cầu tăng cao đối với phụ kiện ôtô, xe máy và hoá chất.
Thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai đã giảm từ mức -2% GDP trong năm 2004 xuống còn -0,9%
GDP trong năm 2005.
Thời gian qua, không chỉ cố gắng tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, Chính phủ Việt
Nam còn mở rộng lợi ích của tăng trưởng kinh tế tới toàn xã hội bằng cách đầu tư vào giáo dục,
y tế, nước sinh hoạt, và điện ở các vùng nông thôn. Công cuộc xoá nghèo là mối quan tâm hàng
đầu ở Việt Nam và phương pháp tiếp cận của Chính phủ Việt Nam đối với vấn đề này đáng được
khen ngợi.
Xếp hạng cạnh tranh toàn cầu do Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đưa ra hàng năm, đánh
giá năng lực cạnh tranh tăng trưởng và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp của các quốc gia. Năm
2005, Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng của Việt Nam giảm từ 77 xuống 81, chỉ số năng
lực cạnh tranh doanh nghiệp từ 79 xuống 80.
Những thay đổi thứ hạng của Việt Nam trong Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm
2005-2006 của WEF cho thấy Việt Nam vẫn tiếp tục đạt được tiến bộ trong các chỉ số kinh tế vĩ
mô, về xóa đói, giảm nghèo và về nỗ lực của Chính phủ trong việc phát triển công nghệ thông


tin. Bản thân các doanh nghiệp cũng tin tưởng cao vào triển vọng phát triển kinh tế trong năm
tới.
Trong Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2005 do Chương trình phát triển của Liên Hợp
Quốc (UNDP) đưa ra, Việt Nam đã đạt được kết quả đáng khích lệ trên nhiều mặt. Chỉ số phát
triển con người của Việt Nam năm 2005 tăng 4 bậc, lên mức 108. Báo cáo cho rằng khả năng cân
bằng, tương tác giữa chính sách phát triển con người và chính sách phát triển kinh tế, thương mại
là nguyên nhân thành công của Việt Nam.
Tuy nhiên, thứ bậc HDI của Việt Nam trên thế giới, ở châu Á và trong khu vực vẫn còn ở
mức thấp. Một trong những yếu tố làm cho HDI của Việt Nam còn ở mức thấp là do chỉ số GDP
bình quân đầu người còn quá thấp (khoảng 540 USD năm 2004), đây chính là điều cần được
quan tâm bởi nó là tiền đề để thực hiện chăm sóc sức khỏe và nâng cao chỉ số giáo dục. Hơn nữa,
thứ bậc HDI của Việt Nam tăng lên cũng chủ yếu là nhờ sự tăng lên của chỉ số GDP bình quân
đầu người và vì vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế để sớm đưa Việt Nam ra khỏi nước kém phát
triển được coi là mục tiêu hàng đầu.
Tăng trưởng kinh tế cũng được tiếp sức bởi mức đầu tư cao (21 tỷ USD), chiếm 38,9%
GDP (cao nhất trong những năm gần đây).
Đầu tư từ khu vực tư nhân (chiếm hơn 32% tổng vốn) có tốc độ phát triển nhanh nhất,
tăng 28%. Đầu tư của khu vực tư nhân có hiệu quả cao hơn so với khu vực nhà nước và giúp tạo
ra nhiều việc làm cho nền kinh tế. Vốn đầu tư tăng trong khu vực này là một dấu hiệu đáng
mừng, cho thấy tiềm lực trong nước đang tăng lên và môi trường kinh doanh đang được cải
thiện.
Vốn FDI năm nay đã tăng gần 40%, đạt 5,8 tỷ USD, mức cao nhất trong 10 năm (trong
đó, đầu tư mới là 4 tỷ USD, đầu tư bổ sung là 1,9 tỷ USD). Có thể nhận thấy rằng năm 2005 đã
khởi đầu cho một làn sóng đầu tư FDI mới (sau khi suy giảm từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế
Châu Á)
→Thuận lợi:
-Nền kinh tế tăng trưởng mạnh, trong khi vẫn duy trì được những nền tảng kinh tế vĩ mô
vững chắc (tỷ lệ nợ thấp, lạm phát ở mức có thể chấp nhận được, tỷ lệ tiết kiệm cao và sự phân
hoá giầu nghèo thấp).
-Môi trường chính trị và xã hội ổn định: là một quốc gia yên bình, không có nạn khủng

bố, không nằm trong khu vực nhiều thiên tai và chi phí nhân công thấp.
-Nền kinh tế đang dần hội nhập với kinh tế thế giới. Việt Nam dự đoán sẽ trở thành thành
viên của WTO trong năm 2006 và đang nỗ lực đẩy mạnh việc mở rộng thị trường trên phạm vi
lớn (gồm các ngành dịch vụ nhạy cảm, ngân hàng và tài chính).
→Khó khăn:
-Giá xăng dầu và nguyên liệu đầu vào tăng cao, thiếu hụt điện do hạn hán gây ra. Đợt hạn
hán cảnh báo vấn đề an ninh năng lượng ở nước ta; trong khi đó nhu cầu sử dụng điện ngày càng
tăng. Do đó, nguy cơ thiếu điện sẽ còn gây ra nhiều khó khăn trong những năm tới.
-Giá dầu thô dao động ở mức cao trong năm cũng gây ra nhiều xáo động đặc biệt khi Việt
Nam đang phải nhập khẩu 100% lượng xăng dầu cung ứng cho nhu cầu trong nước. Như vậy từ
giờ tới năm 2010, tình hình giá xăng dầu trong nước sẽ vẫn còn phụ thuộc vào dao động của giá
dầu quốc tế, đặc biệt là Nhà nước chủ trương giảm trợ giá cho mặt hàng này trong năm tới.
-Ngoài các vấn đề an ninh năng lượng, sản xuất công nghiệp sẽ phải đối mặt với sự cạnh
tranh quốc tế khốc liệt hơn trong năm 2006, khi Việt Nam dự kiến sẽ gia nhập WTO, và cũng sẽ
tham gia đầy đủ vào Chương trình Ưu đãi Thuế quan có Hiệu lực chung (CEPT) của Khu vực
Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA), (theo đó thuế quan đối với hàng hoá nhập khẩu của ASEAN
sẽ được giảm xuống 0-5%). Những áp lực cạnh tranh này trong khi khả năng cạnh tranh của các
ngành sản xuất nội địa nhìn chung vẫn còn rất thấp (theo một vài nguồn thống kê, chỉ 20% các
doanh nghiệp trong nước đang sử công nghệ hiện đại), sẽ đặt ra thách thức lớn đối với nền kinh
tế trong những năm tới. Bên cạnh đó, giá cả của các nguyên liệu đầu vào quan trọng như than,
điện, xăng dầu vốn được nhà nước trợ giá rất có khả năng sẽ tăng lên gần mức quốc tế, tạo thêm
gánh nặng đối với các nhà sản xuất trong nước.
-Bên cạnh đó, cúm gia cầm vẫn là nhân tố rủi ro cao nhất đối với nền kinh tế. Cho tới
nay, chi phí kiềm chế dịch bệnh là khoảng 0,1% GDP của Việt Nam. Đây cũng được coi là một
trong những nguyên nhân chính khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể sẽ giảm nhẹ.
-Các khó khăn trên của năm 2005 vì thế chưa được giải quyết trong tương lai gần, và sẽ
vẫn tiếp tục là những thách thức chính của năm 2006. Ngoài ra hai động lực của tăng trưởng kinh
tế (sức mua trong nước và mức đầu tư cao) cũng đang có những vấn đề đáng quan tâm. Nếu lạm
phát tiếp tục tăng nhanh như hai năm qua, sức mua thực tế sẽ giảm mạnh ảnh hưởng đến sức kéo
của cầu. Trong khi đó, do tỷ lệ đầu tư đang ở mức rất cao (38.9% GDP) và khó có thể tiếp tục

tăng trong năm tới, nếu hiệu quả đầu tư không tăng (nhất là trong khu vực nhà nước - hiện đang
chiếm 60% tổng đầu tư toàn xã hội), sức đẩy của đầu tư đối với tăng trưởng sẽ giảm đáng kể.
2) Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam năm 2006
Năm 2006 đã chứng kiến một số biến đổi quan trọng liên hệ đến nền kinh tế Việt Nam
như chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và có Quy chế Thương mại bình thường
vĩnh viễn, nền kinh tế nước ta cũng còn không ít khó khăn, thách thức, thậm chí còn gay gắt. Tuy
vậy, những kết quả đạt được trong năm 2006 là rất khả quan, thể hiện sự cố gắng lớn của các
cấp, các ngành, các địa phương Sự gia tăng các dự án của những tập đoàn kinh tế hàng đầu thế
giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản vào cuối năm 2006, Hội nghị APEC 14 thành công tốt đẹp đang
làm sôi động dòng vốn đầu tư nước ngoài mới vào Việt Nam.
Thành tựu:
-Trong năm 2006 có 4 biến chuyển kinh tế đặc biệt theo thứ tự thời gian như sau:
Thứ nhất là Việt-Nam gảm thuế đối với tất cả những hàng nhập cảng từ tất cả 10 thành viên của
khối AFTA xuống còn 0-5% kể từ ngày 01.01.2006. Đến năm 2012, Việt-Nam sẽ hoàn toàn bỏ
thuế nhập cảng như các nước khác trong khối AFTA để cải thiện tình trạng kinh tế trước sự cạnh
tranh của Trung Quốc, theo như nhận định của những nhà quan sát quốc tế.
Thứ hai là Việt-Nam đã hoàn thành trách nhiệm tổ chức một hội nghị lớn nhất từ trước đến nay
đó là Hội Nghị APEC vào giữa tháng 11, quy tụ nguyên thủ và đại diện của 21 quốc gia và lãnh
thổ.
Thứ ba là Việt-Nam đã được Hoa-Kỳ chấp thuận cho hưởng quy chế PNTR. Kết qủa là
kể từ nay việc buôn bán giữa Hoa-kỳ với Việt-Nam sẽ không còn phải được cứu xét lại hàng
năm như trước đây.
Thứ tư là WTO đã nhận Việt-Nam là thành viên thứ 150 của tổ chức này. Đây là một diễn biến
quan trọng nhất đòi hỏi Việt-Nam thực hiện những cải tố kinh tế sâu rộng về nhiều l ĩnh vực kể
cả nông nghiệp, dịch vụ, công nghệ, luật pháp, môi trường, lao động, hành ch ính, v.v. Quy chế
hội viên WTO vừa tạo cơ hội phát triển kinh tế và đưa ra những thử thách lớn lao cho Việt-Nam.
Quy chế này bắt đầu có hiệu quả vào ngày 11.01.2007.
- Việt Nam là một nước mức độ kinh tế tăng trưởng cao nhất trong vùng Á châu chỉ đứng
sau Trung Quốc. Vốn nước ngoài, đầu tư của nhà nước vào những dự án công cộng, và nhu cầu
tiêu thụ nội địa tiếp tục là những yếu tố thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Nền kinh tế nước ta

năm 2006 vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu do
Quốc hội đề ra đều đạt và vượt kế hoạch.
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả năm ước tăng 8,2% (kế hoạch là 8%). GDP bình
quân đầu người đạt trên 11,5 triệu đồng, tương đương 720 USD (năm 2005 đạt trên 10 triệu
đồng, tương đương 640 USD)
- Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4 - 3,5% (kế hoạch là
3,8%); ngành công nghiệp và xây dựng tăng 10,4 - 10,5% (kế hoạch là 10,2%); ngành dịch vụ
tăng 8,2 - 8,3% (kế hoạch là 8%);
- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 20% (kế hoạch là 16,4%);
- Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt khoảng 41% GDP (kế hoạch là
38,6%);
- Tốc độ tăng giá tiêu dùng khoảng 7 - 7,5% (kế hoạch là thấp hơn tốc độ tăng trưởng
kinh tế);
- Tạo việc làm mới cho 1,6 triệu lao động (kế hoạch là 1,6 triệu);
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới xuống còn 19% (kế hoạch là 20%);
- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm dưới 24% (kế hoạch là 24%);
- Mức giảm tỷ lệ sinh 0,3%o (kế hoạch là 0,4%o);
- Tổng thu ngân sách nhà nước đạt trên 258 nghìn tỷ đồng (dự toán là 237,9 nghìn tỷ
đồng), tăng 19%; tổng chi ngân sách nhà nước đạt trên 315 nghìn tỷ đồng (dự toán là 294,4
nghìn tỷ đồng), tăng 20%; bội chi ngân sách nhà nước trong mức 5% GDP (dự toán là 5%);
- Trong 8 chỉ tiêu còn lại, có 6 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, gồm chỉ tiêu về đào tạo
nghề dài hạn, số lượng địa phương hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, tuyển mới đại học cao
đẳng, tỷ lệ che phủ rừng, cung cấp nước sạch cho đô thị và tỷ lệ xử lý số cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng. Còn 2 chỉ tiêu đạt thấp so với kế hoạch, là tuyển mới trung học chuyên
nghiệp và tỷ lệ dân số ở nông thôn được cung cấp nước sạch [1].
- Nhìn tổng quát, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt mức Quốc hội đề ra. Nền
kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các cân đối lớn được bảo đảm và ổn định được kinh tế vĩ
mô. Các lĩnh vực về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hoá, thông tin, dạy nghề, y
tế, thể dục thể thao và nhiều lĩnh vực xã hội khác cũng có chuyển biến tích cực.

- Một số lĩnh vực đạt kết quả nổi bật, như tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2006
đạt khoảng 41% GDP, là mức cao nhất trong nhiều năm qua, trong đó nguồn vốn của doanh
nghiệp dân doanh chiếm gần một phần ba; đây là một cố gắng rất lớn trong việc huy động các
nguồn lực cho đầu tư phát triển và là yếu tố rất quyết định cho tăng trưởng GDP. Sản lượng
lương thực vẫn đạt khoảng 40 triệu tấn, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đồng thời duy trì
xuất khẩu gạo năm thứ 2 liên tiếp đạt trên 5 triệu tấn và đạt trên 1 tỷ USD trong năm 2006. Công
nghiệp và xây dựng có nhịp độ tăng trưởng khá cao, nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều
tăng khá so với cùng kỳ năm trước[2]; các công trình trọng điểm quốc gia và các dự án đầu tư
nhóm A được tập trung chỉ đạo, cơ bản kiểm soát được tiến độ. Xuất khẩu hàng hoá tăng cả về
số lượng, mặt hàng và tổng kim ngạch; thị trường xuất khẩu tiếp tục được mở rộng; nhập siêu
giảm nhiều so với các năm trước. Lĩnh vực dịch vụ đạt mức tăng khá cao.
- Công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước được tiến hành tích cực; năm 2006
cổ phần hóa 420 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa lên 3.480,
hầu hết là hoạt động có hiệu quả và đã có 81 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán;
các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước tiếp tục được kiện toàn, sản xuất kinh doanh đạt
kết quả tốt hơn. Đã có hơn 41.000 doanh nghiệp dân doanh được thành lập và đăng ký kinh
doanh, thu hút một nguồn lực lớn của xã hội vào sản xuất, kinh doanh. Đầu tư trực tiếp của nước
ngoài đạt kết quả khả quan, với tổng số vốn cấp phép mới và tăng thêm đạt khoảng 6,6 tỷ USD
và số vốn thực hiện khoảng 3,7 tỷ USD, tăng trên 19% so với năm 2005.
- Các hoạt động khoa học - công nghệ trọng điểm được đẩy mạnh. Cơ chế quản lý tiếp
tục được đổi mới theo hướng nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học -
công nghệ và thực hiện xã hội hoá nhằm huy động các nguồn lực cho công tác nghiên cứu và
ứng dụng khoa học - công nghệ. Nhiều doanh nghiệp chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ và ứng
dụng khoa học. Hình thức chợ và sàn giao dịch thiết bị công nghệ được tổ chức ở một số địa
phương, với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đã có những kết quả thiết
thực.
- Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông được triển khai tích cực. Công tác tổ
chức thi tuyển ở các cấp có tiến bộ. Quy mô đào tạo bậc đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề tiếp tục tăng. Cơ sở vật chất nhà trường được củng cố, tăng cường; gần 90% địa phương đã
hoàn thành chương trình kiên cố hoá trường, lớp, cải thiện điều kiện dạy và học, tạo diện mạo

mới cho các cơ sở giáo dục. Các trung tâm học tập cộng đồng tiếp tục được mở rộng. Cuộc vận
động chống tiêu cực trong ngành giáo dục đã có một số chuyển biến, được sự đồng thuận của xã
hội.
- Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả tốt hơn, được cộng đồng quốc tế đánh
giá cao. Các xã, các hộ sau khi thoát nghèo được chú ý hỗ trợ các điều kiện để phát triển sản
xuất.
- Sự chỉ đạo chủ động, quyết liệt, sâu sát của trung ương và các địa phương, cùng với sự
nỗ lực của nhân dân, của các lực lượng và cơ quan chức năng, chúng ta đã khống chế, ngăn chặn
được sự bùng phát, lan rộng của dịch cúm gia cầm, bệnh lở mồm long móng gia súc; đặc biệt đã
hạn chế được tối đa sự tổn thất về người và tài sản trong cơn bão số 6, cơn bão mạnh nhất trong
nhiều năm qua. Trong thiên tai bão lũ đã có nhiều hành động, nhiều tấm gương tiêu biểu trong
phòng chống và cứu trợ, đùm bọc lẫn nhau, cùng nhau vượt qua hoạn nạn, khó khăn.
- Mức lương tối thiểu chung và lương hưu, trợ cấp xã hội đã được điều chỉnh tăng lên từ
ngày 01 tháng 10 năm 2006, sớm hơn so với lộ trình cải cách tiền lương, đồng thời với việc thực
hiện các biện pháp để kiểm soát và bình ổn giá cả.
- Qua tổng kết giai đoạn I (2001 - 2005) thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành
chính 2001 - 2010 cho thấy, tuy còn không ít bất cập, yếu kém của cán bộ, công chức và cơ quan
công quyền, nhưng sau 5 năm thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính, hệ thống thể
chế tiếp tục được hoàn thiện, bộ máy hành chính các cấp đã có bước chuyển biến, chất lượng và
hiệu quả hoạt động được nâng lên. Việc đơn giản hoá, công khai hoá các quy trình, thủ tục hành
chính đã tạo thuận lợi nhiều hơn cho người dân và doanh nghiệp.
- Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí được đẩy mạnh. Đã tích cực chỉ đạo triển
khai thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật Phòng chống tham nhũng; ban
hành và tổ chức thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ về phòng chống tham nhũng,
lãng phí theo tinh thần Nghị quyết Trung ương III của Đảng.
- Quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
được chỉ đạo tích cực hơn; tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự tiếp tục được kiềm chế; kịp thời
phát hiện và làm thất bại nhiều âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; chính trị
xã hội ổn định, tạo môi trường thuận lợi hơn cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.
- Công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đạt nhiều kết quả. Một số hoạt động đối

ngoại quan trọng của Đảng, Nhà nước được triển khai và đã nâng thêm vai trò, vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Sau 11 năm kiên trì đàm phán, chúng ta đã kết thúc đàm phán cả song
phương và đa phương để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) theo phương án đề ra.
Đến nay đã hoàn thành cơ bản công tác chuẩn bị và thực hiện thành công nhiều hoạt động quan
trọng để tiến đến tuần lễ Hội nghị cấp cao APEC, lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam.
→Những thành tựu đạt được trong năm 2006 bắt nguồn từ thế và lực của đất nước, được tạo ra
qua những năm đổi mới, nhất là kết quả của 5 năm 2001 - 2005; sự nỗ lực và hoạt động có hiệu
quả của cả hệ thống chính trị và những cố gắng phấn đấu vượt bậc để vượt qua thách thức khó
khăn của các tầng lớp nhân dân, của cộng đồng các doanh nghiệp, đã tạo nên sức mạnh tổng hợp
để phát triển đất nước.
Yếu kém:
- Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng nghiêm túc nhìn nhận rằng, tình
hình kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Tốc độ tăng GDP tuy vượt kế hoạch đề ra
nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Chất lượng của sự tăng trưởng, nhất là sức cạnh
tranh của nền kinh tế tuy có được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều yếu kém. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch còn chậm. Việc phân bổ, quản lý và sử dụng các nguồn lực của nhà nước và xã hội còn kém
hiệu quả. Các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, sự phát triển
của khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, bảo vệ - cải thiện môi trường, chăm sóc sức khoẻ
nhân dân vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại
còn nhiều trở ngại. Đời sống nhân dân nhiều nơi ở nông thôn, nhất là miền núi, vùng bị thiên tai
còn nhiều khó khăn. Cải cách hành chính vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác phòng chống
tham nhũng, lãng phí tuy có được những kết quả, nhưng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm
trọng. Tai nạn giao thông vẫn ở mức cao.
- Lạm phát cao là một trong những rủi ro cho sự phát triển kinh tế. Lạm phát gia tăng sẽ
kéo theo lãi xuất và và chi phí sản xuất. Hậu qủa là sự gia tăng đầu tư sẽ bớt vì tiền lời cao và
giảm bới khả năng cạnh tranh của hàng xuất cảng. Giới nghèo với đồng lương cố định sẽ chịu
nhiều thiệt thòi hơn cả. Nhiều cuộc nghiên cứu đã chứng minh rằng lạm phát ở mức độ thấp
không có ảnh hưởng hoặc còn kinh tế phát triển. Trái lại, khi lên cao tới một mức nào đó (trên
1/3 mức phát triển) lạm phát sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực, nhất là đối với những nước đang phát
triển.

→Kinh tế Việt-Nam phát triển khả quan nhờ những yếu tố bên ngoài thuận lợi và chính
sách vĩ mô thận trọng. Trong khi đó những trở ngại bên trong đã và đang làm giảm bớt tốc độ
phát triển. Một nguy cơ Việt-Nam đang phải đối phó là sự phát triển thiếu quân bình giữa các
vùng và giữa hai giới giầu nghèo. Việc gia nhập WTO sẽ giúp kinh tế phát triển thêm nhưng
đồng thời sẽ làm cho sự phân hoá xã hội ngày càng trầm trọng nếu Việt-Nam không sẵn sàng đáp
ứng với những xáo trộn do sự hội nhập kinh tế toàn cầu tạo ra. Việc gia nhập WTO đánh dấu một
giai đoạn đổi mới thực sự. Nó đòi hỏi Việt-Nam thực hiện những cải tổ kinh tế sâu rộng và khó
khăn hơn những gì đã làm trong hai thập niên vừa qua. Việt-Nam cần phải chú trọng hơn về sự
phát triển hạ tầng cơ sở và chất lượng của sự phát triển thay vì chỉ máy móc nhắm vào những chỉ
tiêu. Với đà phát triển hiện nay, Việt-Nam vẫn không có cơ may để thoát khỏi tình trạng tụt hậu
và tham nhũng so với những nước láng giềng, dù mức độ phát triển của những nước này thua
kém Việt-Nam.
3) Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam năm 2007
Mặc dù gặp những tác động bất lợi của kinh tế thế giới và thiên tai, dịch bệnh ở trong
nước, nhưng kinh tế-xã hội Việt Nam đã có nhiều thành tích đáng khích lệ về tăng trưởng kinh
tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút vốn đầu tư, tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, thị trường
chứng khoán, vị thế quốc tế, giảm nghèo ; đồng thời cũng còn một số hạn chế, bất cập.
Thành tựu:
- Thành tích nổi bật là tăng trưởng kinh tế cao nhất so với tốc độ tăng của 12 năm trước
đó, đạt được mức cao của mục tiêu do Quốc hội đề ra, thuộc loại cao so với các nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế cao đã góp phần làm cho quy mô kinh tế lớn lên. GDP
tính theo giá thực tế đạt khoảng 1.143 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người đạt khoảng 13,42 triệu
đồng, tương đương với 71,5 tỉ USD và 839 USD/người! Đây là tín hiệu khả quan để có thể sớm
thực hiện được mục tiêu thoát khỏi nước nghèo và kém phát triển có thu nhập thấp vào ngay năm
tới.
- Cùng với tăng trưởng kinh tế cao là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.
Theo nhóm ngành kinh tế, nông, lâm nghiệp-thủy sản vốn tăng thấp, năm nay lại gặp khó khăn
do thiên tai, dịch bệnh lớn nên tăng thấp và tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành này tiếp tục
giảm (hiện chỉ còn dưới 20%). Công nghiệp-xây dựng tiếp tục tăng hai chữ số, cao nhất trong ba
nhóm ngành, nên tỷ trọng trong GDP tiếp tục tăng (hiện đạt gần 42%), phù hợp với giai đoạn đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Dịch vụ được mở cửa rộng hơn sau khi Việt Nam
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nên đã tăng cao hơn tốc độ chung, nhờ đó đã
chặn được sự sút giảm trong tỷ trọng GDP của nhóm ngành này trong thời kỳ 1995 - 2004 và cao
hơn năm trước. Theo thành phần kinh tế, kinh tế ngoài nhà nước, đặc biệt là kinh tế tự nhiên,
tăng trưởng cao hơn tốc độ chung, nên tỷ trọng của khu vực này trong GDP đã cao lên và hiện đã
đạt cao hơn khu vực nhà nước (46% so với dưới 37%). Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng
trưởng cao hơn tốc độ chung, nên tỷ trọng trong GDP cũng cao lên (hiện đạt trên 17%). Khu vực
ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tổng tỷ trọng trong GDP cao hơn, lại có
tốc độ tăng cao hơn khu vực nhà nước, nên đã trở thành động lực của tăng trưởng kinh tế chung,
phù hợp với đường lối đổi mới, mở cửa, hội nhập.
- Tăng trưởng kinh tế cao đạt được do sự tác động của cả hai yếu tố đầu vào và đầu ra.
+ Ở đầu vào, vốn đầu tư phát triển so với GDP đạt 40,6%, là tỷ lệ thuộc loại cao nhất từ
trước tới nay, cũng thuộc loại cao nhất so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới (có chăng
chỉ thấp thua tỷ lệ trên 44% của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - tỷ lệ góp phần làm cho
kinh tế nước này liên tục trong nhiều năm tăng trưởng hai chữ số). Đáng lưu ý, trong khi tỷ trọng
vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước trong tổng vốn đầu tư phát triển tiếp tục giảm xuống,
thì tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng lên (đạt 38%); hiệu quả đầu tư
của khu vực này lại cao gấp đôi khu vực kinh tế nhà nước. Vốn đầu tư nước ngoài đạt kỷ lục mới
ở cả ba nguồn. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp đạt được sự vượt trội cả về tổng số vốn đăng ký mới
và bổ sung (20,3 tỉ); cả về quy mô bình quân một dự án (trên 14 triệu USD/dự án); cả về cơ cấu
đầu tư vào nhóm ngành dịch vụ; cả về lượng vốn thực hiện (4,6 tỉ USD). Nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức cuối năm 2006 (cam kết cho năm 2007) đạt mức kỷ lục (4,4 tỉ USD); cuối năm
2007 (cam kết cho năm 2008) còn đạt kỷ lục cao hơn (trên 5,4 tỉ USD). Lượng vốn giải ngân
năm nay đạt 2 tỉ USD, vừa vượt kế hoạch, vừa đạt cao nhất từ trước tới nay. Nguồn vốn đầu tư
gián tiếp năm nay ước đạt 5,6 tỉ USD, cao gấp 4,3 lần năm trước.
+ Ở đầu ra, cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tăng cao. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng tới gần 23%; nếu loại trừ yếu tố tăng giá bình quân năm nay so
với năm trước (8,3%), thì vẫn còn cao gấp 1,6 lần tốc độ tăng GDP (13,7% so với 8,48%). Dung
lượng thị trường ước đạt gần 45 tỉ USD, với dân số đông mà hằng năm vẫn còn tăng cao, tiêu
dùng của dân cư vừa tăng về số lượng, vừa đa dạng về mẫu mã, chủng loại, vừa cao hơn về chất

lượng và tỷ lệ tiêu dùng thông qua việc mua và bán trên thị trường tăng nhanh, vừa là động lực
của tăng trưởng kinh tế trong nước, vừa có tác động "mời gọi" các nhà đầu tư nước ngoài. Xuất
khẩu đạt sự vượt trội cả về quy mô (48,4 tỉ USD, bằng trên 68% so với GDP), cả về tốc độ tăng
(21,5%, vượt kế hoạch, cao gấp 2,3 lần tốc độ tăng GDP).
- Tăng trưởng kinh tế cao nên chỉ số phát triển con người (HDI) đạt được nhiều sự vượt
trội. HDI tăng lên qua các năm (1985 mới đạt 0,590, năm 1990 đạt 0,620, năm 1995 đạt 0,672,
năm 2000 đạt 0,711, năm 2005 đạt 0,733, khả năng năm 2007 đạt trên 0,75%). Thứ bậc về HDI
tăng lên trong khu vực Đông Nam Á, ở châu Á và trên thế giới. Thứ bậc trên thế giới về HDI cao
hơn thứ bậc về GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương (105
so với 123), cao hơn hàng chục nước có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam, phù hợp
với nền kinh tế thị trường mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường theo định hướng dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tỷ lệ nghèo đã giảm (từ 17,8% xuống
còn 14,8%).
- Vị trí quốc tế của Việt Nam gia tăng với việc chính thức trở thành thành viên WTO,
được bầu làm Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Yếu kém:
Bên cạnh những thành tích trên, tình hình kinh tế - xã hội năm 2007 cũng bộc lộ một số
hạn chế, bất cập. Ngoài những hạn chế, bất cập tồn tại từ những năm trước, thì năm nay cũng nổi
lên ba vấn đề lớn. Giá tiêu dùng tăng cao nhất so với 11 năm trước đó và cao hơn tốc độ tăng
GDP. Nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối, cả về tỷ lệ nhập siêu. Ách tắc và tai nạn giao
thông nghiêm trọng
4) Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam năm 2008
- Năm 2008, thoạt đầu được nhận định là năm có nhiều thuận lợi, cho phép trong năm
nay cả nước phấn đấu đạt được nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 2006-2010. Nhưng
tình hình thực tế đã diễn ra theo chiều ngược lại. Ngay từ Quý I, do tác động của tình hình kinh
tế thế giới diễn biến phức tạp cộng với những khó khăn mới nảy sinh từ trong nước,nhiều chỉ dấu
của lạm phát và sự mất ổn định kinh tế vĩ mô đã xuất hiện ngày một nghiêm trọng. Kế hoạch
điều chỉnh do Đảng và Nhà nước ta đưa ra (tháng 4-2008) đã có sự chuyển hướng và xác định
nhiệm vụ trọng tâm: Phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội
và tăng trưởng hợp lý, bền vững; trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu.

- Đến nay, qua gần 10 tháng thực hiện quyết liệt, với quyết tâm cao “tình hình kinh tế -
xã hội của đất nước đã có những chuyển biến tích cực”. Việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô đã đạt được những kết quả bước đầu có ý nghĩa quan trọng (chỉ số tăng giá tiêu dùng giảm
dần từ tháng 6-2008, riêng tháng 9 còn 0,18%). Nền kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng khá
(cả năm khoảng 6,5%-7%). An sinh xã hội được quan tâm và triển khai thực hiện có kết quả,…
- Nhìn nhận về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2008, Báo cáo của WB đanh giá nền
kinh tế Việt Nam cũng sẽ tăng trưởng chậm lại theo tình hình kinh tế chung của thế giới.
- Tăng trưởng GDP sẽ vào khoảng 8% trong năm 2008, trong trường hợp thấp nhất, tăng
trưởng GDP Việt Nam sẽ rơi vào khoảng 7,5%. Tuy nhiên mức lạm phát của Việt Nam sẽ là trên
dưới 19%.
- Dựa trên các số liệu cập nhật của Tổng cục Thống kê Việt Nam và tình hình chung của
kinh tế thế giới, WB cho rằng nền kinh tế Việt Nam đang bộc lộ những dấu hiệu tăng trưởng quá
nóng.
- Tỷ lệ lạm phát tăng mạnh từ mức 6,6% (tháng 12/2006) lên mức 15,7% tính đến tháng
2/2008.
- Một mặt, lạm phát gia tăng thể hiện sự gia tăng giá quốc tế, đặc biệt là giá lương thực,
thực phẩm, xăng dầu và vật liệu xây dựng. Đồng thời đi cùng đó là việc gắn chính sách tỷ giá
đồng Việt Nam với đồng đô la Mỹ và một nền kinh tế đang ngày càng mở cửa, sự biến động về
giá cả của thế giới đã được phản ánh nhanh chóng trong mặt bằng giá trong nước.
- Giá xăng dầu trong nước tăng cũng phản ánh việc từng bước xoá bỏ trợ giá của Chính
phủ đối với các doanh nghiệp phân phối trong nước.
- Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, năm 2007 đã ghi nhận cán cân vãng lai
thâm hụt ở mức đáng lo ngại, ước khoảng 9,3% - 9,7% GDP. Tổng kim ngạch nhập khẩu tăng
gấn 40%, trong đó máy móc thiết bị tăng 56,5% do nhu cầu đầu tư của các dự án lớn trong nước.
Mức tăng nhập khẩu cũng cao tương tự đối với nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu dùng trong sản
xuất hàng may mặc và giày dép xuất khẩu, hoá chất, sản xuất thức ăn giá súc… ước tăng khoảng
40%.
- Cũng đồng thời trong năm 2007, giá tài sản tại Việt Nam tăng cao nhất trong vòng vài
chục năm trở lại đây, khi mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam là xúc tác, trợ lực cho giá
cổ phiếu những tháng đầu năm 2007 tăng phi mã, đã có lúc VN-Index lên đến trên 1.200 điểm.

Tuy nhiên, cơn sốt cổ phiếu lập tức chuyển qua kênh bất động sản vào những tháng cuối năm
2007, giá nhà đất tăng đột biến, gây ra tình trạng bong bóng trên thị trường BĐS.
- Dựa theo tiêu chuẩn quốc tế thì mức thâm hụt ngân sách của Việt nam trong năm 2007
ước khoảng 1% GDP. Mức đánh giá sơ bộ này không khác nhiều so với các năm trước.
- Thâm hụt ngân sách chung (bao gồm cả các hạng mục chi tiêu ngoài ngân sách như phát
hành trái phiếu của Chính phủ cho phát triển giáo dục, hạ tầng cơ sở, tái cấp vốn cho các ngân
hàng thương mại quốc doanh) ước tính ở mức 5% GDP.
Tuy vậy, tăng trưởng tín dụng ngân hàng trong năm 2007 thì lại ở mức rất cao, từ 25,4%
vào năm 2006 lên hơn 50% tính đến hết tháng 11/2007.
Tốc độ tăng quá lớn này đã gây ra những mối quan ngại về chất lượng các hạng mục đầu
tư của ngân hàng. Tín dụng của các ngân hàng cổ phần tăng cao đến 95%, trong khi mức tín
dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh chỉ ở mức 25%.
Gia nhập WTO đã tạo cho Việt Nam lợi thế trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài. Tính đến hết năm 2007, cam kết đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) tăng gấp đôi năm
2006, lên mức 20,3 tỷ USD, tổng giá trị thị trường chứng khoán đạt tới 43% GDP tính đến cuối
năm 2007, so mức 1,5% của năm 2005.
Việc lượng ngoại tệ vào nhiều đã khiến cho NHNN Việt Nam “đau đầu” trong việc đưa
ra những chính sách ứng xử thích hợp.
Trong thời gian cuối năm 2007 - đầu năm 2008, NHNN đã có những biện pháp dường
như trái ngược nhau dẫn đến tình trạng thiếu khả năng thanh toán cuả hệ thống ngân hàng
thương mại. NHNN mua vốn vào để duy trì tỷ giá tiền đồng đã làm ảnh hưởng đến tính thanh
khoản của tiền đồng trong nền kinh tế. Tính thanh khoản có thể được nâng cao nhờ nghiệp vụ
trung hoà, song NHNN gần như đã bán hết trái phiếu Chính phủ.
Đến quý 4/2007, NHNN đã không thể tiếp tục duy trì chính sách thắt chặt cung tiền đồng
bằng cách bán hối phiếu do tỷ giá đưa ra thiếu tính hấp dẫn.
- Trên thế giới, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra với quy mô lớn, diễn
biến phức tạp và hậu quả nặng nề so với dự báo trước đây. Kinh tế thế giới đang đứng trước
nguy cơ suy thoái. Tình hình này tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta.
- Bên cạnh đó, những mặt tồn tại và yếu kém vẫn còn nhiều: Lạm phát vẫn còn cao (cả
năm khoảng 24%); nhập siêu còn lớn (cả năm khoảng 19,4 tỉ USD bằng khoảng 29% kim ngạch

xuất khẩu); các cân đối vĩ mô chưa vững chắc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm so với trước,
chất lượng, hiệu quả còn thấp. Đời sống nhân dân, nhất là người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng
xa, vùng bị thiên tai còn nhiều khó khăn; việc xử lý nhiều vấn đề xã hội bức xúc còn hạn chế.
Nhận xét chung về tình hình kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2005-2008: Về cơ bản
thì tình hình kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này tương đối ổn định, tốc độ tăng trưởng
kinh tế ngày càng cao, chỉ số phát triển con người không ngừng được nâng cao, thu nhập bình
quân đầu người ngày một cải thiện và từ đó đời sống của nhân dân ngày một đi lên. Vị thế của
Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế đặc biệt khi Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới. Gia nhập vào sân chơi toàn cầu này đem lại
cho Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển, để đuổi kịp với sự phát triển của các nước trong khu
vực và trên thế giới nhưng cũng đem lại cho Việt Nam những thách thức không nhỏ. Việt Nam
hiện nay được đánh giá là một điểm đến cho các nhà đầu tư nước ngoài bởi vì Việt Nam có một
môi trường kinh doanh ổn đinh… (EM NGHĨ THÊM NHÉ!!!)
PHẦN B: TRÌNH BÀY CÁC MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 2005-2008
Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền
của chính phủ hay ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt- như kiềm chế
lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế.
Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp
hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi
trên thị trường ngoại hối.
Chính sách tiền tệ nhắm vào hai mục tiêu là lãi suất và lượng cung tiền. Thông thường,
không thể thực hiện đồng thời hai mục tiêu này. Chỉ để điều tiết chu kỳ kinh tế ở tình trạng bình
thường, thì mục tiêu lãi suất được lựa chọn. Còn khi kinh tế quá nóng hay kinh tế quá lạnh, chính
sách tiền tệ sẽ nhằm vào mục tiêu trực tiếp hơn, đó là lượng cung tiền.
Mục tiêu của Chính sách Tiền tệ
Rõ ràng là ngân hàng trung ương có thể điều chỉnh đến việc cung ứng tiền để tác động đến tổng
cầu và do đó tác động một cách tiềm tàng đến mức tăng trưởng GDP thực tế, mức thất nghiệp, và
mức tăng của giá cả.
- Do đó, về mặt lý thuyết, ngân hàng trung ương có thể dùng chính sách tiền tệ để ngăn chặn sự
biến động của nền kinh tế trong chu kỳ kinh tế.

- Chính sách như vậy được gọi là chính sách ngược chu kỳ - chính sách này được sử dụng để
cưỡng lại chu kỳ kinh tế.
- Khi nền kinh tế ở dưới mức tăng trưởng tự nhiên, về mặt lý thuyết ngân hàng trung ương có thể
tăng cung ứng tiền để cố gắng tăng AD và tăng mức tăng trưởng GDP thực tế.
- Khi nền kinh tế ở trên mức tăng trưởng tự nhiên, nó gây ra những áp lực lạm phát, và về mặt lý
thuyết ngân hàng trung ương có thể giảm tăng trưởng tiền tệ để giảm AD, và giảm áp lực lạm
phát.
- Tuy nhiên, trên thực tế ngân hàng trung ương không phải bao giờ cũng kiểm soát hoàn toàn
tình huống.
Các khó khăn của Chính sách Tiền tệ trên Thực tế
Trên thực tế, có rất nhiều khó khăn tiềm tàng đối với việc thực hiện chính sách tiền tệ.
- Như chúng ta đã thấy, cung ứng tiền bao gồm cả các khoản tiền gửi ngân hàng, mà nó được
quyết định một phần bởi hoạt động của ngân hàng trung ương, và một phần do quyết định của
các hộ gia dình/doanh nghiệp và ngân hàng. Do đó, sự thay đổi trong cung ứng tiền có thể không
chính xác như ngân hàng mong muốn.
- Thứ hai, có một loạt độ trễ trong việc thực thi chính sách tiền tệ, điều này có nghĩa là có thể
mất đến 18 tháng để áp dụng được chính sách tiền tệ cho toàn bộ nền kinh tế - điều này có thể
đến quá trễ! Ví dụ, ngân hàng trung ương có thể giảm lãi suất, nhưng các dự án đầu tư cần thời
gian để xây dựng và thực hiện, và các nhà máy có thể không hình thành và hoạt động trong
khoảng thời gian mong muốn.
- Thứ ba, chính sách tiền tệ sẽ tác động đến giá cả, và điều này có thể có tác động cản trở đến
chính sách tiền tệ. Ví dụ, nếu chúng ta đạt đến mức có đầy đủ việc làm, một chính sách tiền tệ
tăng lên sẽ làm tăng mức giá cả, và có ảnh hưởng nhỏ đến GDP thực tế và mức giá.
1) Chính sách tiện tệ năm 2005
Theo dự báo về diễn biến kinh tế trong nước và quốc tế, năm 2005 có nhiều yếu tố thuận
lợi cho hoạt động ngân hàng đó là: Chính phủ cam kết mạnh mẽ trong việc nâng cao khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế nói chung; môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường
kinh doanh tiếp tục ổn định; các doanh nghiệp từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh,
Tuy nhiên, trong bối cảnh diễn biến kinh tế, tiền tệ khó lường, các nhiệm vụ đã đặt ra cho
hoạt động ngân hàng nhiều thách thức, nhất là mục tiêu về mức tăng chỉ số giá tiêu dùng dưới

6,5% trong khi mục tiêu tăng trưởng đặt ra ở mức cao.
Vì vậy, nhiệm vụ của ngành ngân hàng năm 2005 hết sức nặng nề, không những phải góp
phần tích cực để thực hiện tốt mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ đề ra, mà còn phải khẩn trương
chuẩn bị cho quá trình hội nhập và gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Trong khi hệ thống các
tổ chức tín dụng vẫn là kênh chủ yếu đáp ứng vốn cho tăng trưởng kinh tế, nhiệm vụ trọng tâm
của hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân hàng năm 2005 đặt ra cụ thể như sau:
- Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt nhằm hỗ trợ tích cực việc thực hiện mục tiêu tăng
trưởng kinh tế 8,5%, ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, nâng cao chất lượng
tín dụng để tăng trưởng bền vững.
- Tiếp tục thực hiện chương trình hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán, mở
rộng và phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại; đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế về ngân
hàng; tăng cường năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng nhất là các
ngân hàng thương mại Nhà nước.
Về điều hành chính sách tiền tệ
Trên cơ sở các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô do Chính phủ đề ra và mục tiêu của chính sách tiền
tệ, một số chỉ tiêu tiền tệ năm 2005 được dự kiến như sau: tổng phương tiện thanh toán dự kiến
tăng khoảng 22%, tín dụng cho nền kinh tế tăng khoảng 25%, huy động vốn tăng khoảng 24% so
với năm 2004.
Bằng việc bám sát chủ trương chỉ đạo của Chính phủ và diễn biến thị trường trong nước
và quốc tế, Ngân hàng Nhà nước sẽ đưa ra các giải pháp linh hoạt về tiền tệ, tín dụng, lãi suất, tỷ
giá phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ cụ thể như sau:
- Điều hành lãi suất linh hoạt sát với diễn biến cung cầu vốn, không gây ra các cú sốc đột
biến trên thị trường, đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa lãi suất danh nghĩa và chỉ số giá, đảm bảo
lợi ích của người gửi tiền. Tiếp tục cải tiến cơ chế điều hành lãi suất kết hợp đồng bộ với việc
điều hành các công cụ chính sách tiền tệ khác để tăng cường khả năng điều tiết lãi suất thị
trường.
- Tiếp tục điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở như một công cụ chủ yếu trong
điều hành chính sách tiền tệ. Để nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của nghiệp vụ thị trường mở,
Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống thông tin, nhất là thông tin về thị trường
liên ngân hàng phục vụ công tác dự báo vốn khả dụng; hoàn thiện cơ chế, cải tiến quy trình

nghiệp vụ thị trường mở, tạo thuận lợi cho các thành viên tham gia thị trường.
- Trên cơ sở theo dõi sát các diễn biến tăng trưởng tín dụng, chỉ số giá và lãi suất, điều
chỉnh linh hoạt, kịp thời tỷ lệ dự trữ bắt buộc phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ.
- Điều hành linh hoạt tỷ giá, bám sát cung cầu về ngoại tệ trên thị trường, không để xảy
ra các cú sốc đột biến về tỷ giá. Điều hành tỷ giá gắn liền với việc can thiệp thị trường kịp thời
trên cơ sở theo dõi sát diễn biến thị trường và phát triển mạnh các công cụ phòng ngừa rủi ro trên
thị trường ngoại hối; đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa lãi suất VND, tỷ giá và lãi suất ngoại tệ
tránh gây tác động xấu đối với thị trường và phát triển kinh tế.
- Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ. Phát triển
thị trường tiền tệ thứ cấp nhằm tăng tính thanh khoản của các công cụ thị trường tiền tệ, tạo
thuận lợi cho các thành viên tham gia thị trường. Đa dạng hóa các công cụ và phương thức giao
dịch trên thị trường tiền tệ.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế cấp tín dụng, cơ chế phân loại nợ và bảo đảm tiền vay phù
hợp với thông lệ quốc tế và pháp luật liên quan nhằm đánh giá đúng chất lượng tín dụng, trích đủ
dự phòng rủi ro, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức tín dụng, đảm bảo an
toàn trong hoạt động tín dụng; nghiên cứu sửa đổi cơ chế cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng theo hướng thu hẹp đối tượng cho vay ngoại tệ nhằm hạn chế tốc độ,
quy mô tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ; kiểm soát tăng trưởng tín dụng theo mục tiêu bằng
các giải pháp điều hành công cụ chính sách tiền tệ, tăng cường thanh tra giám sát và cảnh báo kịp
thời về an toàn hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng; khống chế tỷ trọng cho vay trung và
dài hạn ở mức phù hợp với khả năng huy động nguồn vốn dài hạn, tránh rủi ro về kỳ hạn; tiếp tục
thực hiện xoá bỏ bao cấp qua tín dụng thương mại, tách bạch tín dụng thương mại với tín dụng
chính sách.
Trong năm 2005, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện khoảng 160 phiên mua bán, chủ yếu
là các phiên chào mua, với doanh số vốn cung ứng hàng ngàn tỷ đồng. Đây là công cụ có tính thị
trường cao, giúp các ngân hàng thương mại xử lý nhanh sự thiếu hụt về vốn.
Năm 2005 cũng là năm cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thặng dư khoảng 1,9 tỷ USD,
gấp hơn hai lần so với mức 863 triệu USD năm trước. Theo nhận định của Ngân hàng Nhà nước,
thặng dư cán cân thanh toán quốc tế tăng cao góp phần làm giảm sức ép điều chỉnh tỷ giá ngoại
tệ và kiềm chế lạm phát trong nước.

Trong bối cảnh cán cân thương mại nhập siêu ở mức khá lớn, việc điều hành tỷ giá cũng đã được
Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh ở mức thích hợp để góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ,
khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu và hạn chế tác động làm tăng lạm phát từ nhập
khẩu cũng như giảm áp lực cho doanh nghiệp.
Cùng với việc điều hành chính sách tỷ giá thả nổi có kiểm soát, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục
mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối. Ước tính đến cuối năm 2005, dự trữ ngoại hối của Việt
Nam đã ở mức trên 10 tuần nhập khẩu hàng hóa, trong khi mức dự trữ vào thời điểm cuối năm
2004 là 9 tuần, đủ khả năng can thiệp để ổn định thị trường ngoại tệ.
Cụ thể: Đợt tăng giá dầu lần thứ 4 (từ năm 2004 đến nay) gây nhiều lo ngại về ảnh hưởng tới
kinh tế vĩ mô và những vấn đề mà chính sách tiền tệ phải đối mặt.
-Khi giá dầu tăng cũng có nghĩa là các nhóm hàng hóa nhất định trong thành phần của
CPI mà chủ yếu là nhóm xăng, dầu nhiên liệu gia tăng. Đồng thời, giá dầu gia tăng làm tăng chi
phí sản xuất của các doanh nghiệp và do đó làm tăng giá bán thành phẩm.
- Khi giá dầu tăng dẫn đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng làm lợi nhuận doanh
nghiệp bị co lại, dẫn đến sản xuất suy giảm, tổng cung của nền kinh tế vì vậy sẽ suy giảm. Mặt
khác, khi giá dầu tăng cũng làm tăng phần chi tiêu cho các sản phẩm về dầu và phần chi tiêu cho
các sản phẩm ngoài dầu đương nhiên sẽ bị giảm xuống khiến tổng cầu nền kinh tế cũng giảm.
Như vậy, một sự tăng lên trong giá dầu sẽ đồng thời làm cả tổng cung và tổng cầu đều suy giảm.
Cả hai tác động này cùng làm sản xuất suy giảm dẫn đến tăng trưởng kinh tế suy giảm nhưng lại
tác động ngược chiều đến lạm phát
→Giá dầu tăng cùng lúc có xu hướng đẩy lạm phát gia tăng và làm tăng trưởng kinh tế suy
giảm, nên thường gây khó khăn cho chính sách tiền tệ. Ngân hàng Trung ương chỉ có một
công cụ là lãi suất chủ chốt và có thể sử dụng nó để tác động lên tổng cầu (hay tăng trưởng kinh
tế) và lạm phát theo cùng một hướng (đối với Việt Nam, lãi suất đã được tự do hóa, do đó lãi
suất thị trường sẽ bị tác động thông qua việc các công cụ chính sách tiền tệ tác động lên mức
cung tiền). Khi lãi suất được cắt giảm, tổng cầu trong nền kinh tế tăng lên tác động thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế đồng thời cũng làm lạm phát tăng lên, và khi lãi suất tăng lên thì tăng trưởng kinh
tế và lạm phát cùng giảm.
Như vậy, nếu có một cú sốc tác động vào vào tăng trưởng kinh tế và lạm phát theo hướng
ngược nhau như cú sốc về giá dầu thì Ngân hàng Trung ương sẽ gặp khó khăn trong việc cùng

lúc phải ổn định lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm hướng tới
việc giảm mạnh lạm phát thì điều này sẽ khiến tăng trưởng kinh tế cũng sẽ suy giảm hơn nữa.
Nếu thay vào đó Ngân hàng Trung ương cân nhắc khuyến khích tăng cầu thì trong một phạm vi
nào đó nhằm trung hòa bớt sự suy giảm của tăng trưởng kinh tế (do cả tổng cung và tổng cầu của
nền kinh tế đều đã suy giảm trước sự gia tăng của giá dầu) bằng Chính sách tiền tệ nới lỏng thì
kết quả sẽ là lạm phát tăng lên, và một khi lạm phát gia tăng thì kỳ vọng cũng tăng lên theo do đó
sẽ khó khăn hơn nữa trong việc kiểm soát lạm phát.
Như vậy, khi giá dầu tăng cao thì một chính sách tiền tệ linh hoạt cần thiết phải được thực hiện,
đó là chính sách tiền tệ ”thắt chặt” vừa đủ để tránh sự thúc đẩy lạm phát hơn nữa từ việc giá dầu
tăng cao nhằm kiềm chế việc lan tỏa tới tiền lương, giá các nhóm hàng hóa khác và lạm phát kỳ
vọng; và chính sách tiền tệ ”nới lỏng” vừa đủ để tránh những tác động tiêu cực không cần thiết
tới tăng trưởng kinh tế. Đây là quy tắc hoạch định chính sách linh hoạt, nhưng cũng khó để có
thể nói cụ thể hơn. Câu hỏi về việc chính sách nào sẽ là thích hợp nhất phải được xác định trong
từng trường hợp, phụ thuộc vào môi trường kinh tế vĩ mô hiện tại, đặc biệt là những nhân tố khác
tác động vào lạm phát hiện tại và những dự báo về giá dầu trong tương lai.
2) Chính sách tiện tệ năm 2006
Năm 2006, thị trường tiền tệ tương đối ổn định, mặt bằng lãi suất chỉ tăng nhẹ, tỷ giá ổn
định cả năm, đặc biệt lạm phát đã giảm so với năm 2005. Tuy nhiên khi gần như trong cả năm,
các ngân hàng dư thừa vốn khả dụng.
Mức tăng trưởng tín dụng đã nằm ở mức kế hoạch, chỉ tăng 20%, thấp hơn nhiều so với
những năm trước. dự trữ ngoại hối năm 2006 tăng khá lớn, tương đương 2,5 tỷ USD, trong khi
năm 2005 chỉ tăng 2 tỷ USD. Nhưng nguồn cung ngoại hối lớn cũng đã tạo “sức ép ngược” lên
tỷ giá, tức là tăng giá VND, chứ không phải giảm giá như giai đoạn rất dài vừa qua. Nói cách
khác, dư thừa ngoại hối sẽ khiến tỷ giá giảm, chứ không phải là tăng, và thực tế đến cuối tháng
12/2006, khi NHNN hết chỉ tiêu cung tiền mua ngoại tệ, ngoại tệ dư thừa ngoài thị trường, tỷ giá
đã giảm, đồng USD đã xuống giá vào những ngày cuối năm 2006. đồng USD đã bị xuống giá
vào những ngày cuối năm 2006. Về mặt vĩ mô, sẽ không có lợi nếu cứ để đồng tiền tiếp tục lên
giá. Mặc dù vậy, tín hiệu thị trường cũng đã có những mặt tích cực, đó là tỷ giá có lên, có xuống,
chứ không phải chỉ lên như trước.
Theo các chuyên gia kinh tế, nguồn cung ngoại tệ vào Việt Nam tăng trong năm 2007 sẽ

tiếp tục tạo sức ép tăng giá VND. Chính vì vậy, việc NHNN phải điều hành làm sao để giảm giá
VND ở mức hợp lý, vừa khuyến khích được xuất khẩu, vừa kiểm soát được nhập khẩu, không
góp phần tác động xấu đến mức lạm phát nền kinh tế, là yêu cầu không đơn giản.
Thị trường tiền tệ có sự tác động nhất định đối với việc kiểm soát lạm phát. Trên thực tế,
về lâu dài, vai trò của NHNN sẽ tập trung chủ yếu vào ổn định giá trị đồng tiền và thực hiện
chính sách lạm phát mục tiêu.
3) Chính sách tiện tệ năm 2007
Ngay từ đầu năm 2007, nhiệm vụ ngân hàng là “Yêu cầu đặt ra là phấn đấu đạt mục tiêu tăng
trưởng kinh tế cao ở mức 8,5%. Ngành Ngân hàng cần phải tranh thủ thời cơ, đóng góp tích cực
vào việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững, hiệu quả. Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) cần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của NHNN, làm tốt
hơn công tác tham mưu cho Chính phủ và triển khai điều hành tốt chính sách tiền tệ (CSTT) để
đảm bảo ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát; vận hành các công cụ CSTT theo cơ chế thị trường;
đồng thời, có những cảnh báo sớm về diễn biến thị trường để tránh gây đột biến, dẫn tới đỗ vỡ
trên tổng thể”.
Các giải pháp điều hành CSTT
Thực hiện ý kiến trên, NHNN trong thực thi CSTT đã bám sát mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế, kiểm soát lạm phát, đảm bảo sự ổn định tiền tệ, ổn định hệ thống ngân hàng, góp phần
ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, bền vững trong
môi trường hội nhập kinh tế quốc tế - nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít thách thức. Trên cơ
sở đánh giá và dự báo kịp thời chiều hướng biến động của kinh tế tiền tệ trong nước và quốc tế,
trong năm 2007, NHNN đã thực hiện các giải pháp điều hành CSTT như sau:
Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND gây bất lợi cho
tăng trưởng kinh tế.
Trong phạm vi khối lượng tiền cung ứng tăng được Chính phủ phê duyệt năm 2007, NHNN
đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết có hiệu quả khối lượng tiền cung ứng này,
nhằm đạt mục tiêu mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, hạn chế sức ép tăng giá đồng
Việt Nam, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối, nhưng đồng thời cũng hút mạnh lượng tiền đã
cung ứng ra cho mục đích mua ngoại tệ để giảm mức độ dư thừa vốn khả dụng của các NHTM,
hạn chế sự giá tăng của tổng phương tiện thanh toán (TPTTT), qua đó giảm áp lực lạm phát. Cụ

thể:
- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã hút được một lượng tương đối lớn vốn khả
dụng dư thừa của các TCTD, đồng thời vẫn điều tiết kịp thời sự thiếu hụt vốn mang tính thời
điểm của một số TCTD, đảm bảo duy trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất thị trường.
- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để hạn chế
mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng tín dụng vào những
lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong những tháng cuối năm.
- Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHNN công bố, nhằm phát tín hiệu ổn định lãi
suất thị trường. Đồng thời, trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ dồi dào, từ 01/03/2007, NHNN
đã chính thức thực hiện bỏ qui định về trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD để
hoàn toàn tự do hóa lãi suất thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết khấu trong
hạn mức phân bổ.
Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở cửa thị trường tài
chính.
- Ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5%
và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%. Đồng thời NHNN đã thực hiện việc mua
ngoại tệ theo nhu cầu bán của các NHTM, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức quốc tế với tỷ giá
phù hợp để hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam và tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà
nước. Chênh lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ của NHNN và tỷ giá bình quân trên thị trường liên
ngân hàng đã được thu hẹp, phản ánh sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
- NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu thanh khoản và
sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính theo tuần nhập khẩu hàng hoá
và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007.
Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng tổng
phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.
Bên cạnh việc sử dụng các công cụ CSTT để thu hút tiền dư thừa của các TCTD để hạn chế
việc mở rộng quá mức đầu tư tín dụng và tăng TPTTT, NHNN tiếp tục thực hiện hoàn thiện cơ
sở pháp lý và yêu cầu các TCTD thực hiện các quy định về kiểm soát rủi ro, quy mô, chất lượng
tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế .
Những kết quả đạt được
Với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiềm
chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng
trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về lãi suất và
tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc tế
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày giữa tháng
11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy động và cho vay
của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện
cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tính đến cuối tháng 9/2007, huy động
vốn của các TCTD tăng 31,2%, ước cả năm tăng 39,6%, cao hơn tốc độ tăng 33,1% của năm
2006; tín dụng đến cuối tháng 9 tháng tăng 30,9%, ước cả năm tăng 37,8%, cao hơn nhiều so với
tốc độ tăng 22,8% của năm 2006).
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong bối cảnh
lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn định thị trường
tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác
động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.
- Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo chiều hướng
tích cực
+ Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống mức 17,8% năm 2007.
+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm 2007 -
giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.
- Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế
+ Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến tích cực, các sản phẩm
dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn nhiều so với những năm trước đây, nhiều lĩnh vực cho vay
đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn
vốn vay ngân hàng để phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần
ổn định xã hội, cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các hộ
nghèo, hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện

mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa dạng
đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của xã hội.
+ Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm dần cả số
tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển ổn
định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng được theo dõi, giám sát chặt chẽ nhằm góp
phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân hàng và thúc đẩy thị trường bất động
sản phát triển bến vững.
+ Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%, có xu hướng giảm
so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các nhóm TCTD đều giảm.
Cụ thể là: tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nhà nước là 2,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các
NHTM cổ phần là 1,26% (giảm 0,34%); tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng liên doanh và chi nhánh
nước ngoài là 0,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các TCTD khác là 2,4% (giảm 0,5%).
Những thách thức phải đối mặt
Có thể nói, điều hành CSTT năm 2007 về cơ bản, đạt đuợc mục tiêu đặt ra, tuy nhiên, trong
bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO nên việc
điều hành CSTT đã phải đối mặt với nhiều thách thức làm cho việc thực hiện mục tiêu ban đầu
còn có hạn chế nhất định.
Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là dòng vốn đầu tư nước
ngoài vào nhiều (Theo số liệu thống kê đến tháng 10/2007, doanh số phát sinh tiền gửi bằng
VND của người không cư trú tại các NHTM thì có khoảng 13 tỷ USD của người không cư trú
được chuyển cho người cư trú cho mục đích đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào bất
động sản và chi tiêu các nhu cầu tiêu dùng khác trong nước). Tình hình này đã có tác động làm
tăng tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế ( tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép
làm VND lên giá; dự trữ vượt của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân tố thúc đẩy tín
dụng tăng nhanh; dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động thúc đẩy thị trường
chứng khoán phát triển mạnh hơn, và một lượng vốn nhất định cuả dân cư cũng như từ hệ thống
ngân hàng được đầu tư trên thị trường chứng khoán, qua đó đã làm tăng dư nợ cho vay nền kinh
tế; cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài là sự tăng giá khó lường mang tính
toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thô, giá lương thực, bên cạnh đó là hạn hán lũ
lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có tác động mạnh đến mức mức giá tiêu dùng nói chung.

Trong bối cảnh trên, CSTT phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ tích cực cho
tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng là cực kỳ khó
khăn. Giải pháp ổn định lãi suất và tỷ giá danh nghĩa hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế và
ổn định thị trường tiền tệ không để xẩy ra sự dịch chuyển dòng vốn, nhưng lại rất khó khăn để
kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.
Chính vì vậy, NHNN đã gặp khó khăn trong việc kiểm soát TPTTT, tín dụng, qua đó đã chưa
kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu đặt ra: TPTTT của Việt Nam tăng mạnh trong năm 2007
là khó tránh khỏi khi dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều như năm nay. Muốn hạn chế gia
tăng TPTTT, thì cần phải hạn chế sự gia tăng của dòng vốn này. Tuy nhiên, hạn chế dòng vốn
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là vấn đề không đơn giản khi Việt Nam đã gia nhập WTO, thị
trường tài chính từng bước tự do hóa. Vì vậy, việc hạn chế sự gia tăng nguồn vốn nước ngoài
nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN, mà đòi hỏi phải có chính sách vĩ mô đồng bộ để đảm bảo
việc sử dụng nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả, giám sát chặt chẽ luồng vốn đầu tư gián tiếp,
hạn chế tình trạng đầu cơ trên thị trường chứng khoán,… nhằm hạn chế những tác động bất lợi
của dòng vốn này.
Bên cạnh đó, việc Việt Nam gia nhập WTO tạo cơ hội thuận lợi cho hệ thống ngân hàng Việt
Nam phát triển, qui mô các NHTM được mở rộng, các doanh nghiệp cũng có nhu cầu đầu tư mở
rộng sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh đã gây sức ép mở rộng tín dụng tăng quá nhanh của các
NHTM, gây tiềm ẩn rủi ro: tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM cao hơn nhiều so với các
năm từ năm 2001 - 2006, nhất là tín dụng ngoại tệ tăng hơn gấp hai lần, bắt đầu vượt ngưỡng an
toàn (tỷ trọng giữa dư nợ cho vay bằng ngoại tệ với tổng tiền gửi bằng ngoại tệ đã vượt 90%); cơ
cấu đầu tư tín dụng đa dạng hơn nhiều so với cơ cấu đầu tư của 5 năm trước đó, ngoài các lĩnh
vực cho vay truyền thống thì lĩnh vực cho vay tiêu dùng đã phát triển nhanh hơn những năm
trước. Dư nợ tín dụng trong lĩnh vực này chiếm đến 20 - 30% tổng dư nợ của khối NHTMCP.
Riêng cho vay nhà đất có NHTM dư nợ chiếm đến 20%; thị trường chứng khoán phát triển mở ra
một lĩnh vực đầu tư mới cho các NHTM, cũng góp phần làm tăng dư nợ tín dụng nền kinh tế. Sự
phát triển nhanh của thị trường tín dụng cũng đã xuất hiện những dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro, như
cho vay ngoại tệ tăng trưởng quá mức so với nguồn vốn; việc nới lỏng các điều kiện vay vốn của
các NHTMCP; các lĩnh vực cho vay bất động sản, chứng khoán đã chiếm tỷ lệ không nhỏ trong
tổng dư nợ ở một số NHTM Thực tế này đòi hỏi phải tăng cường việc quản lý, giám sát rủi của

các cơ quan quản lý tiền tệ mà trực tiếp là NHNN, cũng như từ chính các NHTM; thêm vào đó,

×