Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Cơ sở hình thành các phương pháp kế toán và mối quan hệ giữa các phương pháp kế toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.02 KB, 23 trang )

- - -    - - -
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐÀ NẴNG
KHOA: KẾ TOÁN
MÔN: ĐỀ ÁN MÔN HỌC
CHỦ ĐỀ: Cơ sở hình thành các phương pháp kế toán và
mối quan hệ giữa các phương pháp kế toán
Thực hiện: Nguyễn Thị Thúy.36k06.2
GVHD: TS. NGÔ HÀ TẤN
NĂM 2013
1
LỜI MỞ ĐẦU
Kế toán là một khoa học thu thập, xử lí và cung cấp thông tin về tài sản, nguồn hình
thành tài sản và sự vận động của tài sản trong các tổ chức. Kế toán không chỉ phản ánh tài
sản của đơn vị ở trạng thái tĩnh và còn phản ánh sự vận động của tài sản. Trong quá trình
vận động tài sản không chỉ biến đổi về mặt hình thái mà còn có sự biến đổi về lượng giá
trị. Như vậy, có thể nói đặc điểm của đối tượng kế toán là vô cùng đa dạng, có tính hai
mặt và vận động. Do đó hệ thống phương pháp kế toán đã được xây dựng để xử lí thông
tin phù hợp với những đặc điểm này của đối tượng kế toán.
Trong thực tế, kế toán phải vận dụng các phương pháp kế toán một cách cực kỳ linh
hoạt để có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó là quá trình thu thậpthông
tin ban đầu được thực hiện qua phương pháp chứng từ, quá trình xử lý thông tin được thực
hiện qua phương pháp tài khoản-ghi kép, phương pháp đo lường và cuối cùng là khâu cung
cấp thông tin đầu ra được thực hiện bởi phương pháp tổng hợp cân đối.
Trong hệ thống các phương pháp kế toán này, mỗi phương pháp đều có tính độc lập
tương đối nhưng không hề tách rời nhau nằm trong một chỉnh thể, nên giữa chúng có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, làm tiền đề cho nhau trong việc thu thập, ghi
nhận, xử lý và phản ánh thông tin các hoạt động của một đơn vị cụ thể. Phương pháp nào
cũng đều quan trọng và không thể bỏ qua.
Để nghiên cứu sâu hơn về cơ sở hình thành các phương pháp kế toán và mối quan hệ
giữa các phương pháp kế toán, nhằm trau dồi kiến thức về chuyên ngành kế toán và chuẩn
bị cho mình một “hành trang” để có thể vận dụng vào công tác chuyên môn sau này, với


sự hướng dẫn tận tình của thầy Ngô Hà Tấn em đã lựa chọn đề tài “Cơ sở hình thành các
phương pháp kế toán và mối quan hệ giữa các phương pháp kế toán”.
Với kiến thức và trình độ có hạn “đề án môn học” này sẽ không tránh khỏi những
khiếm khuyết nhất định. Kính mong nhận được sự thông cảm và đóng góp ý kiến của thầy
để bản đề án này được hoàn thiện hơn.
Khoa Kế Toán
Trường Đại Học Kinh tế - Đại Học Đà Nẵng
SVTH: Nguyễn Thị Thúy_ 36k06.2.
GVHTD: TS. Ngô Hà Tấn
Năm học 2012-2013
2
A/ CƠ SỞ HÌNH THÀNH CÁC PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN:
I/ PHƯƠNG PHÁP CHỨNG TỪ KẾ TOÁN
1. Cơ sở hình thành phương pháp chứng từ:
- Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính của các đơn vị kế toán luôn
luôn được thể hiện ở các nghiệp vụ kinh tế. Nói cách khác hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng như hoạt động tài chính của đơn vị kế toán được cấu thành bởi các nghiệp vụ kinh tế.
Với chức năng thông tin và kiểm tra về tình hình kinh tế, tài chính của đơn vị, công việc
của kế toán hằng ngày là cần phải theo dõi, ghi chép và phản ánh các đối tượng kế toán
của đơn vị ngay từ khi có sự hình thành hay bắt đầu có sự vận động. Do đó đòi hỏi phải có
một phương pháp khoa học để có thể thu nhận được ngay những thông tin ban đầu về các
đối tượng kế toán.
- Giữa các quan hệ kế toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và vận động liên tục theo
không gian, thời gian với quy mô khác nhau, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh,
tình hình tài chính, trách nhiệm cá nhân và tập thể có liên quan. Do vậy, cùng với việc lựa
chọn phương pháp phản ánh phải lựa chọn được một phương thức thông tin về tình trạng
và sự biến động của đối tượng kế toán, cho từng bộ phận hoặc cá nhân chịu trách nhiệm về
nhiệp vụ đó, đồng thời phải thiết lập những đường dây thông tin kịp thời, hữu ích cho các
cấp quản lí về các đối tượng cụ thể có liên quan trong nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Xuất phát từ những yêu cầu đó đã đặt ra cho kế toán nhiệm vụ phải xác định được một

phương pháp tối ưu, nhằm thu nhập thông tin ban đầu và phản ánh được các nghiệp vụ
kinh tế phù hợp với sự biến động của từng đối tượng kế toán. Đó chính là phương pháp
chứng từ kế toán.
2) Ý nghĩa phương pháp chứng từ kế toán.
- Phương pháp chứng từ có hình thức biểu hiện là hệ thống bản chứng từ, dùng để chứng
minh tính hợp pháp (các hoạt động kinh tế xảy ra là có thật, không khai sai, khai khống…)
của việc hình thành các nghiệp vụ kinh tế và phản ánh một cách trung thực, khách quan
các nghiệp vụ đó theo các chỉ tiêu đặc trưng (thời gian, không gian, địa điểm phát sinh…)
vào các bản chứng từ, từ đó làm căn cứ để ghi sổ kế toán và thông tin tinh kinh tế cho
những nghiệp vụ đó.
- Phương pháp chứng từ kế toán là phương pháp thích hợp nhất với tính đa dạng và sự biến
động của đối tượng kế toán, có khả năng theo sát từng nghiệp vụ, “sao chụp” nguyên hình
3
các nghiệp vụ đó trên các bản chứng từ (bằng cách ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh vào bản chứng từ). Nhờ có phương pháp này mà kế toán có thể thu nhận, cung cấp
đầy đủ, kịp thời, chính xác và trung thực hợp lý những thông tin về các hoạt động kinh tế,
tài chính xảy ra ở những thời gian và địa điểm khác nhau. Từ đó, làm cơ sở cho công tác
hạch toán kế toán, xử lý các nghiệp vụ kinh tế này.
-Chứng từ hợp pháp là căn cứ pháp lý cho việc bảo vệ tài sản, xác minh tính hợp pháp
trong giải quyết các mối quan hệ kinh tế - tài chính thuộc đối tượng của kế toán. Qua đó
làm căn cứ cho việc kiểm tra, thanh tra hoạt động sản xuất kinh doanh, là cơ sở pháp lý
cho mọi thông tin kế toán. Từ đó phát hiện, ngăn ngừa và xử lý những hiện tượng vi phạm
chính sách chế độ, thể lệ kinh tế, tài chính do Nhà nước ban hành, những hành vi tham ô,
lãng phí tài sản nhằm bảo vệ tài sản của đơn vị, đảm bảo lợi ích cho cả doanh nghiệp và
Nhà nước.
- Phương pháp chứng từ là phương tiện thông tin hoả tốc, phục vụ công tác lãnh đạo
nghiệp vụ ở đơn vị, là phương tiện cấp trên truyền đạt mệnh lệnh và chỉ thị công tác cho
cấp dưới (giấy tạm ứng, chi tiền mặt, lệnh xuất kho NVL…) và căn cứ vào đó cấp dưới
thực hiện nhiệm vụ tương ứng của mình nhằm phục vụ cho công tác phân tích kinh tế hằng
ngày ở đơn vị.

- Chứng từ gắn sự phát sinh các nghiệp vụ kinh tế với trách nhiệm vật chất của các đối
tượng có liên quan. Qua đó góp phần thực hiện triệt để việc hạch toán kinh doanh nội bộ,
khuyến khích lợi ích vật chất gắn liền với trách nhiệm vật chất của tưng cá nhân, đơn vị cụ
thể. Trong quá trình hoạt động của một doanh nghiệp những tranh chấp, khiếu nại… về
kinh tế, tài chính liên quan đến lợi ích, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức là khó lòng có thể
tránh khỏi,thì khi đó chứng từ kế toán là cơ sở quan trọng nhất để giải quyết và tiến hành
kiểm tra kinh tế, kiểm tra kế toán trong đơn vị. Cụ thể: những người lập, người ký duyệt và
những người khác kí tên trên chứng từ kế toán phải chịu trách nhiệm về nội dung của bản
chứng từ đó.
- Chứng từ là cơ sở để phân loại, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo từng đối
tượng hạch toán để ghi vào sổ sách kế toán và các số liệu thông tin kinh tế của đơn vị theo
từng đối tượng cụ thể.Với vị trí quan trọng và tác dụng to lớn trong công tác quản lý nói
chung và hạch toán kế toán nói riêng của đơn vị, nó được áp dụng trong tất cả các đơn vị
kế toán, không phân biệt các ngành sản xuất, các thành phần kinh tế khác nhau. Lập chứng
4
từ là bước đầu tiên của quy trình kế toán, nó ảnh hưởng đầu tiên và trực tiếp đến chất
lượng các khâu sau của công tác kế toán và thông tin kế toán. Vì vậy lập chứng từ kế toán
phải đảm bảo yêu cầu: trung thực, chính xác, kịp thời, đầy đủ và về nội dung phải đảm bảo
tính hợp lệ, hợp pháp.
II. PHƯƠNG PHÁP TÀI KHOẢN & GHI KÉP:
1/ Cơ sở hình thành phương pháp tài khoản & ghi kép :
- Như đã giới thiệu ở trên, phương pháp chứng từ cho chúng ta biết được thông tin về sự
hình thành nghiệp vụ kinh tế liên quan đến tình trạng và sự vận động của từng đối tượng kế
toán. Tuy nhiên các nghiệp vụ kinh tế trong doanh nghiệp phát sinh rất nhiều, do đó số
lượng chứng từ rất lớn và khác nhau về đối tượng phản ánh, thời gian địa điểm. quy mô
của nghiệp vụ. Bên cạnh đó chứng từ chỉ đơn thuần là hình thức “sao chụp” lại nghiệp vụ
kinh tế, nghĩa là mới chỉ cung cấp được những thông tin ban đầu một cách riêng lẻ, mà nhu
cầu quản lý thì luôn cần những thông tin mang tính tổng hợp về tình hình biến động của
từng loại tài sản, nguồn vốn, từng quá trình kinh doanh Có như vậy mới thực hiện sự
giám sát và phản ánh chặt chẽ tình hình của tài sản, nguồn vốn và hoạt động kinh doanh

của đơn vị.
- Với nội dung của đối tượng kế toán bao gồm tài sản, nguồn vốn, quá trình kinh doanh,
các quan hệ kinh tế khác. Vì vậy, cần phải có loại tài khoản phản ánh tài sản, tài khoản
phản ánh nguồn vốn, tài khoản phản ánh quá trình kinh doanh, tài khoản phản ánh các
quan hệ kinh tế khác.
- Sự vận động của đối tượng kế toán bao giờ cũng là sự vận động của hai mặt đối lập.
Chẳng hạn, tiền mặt có những nghiệp vụ thu và chi; nguyên liệu vât liệu có nhập và xuất;
vay nợ ngân hàng có vay và trả nợ vay…Hơn nữa mỗi nghiệp vụ kinh tế luôn phản ánh
mối quan hệ biến động giữa các đối tượng kế toán với nhau (tăng tài sản này đồng thời
giảm tài sản khác cới cùng một lượng giá trị; tăng nguồn vốn này đồng thời giảm nguồn
vốn khác với cùng một lượng giá trị; tăng giá trị tài sản đồng thời tăng nguồn vốn với cùng
một lượng giá trị; giảm giá trị tài sản đồng thời giảm nguồn vốn với cùng một lượng giá
trị). Bản thân phương pháp chứng từ kế toán không phản ánh đươc mối quan hệ này.
Ví dụ: doanh nghiệp chi tiền mặt mua vật liệu nhập kho với số tiền là 1.000.000 đồng.
Nghiệp vụ này làm tiền mặt (tài sản) của doanh nghiệp giảm đi 1.000.000 đồng và vật liệu
5
( tài sản) của doanh nghiệp tăng lên 1.000.000 đồng. Như vậy sự biến động của tiền mặt và
vật liệu có mối quan hệ với nhau.
+ Với phương pháp chứng từ kế toán sẽ lập một phiếu chi để chứng minh cho việc chi tiền,
lập phiếu nhập kho để chứng minh được vật liệu đã nhập kho. Ta thấy, bản thân hai chứng
từ này chỉ sao chụp nghiệp vụ kinh tế, chứ chưa thể hiện được mối quan hệ biến động
giữa tiền và vật liệu. Do đó chưa phục vụ tốt cho việc quản lý, kiểm tra mọi biến động của
tài sản. Trong khi đó, quản lý rất cần những thông tin tổng hợp về từng đối tượng kế toán
cụ thể và sư biến động của một đối tượng kế toán phải được xem xét trong mối quan hệ
biến động của những đối tượng kế toán có lien quan khác.
Từ những vấn đề trên và yêu cầu của việc quản lý các đối tượng kế toán đã đặt ra cho
kế toán nhiệm vụ phải xây dựng một phương pháp xử lý thông tin có khả năng tổng hợp,
phản ánh được tình hình và sự biến động của từng loại đối tượng kế toán cũng như mối
quan hệ chặt chẽ giữa các đối tượng kế toán. Đó chính là cơ sở hình thành của phương
pháp tài khoản và ghi kép.

2. Ý nghĩa của phương pháp tài khoản và ghi kép:
- Với phương pháp tài khoản và ghi kép, kế toán đã cung cấp được thông tin có tính hệ
thống về từng đối tượng kế toán, từng loại hoạt động kinh doanh, cùng mối quan hệ giữa
các đối tượng kế toán khi có nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Đồng thời cũng trên cơ sở thông
tin được hệ thống hóa qua phương pháp tài khoản và ghi kép thì kế toán mới có thể tổng
hợp, tính ra các chỉ tiêu kinh tế tài chính, lập các báo cáo kế toán, đáp ứng các yêu cầu
thông tin tổng hợp cho các nhà quản lý.
- Tài khoản kế toán được thiết kế theo kiểu hai bên, do đó có thể theo dõi được sự vận
động của hai mặt của đối tượng kế toán một cách dễ dàng, nhanh chóng nhất. Mặt khác,
mỗi một tài khoản có nhiều cấp khác nhau nên cung cấp được thông tin của các đối tượng
kế toán ở cả mức độ tổng hợp và chi tiết. Người ta sử dụng tài khoản tổng hợp và tài khoản
chi tiết để phản ánh chung một đối tượng kế toán nhưng ở mức độ khác nhau, tài khoản chi
tiết được dùng để phản ánh các số liệu chi tiết về đối tượng kế toán đã được phản ánh trong
tài khoản tổng hợp tương ứng. Thông qua tài khoản tổng hợp, kế toán có thể tổng hợp cung
cấp những chỉ tiêu tổng hợp, giúp cho người sử dụng thông tin bao quát được tình hình tài
sản, nguồn vốn và quá trình kinh doanh; và sử dụng tài khoản chi tiết để cung cấp thông tin
cụ thể hơn về đối tượng kế toán đã phản ánh trong tài khoản tổng hợp.
6
- Phương pháp tài khoản và ghi kép phản ánh biến động của các đối tượng kế toán trong
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra các đối
tượng kế toán cụ thể.
III. PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯỜNG ĐỐI TƯỢNG KẾ TOÁN:
1) Cơ sở hình thành của phương pháp đo lường đối tượng kế toán:
- Về bản chất, đo lường diễn ra trước khi những ảnh hưởng kinh tế được ghi nhận. Để
thông tin kế toán có ích, nó phải thể hiện bằng một đơn vị chung nhất nhằm tổng hợp ảnh
hưởng của tất cả các nghiệp vụ kinh tế. Trong nền kinh tế, tất cả các giao dịch kinh tế đều
phản ánh qua giá cả, thể hiện dưới hình thái tiền tệ; tiền là phương tiện thanh toán và xác
định giá trị linh hoạt nhất, do vậy cho phép chúng ta so sánh giá trị của những tài sản khác
nhau, tổng hợp hay loại trừ các ảnh hưởng của các giao dịch kinh tế để tạo ra những thông
tin mới. Sử dụng thước đo tiền tệ để phản ánh tài sản cũng như sự vận động của tài sản là

yêu cầu quan trọng của quá trình xử lý thông tin kế toán. Để phản ánh tình trạng hiện có
của đơn vị, ngoài thước đo tiền tệ kế toán còn sử dụng thước đo lao động (ngày công, giờ
công…) và thước đo hiện vật (cái, tấn, kg, lít,…). Như vậy, thước đo tiền tệ là thước đo bắt
buộc để phản ánh các đối tượng kế toán. Tuy nhiên thước đo này được sử dụng như thế
nào là vấn đề luôn được người làm kế toán cũng như các nhà quản lý quan tâm.
- Mỗi loại tài sản ở đơn vị có giá bao nhiêu? Số tiền phải trả cho các chủ nợ được xác định
như thế nào? Doanh thu chi phí và lợi nhuận trong một kì được xác định ra sao? Đó là
những câu hỏi luôn đặt ra cho bộ phận kế toán. Để ghi nhận sự hình thành và vận động của
từng tài sản trên, có thể sử dụng thước đo hiện vật (kg, cái, m
2
) hay thước đo giá trị.
Thước đo hiện vật có thể giúp đơn vị theo dõi số lượng hiện có và tình hình biến động của
từng loại tài sản nhưng không thể thông tin một cách tổng quát về quy mô toàn bộ tài sản
của đơn vị. Ngoài ra, tài sản của doanh nghiệp không ngừng biến đổi về mặt hình thái vật
chất cũng như về mặt giá trị trong quá trình kinh doanh. Đó là quá trình doanh nghiệp nỗ
lực mở rộng quy mô tài sản của mình để tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Quá trình đó luôn
phát sinh qua hàng loạt các giao dịch kinh tế giữa doanh nghiệp với các tổ chức, cá nhân
bên trong cũng như bên ngoài, thông qua trao đổi, mua bán, vay mượn… Có thể nói rằng,
đo lường trong kế toán thực chất là sử dụng thước đo tiền tệ để phản ánh các đối tượng của
kế toán
7
Ví Dụ: công ty ABC ngày 31/12/N có các loại tiền sau: 520.000.000đ; 30.000 USD;
10.000£; 50 lượng vàn SJC.Câu hỏi đặt ra là tổng số tiền trong khối tài sản của đơn vị trên
là bao nhiêu? Với đơn vị tính hiện vật, kế toán không thể tổng hợp thông tin về tiền của
đơn vị ABC. Để có câu trả lời cần phải sử dung một đơn vị tính cho doanh nghiệp ABC
như sau:
Loại tiền Số lượng Quy đổi ra VNĐ Ghi chú
1.nội tệ 520.000.000 520.000
2.ngoại tệ
+USD 30.000 480.000 Tính theo tỷ giá


ngày 31/12/20X2
+ £
10.000 250.000
3.Vàng 50 825.0002075.000.000 Tính theo giá khi
mua
Cộng 2075.000.000

+Nhận xét: Chỉ khi đưa về cùng một loại thước đo tiền tệ VNĐ thì người sử dụng mới có
thể nắm bắt nhanh chóng, chính xác được thông tin về tiền của đơn vị này.
-Đo lường đối tượng kế toán là một phương pháp nhằm giải quyết những vấn đề trong quá
trình xử lý thông tin kế toán. Để có được thông tin về tình hình hiện có, sự biến động và sự
chuyển hóa của mỗi đối tượng kế toán cần phải sử dụng thước đo giá trị - loại thước đo có
tính chất tổng hợp, ưu việt hơn hẳn thước đo hiện vật và thước đo thời gian lao động. Đó
chính là nguồn gốc hình thành nên phương pháp đo lường các đối tượng kế toán.
2. Ý nghĩa của phương pháp đo lườngcác đối tượng kế toán:
Phương pháp này có vai trò rất lớn không chỉ trong công tác kế toán mà còn trong công
tác quản lý:
+ Đảm bảo theo dõi, tính toán được các đối tượng của kế toán: tài sản, nguồn vốn, doanh
thu, chi phí, lợi nhuận…
+ Có thể tính toán chính xác chi phí từ đó xác định được hiệu quả sản xuất kinh doanh của
đơn vị trong kỳ kế toán đó.
+ Cung cấp thông tin cần thiết về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
-Trên phương diện kế toán, việc đo lường đối tượng kế toán là cơ sở để kế toán ghi nhận
tài sản, nợ phải trả, vốn sử hữu, doanh thu, chi phí và lợi nhuận của đơn vị. Cùng với
chứng từ kế toán, thông tin từ việc đo lường là cơ sở để ghi kép vào các tài sản kế toán,
8
qua đó có thể tổng hợp tình hình của toàn bộ tài sản, nguồn vốn và kết quả hoạt động kinh
doanh của đơn vị.
-Trên phương diện quản lý, thông tin từ đo lường kế toán giúp nhà quản lý đơn vị kiểm tra,

giám sát và sự vân động của tài sản, nguồn vốn trong quá trình kinh doanh của đơn vị.
- Đối với người ngoài đơn vị, thông tin từ đo lường kế toán là cơ sở để đánh giá tình hình
tài chính của một tổ chức qua một kỳ hay một giai đoạn kinh doanh. Từ đó có thể đưa ra
những quyết định đầu tư đúng lúc, đúng chỗ, mang lại lợi ích kinh tế cho các nhà đầu tư.
Phương pháp đo lường chính là phương pháp thông tin và kiểm tra về sự hình thành
tài sản của đơn vị. Nói cách khác, đo lường là phương pháp biểu hiện giá trị các đối tượng
kế toán bằng tiền phù hợp với các nguyên tắc và các qui định pháp luật của Nhà nước ban
hành.
IV.PHƯƠNG PHÁP TỔNG HỢP CÂN ĐỐI KẾ TOÁN
1.Cơ sở hình thành của phương pháp tổng hợp - cân đối :
- Việc đo lường và ghi nhận trong nhiều trường hợp thực sự chưa đáp ứng được yêu cầu sử
dụng thông tin của người quản lý cũng như các đối tượng bên ngoài. Do vậy, các thông tin
qua đo lường và ghi nhận cần được phân loại và tổng hợp theo những phương thức có ích
cho người sử dụng. Việc phân loại cho phép tổng hợp nhiều nghiệp vụ kinh tế có bản chất
kinh tế tương tự nhau thành từng loại. Ví dụ: tất cả các nghiệp vụ liên quan đến bán hàng
có thể tổng hợp thành doanh thu, hay các nghiệp vụ liên quan đến tiền có thể tóm lại (tổng
hợp lại) dưới hình thái dòng tiền…
Công việc tổng hợp trong quá trình ghi nhận chính là cơ sở để lập các báo cáo kế toán
(bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ).
Công việc cuối cùng của quá trình kế toán là cung cấp thông tin các kết quả đã xử lí cho
các đối tượng có liên quan. Quá trình kế toán chỉ có ý nghĩa khi thông tin kế toán được
truyền tải dưới những hình thức nào đó cho những người sử dụng tiềm tàng để họ có thể dễ
dàng nắm bắt nhanh chóng, kịp thời thông tin kinh tế, tài chính chứa đựng trong những báo
cáo kế toán. Và đó là một nhiệm vụ đặt ra hoàn toàn không phải dễ dàng đối với bộ phận
kế toán của doanh nghiêp.
Tùy thuộc vào nhu cầu của người sử dụng thông tin mà mỗi loại báo cáo kế toán có
nội dung và kết cấu riêng. Trong nhiều trường hợp kế toán còn làm tiếp công việc phân
9
tích và giải trình số liệu để người sử dụng có thể ra quyết định trên cơ sở những phân tích
đó.

- Với các phương pháp chứng từ, tài khoản và ghi kép, đo lường đối tượng kế toán, kế
toán đã thực hiện các công việc thu thập, xử lý những thông tin liên quan đến tài sản,
nguồn vốn và sự vận động của chúng. Trong quá trình đó, kế toán có thể cung cấp những
thông tin để người quản lý nắm bắt và chỉ đạo kịp thời các hoạt động hàng ngày.
+ Chẳng hạn: mỗi phiếu nhập kho và xuất kho vật liệu có thể cho biết về tình hình thực tế
về nhập xuất kho vật liệu. Đồng thời qua phương pháp đo lường thích hợp, kế toán có thể
cung cấp thông tin về vật liệu nhập kho hay xuất kho có giá trị bao nhiêu. Thông qua tài
khoản “Nguyên liệu, vật liệu - 152” có thể nhận biết tình hình tăng, giảm nói chung về
nguyên liệu, vật liệu trong kỳ.
Tuy nhiên, nhu cầu về thông tin kế toán của những người quan tâm đến lợi ích của đơn
vị rất phong phú và đối tượng kế toán cũng luôn có tính đa dạng đồng thời giữa chúng có
mối quan hệ với nhau. Yêu cầu đặt ra, cần phải tổng hợp đối tượng kế toán trên những góc
độ nhất định để đáp ứng yêu cầu thông tin của người sử dụng.
- Đặc điểm của đối tượng kế toán cũng là cơ sở để hình thành phương pháp này. Luôn tồn
tại sự cân bằng giữa tài sản và nguồn vốn, giữa doanh thu – chi phí – kết quả, giữa tồn đầu
kỳ, cuối kỳ với tình hình tăng giảm trong kỳ của một đối tượng kế toán … Làm thông tin
kế toán cung cấp cho người sử dụng luôn có tính chất cân đối. Các báo cáo kế toán sẽ là
nguồn thông tin vô cung hữu ích khi người sử dụng có nhu cầu thông tin về sự cân bằng
ấy.
Như vậy, nhu cầu đặt ra phải có một phương pháp tiếp theo để kế toán thực hiện việc
tổng hợp và cung cấp thông tin được đầy đủ nhất, đơn giản nhất theo nhu cầu của các đối
tượng bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Đó chính là phương pháp tổng hợp –
cân đối kế toán.
2. Ý nghĩa của phương pháp tổng hợp - cân đối kế toán:
- Từ trước tới nay, phương pháp tổng hợp – cân đối kế toán luôn luôn đảm nhận nhiệm vụ
cung cấp thông tin “đầu ra” của một chu trình kế toán, nó có khả năng khái quát tình hình
tài sản nguồn vốn, kết quả kinh doanh và các mối quan hệ kinh tế khác trong các mối quan
hệ cân đối của đối tượng kế toán. Trong thực tiễn, phương pháp tổng hợp – cân đối kế toán
cung cấp thông tin hữu ích cho người sử dụng bằng hệ thống báo cáo kế toán. Trong nền
10

kinh tế thị trường hệ thống báo cáo kế toán này được cung cấp thông tin không chỉ cho nhà
quản lý trong doanh nghiệp mà còn cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp thông qua
báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị.
-Thông qua nội dung của báo cáo kế toán chúng ta có thể biết được nội dung kinh tế cụ
thể của đối tượng kế toán qua thông tin dạng chữ, ngoài ra do đã được chuẩn hóa theo
những chuẩn mực kế toán nên có tính chất so sánh của thông tin kế toán; còn thông tin
dạng số phản ánh mặt lượng của đối tượng kế toán tại thời điểm lập báo cáo hay trong kỳ
báo cáo.
*Ví dụ Bảng cân đối kế toán:
+ Ở phần tài sản: các chỉ tiêu được sắp xếp theo trình tự tính thanh khoản giảm dần do đó
có thể biết được mức độ thanh khoản (tiền và khoản tương đương tiền > các khoản đầu tư
tài chính ngắn hạn > các khoản phải thu ngắn hạn > hàng tồn kho)…
+ Phần nguồn vốn: thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp với chủ nợ và chủ sở
hữu là khác nhau: trách nhiệm với chủ nợ cao hơn chủ sở hữu nên phần “Nợ phải trả được
xếp trước phần “Vốn chủ sở hữu”…
- Tuy rằng, phương pháp tổng hợp – cân đối được coi là bước cuối cùng của quá trình kế
toán, nhưng chính phương pháp này lại mang tính chất định hướng cách tổ chức, thu thập
và xử lý thông tin trong các phương pháp kế toán trước nó. Hiệu quả của hệ thông tin kế
toán luôn xem xét giữa tính hữu ích của thông tin kế toán đối với người sử dụng và chi phí
kế toán để tạo ra những thông tin cần thiết nhất. Khi sử dụng kết hợp Báo cáo tài chính với
một số phân tích cần thiết, người sử dụng có thể biết thêm được triển vọng thu nhập của
doanh nghiệp trong ngắn hạn, dài hạn như thế nào? Doanh nghiệp có vững mạnh về mặt tài
chính không? Khả năng thanh toán và trách nhiệm thanh toán như thế nào? …Từ đó có thể
thấy thông tin trên báo cáo tài chính là căn cứ quan trọng, quyết định cho việc đề ra các
chiến lược quản lý, điều hành sản xuất, kinh doanh hay đầu tư vào doanh nghiệp của nhà
đầu tư, chủ sở hữu, chủ nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp.
a) Ý nghĩa của Bảng cân đối kế toán:
Như chúng ta đã biết, Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, nó có
khả năng phản ánh tổng quát tình hình tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản của
doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Thông qua Bảng cân đối kế toán, người sử dụng

có thể nắm bắt được thông tin chủ yếu nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp, bao
11
gồm thông tin về toàn bộ giá trị tài sản (nguồn vốn) và cơ cấu nguồn vốnhình thành nên
các tài sản đó. Đồng nghĩa với việc thông qua Bảng cân đối kế toán của một doanh nghiệp,
người sử dụng có thể khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp đó trên các phương
diện: cấu trúc tài chính, mức độ thanh khoản, khả năng thanh toán, rủi ro phá sản cũng như
tính tự chủ về mặt tài chính. Và còn một ý nghĩa rất quan trọng nữa là nó thể hiện tính chất
cân đối giữa tài sản và nguồn vốn chủ sở hữu.
b) Ý nghĩa của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Kế toán sử dụng phương pháp này để phán ánh khái quát tình hình và kết quả hoạt động
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và một số kết quả khác. Báo cáo này cung cấp thông
tin về toàn bộ khoản thu và chi để tạo ra lợi nhuận (hoặc gây ra một khoản lỗ) trong kỳ.
Khi sử dụng báo cáo này, chúng ta sẽ có thể có được những thông tin cốt yếu nhất về kết
quả hoạt động của doanh nghiệp, phục vụ cho đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp. Trên những cơ sở đó để đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh cũng như luồng tiền trong tương lai của doanh nghiệp; không những thế Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh cũng thể hiện tính chất cân đối giữa doanh thu, chi phí và lợi
nhuận.
c) Ý nghĩa của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Một cách tổng quát nhất, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp thông tin về các dòng
tiền vào (thể hiện kết quả của việc tạo ra tiền) và dòng tiền ra (thể hiện kết quả của việc sử
dụng tiền) tại doanh nghiệp. Báo cáo này phản ánh sự dịch chuyển của các khoản tiền và
tương đương tiền của doanh nghiệp trong kỳ, được sắp xếp theo ba loại hoạt động riêng
biệt: hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và cuối cùng là hoạt động tài chính. Chắc
hẳn, không những các nhà đầu tư mà cả những nhà cung cấp tài chính khác đều mong
muốn thu lai tiền từ các khoản đã tài trợ cho doanh nghiệp. Do vậy, có thể thấy được thông
tin về các khoản thu (luồng tiền vào) của doanh nghiệp có tầm quan trọng như thế nào đối
với người sử dụng báo cáo tài chính. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có tính chất cân đối giữa
dòng tiền vào và dòng tiền ra. Những nguồn thông tin này giúp người sử dụng:
+ Đánh giá khả năng tạo ra tiền và các khoản tương đương tiền của doanh nghiệp, cũng

như thời gian và sự chắc chắn của các dòng tiền thu;
+ Đánh giá cấu trúc tài chính (trên phương diện tính thanh khoản và khả năng trả nợ) và
khả năng trang trải các khoản nợ, các khoản cổ tức của doanh nghiệp;
12
+ Hiểu được sự khác nhau giữa số lãi (lỗ) và tiền thuần được tạo ra từ các hoạt động của
doanh nghiệp, trên cơ sở đó đánh giá về mặt chất của các khoản thu nhập;
+ Tăng thêm cơ sở để đánh giá khách quan tình hình hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp và khả năng so sánh tình hình hoạt động giữa các doanh nghiệp với nhau;
+ Cung cấp số liệu nhằm đánh giá giá trị hiện tại của các khoản tiền trong tương lai của
doanh nghiệp, trên cơ sở đó đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Phương pháp này cùng với phương pháp chứng từ kế toán, tài khoản và ghi kép, đo
lường đối tượng kế toán hình thành nên một hệ thống phương pháp kế toán hoàn chỉnh.
B/ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN:
- Mỗi phương pháp kế toán có một vị trí, chức năng nhất định, đóng vai trò quan trọng
trong quá trình xử lý và cung cấp các thông tin và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, thể hiện ở trình tự vận dụng các phương pháp kế toán; phương pháp kế toán này làm
tiền đề cho phương pháp kế toán kia và ngược lại tạo thành một hệ thống phương pháp kế
toán hoàn chỉnh, thống nhất:
+ Khi có nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kế toán phải lập chứng từ để minh chứng cho nghiệp
vụ kinh tế đã xảy ra và hoàn thành. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trên chứng từ được
phản ánh vào các sổ kế toán có liên quan bằng cách vận dụng mối quan hệ đối ứng tài
khoản và ghi kép. Mặt khác, việc ghi chép kế toán vào các tài khoản và sổ sách liên quan
phải được ghi chép bằng thước đo giá trị, do đó cần tiến hành đo lường các đối tượng kế
toán nhằm xác định đúng giá trị tài sản mà không có một sai sót trọng yếu nào. Cuối kỳ
kinh doanh kế toán phát họa nên bức tranh tổng thể về tình hình tài chính và kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp trong kỳ, cần phải sử dụng phương pháp tổng hợp – cân đối kế
toán để cung cấp những thông tin tổng quát nhất và những thông tin phản ánh thực chất
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ các sổ sách kế toán. Chúng ta có thể tóm tắt
quan hệ giữa các phương pháp kế toán như sơ đồ sau:
13

I. Mối quan hệ giữa phương pháp chứng từ và phương pháp tài khoản - ghi kép:
- Tất cả các chứng từ kế toán do doanh nghiệp lập hoặc từ bên ngoài chuyển đến đều sẽ
được tập trung vào bộ phận kế toán doanh nghiệp. Bộ phận kế toán kiểm tra và sau khi
xác minh tính pháp lý của chứng từ này thì sẽ sử dụng để ghi sổ kế toán theo hình thức tài
khoản và ghi kép. Kế toán vận dụng các chứng từ nhằm sao chụp, “phản ảnh” toàn bộ các
nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. Sau đó những nghiệp vụ kinh tế, tài chính này được
hệ thống hóa theo trình tự thời gian, không gian nhất định. Thể hiện là tổ chức vận dụng hệ
thông hóa thông tin kế toán theo từng loại đối tượng (mức độ tổng hợp và chi tiết), từng
loại chỉ tiêu phục vụ nhu cầu của người sử dụng trên phương tiện vật chất là hệ thống các
sổ kế toán. Ví dụ: sổ tổng hợp chi tiết nguyên liệu - 152, sổ chi tiết phải thu khách hàng
A1, sổ chi tiết phải thu khách hàng A2 ,
-Phương pháp chứng từ cung cấp cơ sở và bằng chứng để kế toán ghi vào sổ kế toán bằng
phương pháp tài khoản. Để kiểm tra tính chính xác và xác thực của các số liệu trên sổ kế
toán (sản phẩm của phương pháp tài khoản) thì phải căn cứ vào chứng từ (kết quả của
phương pháp chứng từ).
Ví dụ: tại công ty XYZ có nghiệp vụ phát sinh như sau:
-15/01/20X2 mua 20.000kg vật liệu A của công ty P về nhập kho ,giá mua chưa thuế
GTGT 10.000/ kg, thuế GTGT 10%. Tiền hàng đã thanh toán đủ cho người bán bằng
TGNH. Khi vật tư về đến kho của doanh nghiệp, bộ phận nhận hàng (phòng cung ứng) sẽ
căn cứ vào các chứng từ như: giấy đề nghị mua hàng, đơn đặt hàng đã được duyệt, hợp
14
đồng kinh tế đã ký kết, để tiến hành kiểm nghiệm về số lượng, chất lượng quy cách…và
lập phiếu nhập kho. Từ đó để tiến hành ghi kép vào sổ kế toán.
Như vậy quan hệ giữa chứng từ và phương pháp tài khoản - ghi kép có mối quan hệ
chặt chẽ cả về nghiệp vụ ghi chép và số liệu.
II. Mối quan hệ giữa phương pháp chứng từ và phương pháp đo lường :
- Phương pháp chứng từ là phương pháp thông tin và kiểm tra sự hình thành các nghiệp vụ
kinh tế, được thể hiện dưới hình thức là hệ thống bản chứng từ và kế hoạch luân chuyển
chứng từ. Với chức năng thông tin và kiểm tra về tình hình kinh tế tài chính của đơn vị, kế
toán cần phải theo dõi, ghi chép và phản ánh các đối tượng kế toán ngay từ khi tài sản mới

được hình thành hay bắt đầu có sự vận động. Chính vì vậy, phương pháp chứng từ là cơ sở
đầu tiên của công việc kế toán, là công việc của kế toán phản ánh các nghiệp vụ kinh tế, tài
chính phát sinh và hoàn thành vào các chứng từ theo mẫu quy định, theo thời gian và địa
điểm phát sinh của nghiệp vụ đó. Với nội dung quy định trong chứng từ, nó là cơ sở để kế
toán phản ánh kịp thời, đầy đủ và chính xác mọi hoạt động của doanh nghiệp.
- Do kế toán dùng thước đo giá trị là thước đo bắt buộc, nhưng các đối tượng kế toán thì
đa dạng, có thể biểu hiện dưới góc độ giá trị hoặc hiện vật, thời gian… Để có cơ sở phản
ánh vào các chứng từ kế toán và thực hiện chức năng thông tin đến người sử dụng thì phải
sử dụng phương pháp đo lường. Vận dụng phương pháp này, kế toán có thể xác định được
giá trị của các đối tượng kế toán chưa được thể hiện bằng một lượng giá trị nhất định, trên
cơ sở đó ghi nhận vào chứng từ kế toán. Cụ thể: khi nhận được các chứng từ nhập, xuất
kho do bộ phận thủ kho chuyển đến, kế toán vật tư phải kiểm tra chứng từ, đối chiếu…cuối
cùng là tiến hành ghi đơn giá và tính thành tiền dựa trên số lượng trên chứng từ nhập kho.
Việc tính giá trên các phiếu xuất kho được thực hiện theo một trong các phương pháp tính
giá nguyên vật liệu (công cụ ,dụng cụ), tùy theo tính chất và phương pháp hạch toán kế
toán riêng của từng doanh nghiệp được quy định tại chuẩn mực kế toán hàng tồn kho.
Như vậy, quan hệ giữa phương pháp chứng từ và phương pháp đo lường là quan hệ về
mặt giá và lượng của từng đối tượng kế toán.
III. Mối quan hệ giữa phương pháp đo lường và phương pháp tài khoản – ghi kép:
- Phương pháp tài khoản ghi kép là phương pháp thông tin và kiểm tra quá trình vận động
của tài sản theo từng loại dựa trên mối quan hệ vốn có của các đối tượng kế toán. Phương
15
pháp tài khoản – ghi kép được thể hiện dưới hình thức là hệ thống tài khoản kế toán và ghi
kép vào tài khoản:
+ Tài khoản kế toán dùng để phán ánh và giám đốc một cách thường xuyên, liên tục và có
hệ thống các đối tượng kế toán riêng biệt trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Mỗi đối tượng kế toán có nội dung kinh tế khác nhau, có sự tồn tại và vận động
khác nhau, có yêu cầu quản lí khác nhau nên mỗi đối tượng kế toán chỉ được mở một tài
khoản tương ứng.
+ Ghi sổ kép là công việc của kế toán dung ghi một nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào ít nhất

hai tài khoản theo đúng nội dung kinh tế và mối quan hệ khách quan của tài khoản. Các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị có
nội dung kinh tế nhất định được phản ánh vào tài khoản liên quan giúp cho việc giám đốc
chặt chẽ các hoạt động tài chính của đơn vị.
Qua khái lược về phương pháp tài khoản - ghi kép, dễ dàng thấy được để phản ánh các
đối tượng kế toán thường phải sử dụng ít nhất hai tài khoản và khi ghi sổ kế toán phải phản
ánh công việc đó bằng ghi kép. Nhưng không thể ghi kép vào tài khoản kế toán bằng các
loại thước đo khác nhau, mà phải quy về một thước đo để có thể đánh giá, so sánh, thông
tin đúng các đối tượng kế toán của một doanh nghiệp. Thước đo sử dụng đó chính là thước
đo giá trị. Để lượng hóa các đối tượng kế toán toán bằng thước đo tiền tệ và sử dụng
phương pháp tài khoản ghi kép thì bắt buộc phải sử dụng đến phương pháp đo lường.
Tóm lại, mối quan hệ giữa phương pháp tài khoản – ghi kép và phương pháp đo lường là
mối quan hệ về mặt giá trị trên từng tài khoản kế toán.
IV. Mối quan hệ giữa phương pháp đo lường và phương pháp tổng hợp cân đối:
Tổng hợp cân đối kế toán là một phương pháp kế toán trong quy trình kế toán ở một
đơn vị nhằm cung cấp thông tin cho người sử dụng thông tin qua các báo cáo kế toán. Báo
cáo kế toán được tổng hợp từ các số liệu kế toán theo các chỉ tiêu kinh tế về tài sản và tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. Số liệu
trên báo cáo kế toán giúp cho doanh nghiệp đánh giá và phân tích tình hình thực hiện kế
hoạch sản xuất kinh doanh, từ đó có biện pháp bảo vệ và sử dụng tài sản, nguồn vốn của
doanh nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Thông thường phương pháp tổng hợp- cân đối kế toán được sử dụng vào thời điểm cuối
kì kế toán, nhưng để có số liệu lên các bảng biểu tổng hợp và các bảng cân đối kế toán, kế
16
toán viên phải tổng hợp từ các sổ kế toán chi tiết, sổ kế toán tổng hợp… và tất nhiên là
phải tiến hành đo lường các đối tượng còn tồn vào cuối kì kế toán (Ví Dụ: tính hao mòn tài
sản cố định, đo lường giá trị hàng tồn kho,điều chỉnh lại mức trích lập dự phòng…) để đảm
bảo cho các thông tin cuối kì kế toán chính xác.
+ Chẳng hạn: vào cuối kì kế toán để có được số liệu của chỉ tiêu “dự phòng giảm giá hàng
tồn kho” trên bảng cân đối kế toán, kế toán phải thực hiện kiểm kê số lượng hàng tồn kho

tại kho của đơn vị, tính toán theo đơn giá thị trường và so sánh với giá trị giá gốc của nó.
Nếu trường hợp giá thị trường bé hơn giá gốc của hàng tồn kho, thì phải trích lập dự phòng
bằng với khoản giá trị chênh lệch của giá thị trường và giá gốc.
+Doanh nghiệp X tính và lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho cho năm 2005 như sau:
Tên HTK Số lượng HTK
31/12/2004
Đơn giá thực tế
TB trên sổ kế toán
Đơn giá thị trường
tại 31/12/2004
Mức dự phòng
1.vật liệu A 1.500 40.000 35.000 7.500.000
2.vật liệu B 600 11.500 13.000 0
3. vật liệu C 200 17.500 16.000 300.000
4. Thành phẩm 1.200 55.000 56.000 0
Tổng cộng 7.800.000

+ Số dư đầu năm 2004 của TK 159: 3.200.000. Số dự phòng giảm giá hàng tồn kho phải
lập thêm trong năm 2005 sẽ là: 4.600.000 và giá trị này sẽ được sử dụng để phản ánh chỉ
tiêu “dự phòng giảm giá hàng tồn kho” trên BCĐKT của doanh nghiệp tại thời điểm lập
báo cáo.
Như vậy, có thể kết luận rằng mối quan hệ giữa phương pháp đo lường và phương
pháp tổng hợp - cân đối chính là quan hệ về mặt số liệu của từng đối tượng kế toán tương
ứng trên bảng báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
V. Mối quan hệ giữa phương pháp tài khoản -ghi kép và phương pháp tổng hợp
-cân đối:
Trong hệ thống thông tin của kế toán, phương pháp tài khoản kế toán được coi là trung
tâm của hệ thống kế toán. Thông tin đơn lẻ, cá thể về từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh từ
kế toán sau khi xử lý qua phương pháp tài khoản kế toán sẽ trở thành thông tin tổng hợp về
tình hình và sự vận động của từng đối tượng kế toán. Để thông tin này trở nên thông dụng

và hữu ích với người sử dụng thì chúng phải được trình bày trên các bảng báo cáo theo các
17
nguyên tắc nhất định. Phương pháp tổng hợp - cân đối kế toán là quá trình tiếp theo của hệ
thống thông tin kế toán, nó được coi là quá trình cung cấp thông tin “đầu ra “của kế toán.
Trong chu trình thông tin của kế toán nếu tài khoản (sản phẩm của phương pháp tài khoản-
ghi kép) là nơi xử lý thông tin thì bảng tổng hợp cân đối kế toán (sản phẩm của phương
pháp tổng hợp- cân đối) là nơi truyền tải thông tin đến cho người sử dụng cả bên trong và
bên ngoài doanh nghiệp, chúng đều phản ánh tình trạng của đối tượng kế toán nhưng ở
phạm vi, mức độ khác nhau. Khi đi thực hiện phương pháp tổng hợp cân đối, kế toán sẽ
lập các báo cáo kế toán tổng thể và chi tiết, tổng hợp những thông tin đã xử lí theo những
nhóm chỉ tiêu nhất định. Cơ sở để lập các báo cáo này chính là số liệu trên các sổ tổng hợp,
chi tiết của từng tài khoản:
1) Mối quan hệ giữa phương pháp tài khoản - ghi kép và Bảng cân đối kế toán:
- Bảng cân đối kế toán và tài khoản kế toán cùng được sử dụng để ánh tài sản và nguồn
vốn. Trong đó bảng cân đối kế toán phản ánh một cách tổng quát toàn diện ở trạng thái
tĩnh tại thời điểm lập bảng. Tài khoản kế toán phản ánh tài sản và nguồn vốn theo từng loại
ở cả trạng thái tĩnh (số dư tài khoản) và trạng thái vận động (số phát sinh của tài khoản). Vì
vậy khi lập bảng cân đối kế toán thì kế toán viên phải dựa vào số dư trên tài khoản kế toán.
- Số liệu về tài sản và nguồn vốn trên BCĐKT gồm số đầu năm và số cuối kỳ. Trong đó số
cuối kỳ được thực hiện căn cứ vào số liệu từ Sổ Cái các TK từ loại 1 tới loại 4 và các sổ
chi tiết nợ phải thu, phải trả. Nhìn chung kế toán sẽ lấy số dư bên Nợ cuối kỳ từ các Sổ
Cái các tài khoản để lên phần tài sản, số dư Có cuối kỳ từ Sổ Cái của các TK để ghi vào
các chỉ tiêu thích hợp bên phần nguồn vốn của Bảng.
- Mỗi chỉ tiêu kinh tế trên bảng cân đối kế toán đều được mở một tài khoản hoặc một số tài
khoản để phản ánh tình hình và sự vận động của đối tượng kế toán trong kỳ.
- Đầu niên độ kế toán khi mở các tài khoản kế toán để theo dõi tình hình và sự vận động
của đối tượng kế toán trong kỳ, số dư đầu kỳ của các tài khoản kế toán có thể căn cứ vào
số cuối kỳ ở bảng cân đối kế toán kết thúc niên độ kinh doanh trước để ghi hoặc để kiểm
tra. Cuối kỳ kinh doanh căn cứ vào số dư cuối kỳ của các tài khoản kế toán để lập bảng cân
đối kế toán ở cuối kỳ.

2) Mối quan hệ giữa phương pháp tài khoản -ghi kép và Bảng báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh:
18
- Tương tự như trường hợp lập BCĐKT, số liệu trên các tài khoản phản ánh doanh thu, tài
khoản phản ánh chi phí hay tài khoản xác định kết quả kinh doanh sẽ được sử dụng để lập
Báo cáo KQHĐKD; số liệu về doanh thu (thu nhập) và chi phí được cung cấp trên
BCKQHĐKD bao gồm số năm nay (tổng số phát sinh trong kỳ kế toán của năm báo cáo)
và số năm trước (tổng số phát sinh trong kỳ kế toán tương ứng của năm trước). Việc tổng
hợp doanh thu và chi phí phát sinh trong kỳ được thực hiện căn cứ vào số liệu từ Sổ Cái
các TK từ loại 5 đến loại 9 và các sổ chi tiết theo dõi doanh thu, thu nhập, chi phí và xác
định kết quả kinh doanh.
3) Mối quan hệ giữa phương pháp tài khoản - ghi kép và Bảng báo cáo lưu chuyển
tiền tệ:
Lập Báo cáo LCTT không phải là công việc đơn giản đối với kế toán viên, để thực hiện
công việc này kế toán phải căn cứ vào nhiều nguồn thông tin, trong đó có sổ kế toán chi
tiết và sổ kế toán tổng hợp các TK phản ánh tiền, gồm TK 111 – “tiền mặt”, TK 112 –
“Tiền gửi ngân hàng”, TK 113 – “tiền đang chuyển” và các sổ kế toán khác liên quan như
sổ kế toán theo dõi các khoản phải thu, kế toán theo dõi các khoản phải trả, sổ kế toán
theo dõi khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn…
Như đã biết, nguồn gốc hình thành các sổ kế toán tổng hợp, chi tiết… chính là số dư
trên các TK tương ứng. Như vậy, giữa phương pháp tài khoản – ghi kép và phương pháp
tổng hợp – cân đối kế toán (bao gồm cả ba hình thức BCĐKT, BCKQHĐKD và BCLCTT)
có mối quan hệ mật thiết với nhau trong một chu trình thông tin thông suốt của kế toán và
mối quan hệ được nói đến ở đây có thể được hiểu là mối quan hệ về mặt số liệu tổng hợp
qua trung gian đó là hệ thống các sổ sách của đơn vị.

Ví dụ: có Bảng CĐKT của công ty A tại 31/12/ X1 như sau:
19
* Trong kỳ 01/20X2 có các nghiệp vụ phát sinh:
1. Mua công cụ ,dụng cụ nhập kho, trả bằng TGNH 12.000

2. Mua nguyên liệu ,vâtj liệu nhập kho chưa trả tiền người bán: 100.000
3. Vay ngắn hạn NH để trả nợ cho người bán 40.000 và thanh toán các khoản phải trả
khác 10.000
4. Rút tiền gửi NH về nhập quỹ tiền mặt 30.000
5. Chi tiền mặt để trả lương cho CNV 30.000
6. Khách hàng trả nợ cho doanh nghiệp bằng tiền gửi NH 70.000
7. Dùng TGNH để trả nợ VNH ngân hàng 40.000 và nộp thuế cho Nhà Nước 20.000
8. Dùng lợi nhuận chưa phân phối để bổ sung quỹ đầu tư PT 30.000 và quỹ khen thưởng
phúc lợi 10.000
9. Chi tiền mặt tạm ứng cho nhân viên đi công tác 5.000
10. Chủ doanh nghiệp bổ sung vốn Kd bằng TSCĐ hữu hình 700.000
Quỹ đầu tư PT 250.000
LN chưa phân phối 60.000
Quỹ khen thưởng phúc lợi 25.000
TỔNG 1.580.000 1.580.000
Chỉ tiêu Số tiền Chỉ tiêu Số tiền (1000đ)
A.TSNH 780.000 A.NPT 345.000
Tiền mặt 25.000 Vay NH 180.000
Tiền gửi NH 100.000 Phải trả NB 60.000
Phải thu KH 80.000 Thuế 30.000
Tạm ứng 25.000 Phải trả CNV 35.000
NLVL 300.000 Phải trả và phải nộp khác 40.000
CC,DC 60.000
Chi phí SXKDD 50.000
Thành phẩm 140.000
B.TSDH 800.000 B.VCSH 1.235.000
TSCĐ 800.000 NVKD 900.000
20
Yêu cầu:1) mở TK chữ T.ghi số dư đầu kì,phản ánh NVKT phat sinh
2) tính số dư cuối kỳ của các TK và lập BCĐKT tại 31/12/20X2:

- Sau khi phản ánh vào tài khoản chữ T ta được:

21

KẾT LUẬN
Quy trình kế toán là quá trình vận dụng nhiều phương pháp khác nhau một cách
khoa học để thực hiện chức năng thông tin và kiểm tra về quá trình hình thành và sự vận
động của tài sản. Quá trình đó được tổ chức trên cơ sở nguồn nhân lực có am hiểu về kế
toán và các phương tiện xử lí thông tin để tạo ra những thông tin kế toán có ích cho người
sử dụng. Xuất phát từ nhu cầu sử dụng thông tin của các nhà quản lý cũng như các đối
tượng bên ngoài khác, hệ thống các phương pháp kế toán đã ra đời bao gồm: phương pháp
chứng từ, phương pháp tài khoản – ghi kép, phương pháp đo lường và cuối cùng là
phương pháp tổng hợp - cân đối. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung
cho nhau, độc lập nhưng không tách rời nhau để từ đó hình thành nên một hệ thống
phương pháp kế toán hoàn chỉnh nhất, hiệu quả nhất. Vì thế kế toán được xem như là một
hệ thống thông tin trong các tổ chức. Thiết kế hệ thống thông tin kế toán luôn quan tâm
đến mối quan hệ giữa chi phí và lợi ích để thông tin kế toán thực sự có ích nhưng với chi
phí tiết kiệm nhất có thể.
Một lần nữa em xin cảm ơn thầy Ngô Hà Tấn đã truyền đạt, định hướng để em có thể
nắm bắt những nội dung cơ bản, tạo nền tảng cần thiết để em có thể thực hiện đề án này!
Em xin chân thành cảm ơn!
BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN 31/12/20X2
Chỉ tiêu Số tiền Chỉ tiêu Số tiền (1000đ)
A.TSNH 790.000 A.NPT 335.000
Tiền mặt 20.000 Vay NH 190.000
Tiền gửi NH 68.000 Phải trả NB 120.000
Phải thu KH 10.000 Thuế 10.000
Tạm ứng 30.000 Phải trả CNV 5.000
NLVL 400.000 Phải trả và phải nộp khác 30.000
CC,DC 70.000

Chi phí SXKDD 50.000
Thành phẩm 140.000
B.TSDH 1.500.000 B.VCSH 1.935.000
TSCĐ .1500.000 NVKD 1.600.000
Quỹ đầu tư PT 280.000
LN chưa phân phối 20.000
Quỹ khen thưởng phúc lợi 35.000
TỔNG 2.290.000 2.290.000
22
MỤC LỤC
23

×