Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.14 KB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ ĐẦU TƯ
BÀI TẬP NHÓM
MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ
Đề tài: Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu
hình và đầu tư vào tài sản vô hình
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 12
Lớp chuyên ngành : Đầu tư 48A
Lớp : Kinh tế đầu tư I_2008_2009_2
Khoa : Kinh tế đầu tư
Khóa : 48
Giáo viên hướng dẫn : TS. Từ Quang Phương
TS. Phạm Văn Hùng
HÀ NỘI, NĂM 2008
DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM
1.Nguyễn Thị Thu Hương
2.Nguyễn Thị Huệ
3.Bùi Lệ Thu
4.Đoàn Thị Thuỷ
5.Hoàng Thị Hải Yến
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TSHH Tài sản hữu hình
TSVH Tài sản vô hình
NĐT Nhà đầu tư
CSHT Cơ sở hạ tầng
VN Việt Nam
KHCB Khoa học cơ bản
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
HN Hà Nội


TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
MỤC LỤC
1.2. Đầu tư vào tài sản hữu hình là động lực thúc đẩy phát triển tài sản vô hình................29
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỘI DUNG VÀ MỐI QUAN
HỆ CỦA ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH
I. NỘI DUNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH
1. Đầu tư
1.1. Khái niệm
Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào một hoạt động nào đó nhằm thu
được lợi ích hoặc mục tiêu cho chủ đầu tư trong tương lai. Đầu tư đòi hỏi rất lớn nhiều loại
nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn lực sử dụng cho đầu tư là tiền vốn. Theo nghĩa rộng,
nguồn lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc thiết bị, tài nguyên.
Đối tượng của đầu tư là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm
đạt được những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm phân công lao động xã hội, có hai nhóm
đối tượng chính là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ. Trên góc độ tính chất và mục
đích đầu tư, đối tượng đầu tư chia làm 2 nhóm chính: vì mục tiêu lợi nhuận và vì mục tiêu
phi lợi nhuận. Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng, đối tượng đầu tư chia thanh: loại
được khuyến khích đầu tư và loại bị cấm đầu tư. Từ góc độ tài sản, đối tượng đầu tư chia
thành: những tài sản vật chất và tài sản vô hình.
Kết quả của đầu tư là sự tăng thêm về tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị…), tài sản
trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và tài sản vô hình (phát minh,
sáng chế, bản quyền…). Các kết quả của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất
của xã hội.
Mục tiêu của đầu tư vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc gia cộng đồng và chủ

đầu tư. Đầu tư thường được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất định. Chủ đầu tư là người sở
hữu vốn hoặc được giao quản lý, sử dụng vốn đầu tư. Theo nghĩa đầy đủ, chủ đầu tư là
người sở hữu vốn; ra quyết định đầu tư, quản lý quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu
tư và là người hưởng lợi từ thành quả đầu tư đó. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm kiểm tra giám
sát đầu tư, chịu trách nhiệm toàn diện về những sai phạm và hậu quả do ảnh hưởng của đầu
tư đến môi trường môi sinh và do đó ảnh hưởng quan trọng đến việc nâng cao hiệu quả của
hoạt động đầu tư. Xác định rõ chủ đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong quản lý đầu tư nói
chung và vốn đầu tư nói riêng.
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
6
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
Hoạt động đầu tư là một quá trình, diễn ra trong thời kỳ dài và tồn tại vấn đề “độ trễ
thời gian”. Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư và thời gian vận
hành các kết quả đầu tư. Đầu tư hiện tại nhưng kết quả đầu tư thường thu được trong tương
lai.
1.2. Đặc điểm của đầu tư
- Quy mô về tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư là rất lớn.
- Thời kỳ đầu tư kéo dài.
- Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài.
- Quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành kết quả đầu tư chịu ảnh
hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội.
- Đầu tư có độ rủi ro cao.
1.3. Phân loại đầu tư
- Theo bản chất của các đối tượng đầu tư có: Đầu tư vào tài sản hữu hình, Đầu tư vào
tài sản vô hình.
- Theo phân cấp quản lý có: Đầu tư dự án nhóm A, Đầu tư dự án nhóm B, Đầu tư dự
án nhóm C.
- Theo lĩnh vực hoạt động của kết quả đầu tư: Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh,
Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.

- Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: Đầu tư cơ bản, Đầu tư vận hành.
- Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội:
Đầu tư thương mại, Đầu tư sản xuất.
- Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư: Đầu tư ngắn
hạn, Đầu tư dài hạn.
- Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: Đầu tư gián tiếp, Đầu tư trực tiếp.
- Theo nguồn vốn trên phạm vi quốc gia: Đầu tư bằng nguồn vốn trong nước, Đầu tư
bằng nguồn vốn nước ngoài
2. Đầu tư vào tài sản hữu hình
2.1. Khái niệm và đặc điểm tài sản hữu hình
2.1.1. Khái niệm TSHH
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
7
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
Một doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì phải
có những tài sản nhất định. Tài sản là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu
được lợi ích kinh tế trong tương lai. Tài sản hữu hình vẫn được coi nhân tố chính tạo nên giá
trị doanh nghiệp. Những nhân tố này bao gồm máy móc thiết bị, đất đai, nhà cửa hoặc những
tài sản tài chính khác như các khoản phải thu và vốn đầu tư. Các tài sản này được xác định
giá trị dựa trên chi phí và giá trị còn lại như thể hiện trên bảng cân đối kế toán. Các loại tài
sản hữu hình nói chung, việc sử dụng tài sản đồng nghĩa với việc làm cho giá trị tài sản giảm
đi.
Có nhiều khái niệm khác nhau về tài sản hữu hình
- Trong đầu tư: TSHH là một tài sản dài hạn không được mua hoặc bán theo diễn
biến thông thường của công việc kinh doanh. Ví dụ như đất đai, các tòa nhà, máy móc,...
Nhìn chung, đây là những tài sản không thể chuyển thành tiền mặt nhanh chóng.
- Trong kinh doanh: TSHH là tài sản với thời gian sử dụng khá dài, tài sản cố định
trong một công việc buôn bán hay kinh doanh.
- Trong kế toán: TSHH là tài sản được phục vụ mục đích sản xuất trong thời gian dài

chứ không phải để bán lại. Nó bao gồm đất đai, các tòa nhà, cây cối, dụng cụ, khoáng sản,
rừng cây lấy gỗ
- Trong lĩnh vực thuế: đây là tài sản được sở hữu bởi người đóng thuế, không phải
tiền mặt, tồn kho, hàng hóa để bán, các khoản phải thu và những tài sản vô hình nhất định.
2.1.2. Đặc điểm TSHH
+ Tồn tại ở hình thái vật chất cụ thể: tài sản hữu hình do doanh nghiệp nắm giữ để sử
dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từ nguyên liệu vật liệu sử dụng những tài sản này
để tạo ra sản phẩm nên những tài sản này chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy và nhận biết
được
+ Khó có thể di dời: do tài sản hữu hình thường là nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc
thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị, dụng cụ…được hình thành sau quá trình thi công xây
dựng hoặc được dùng trong sản xuất kinh doanh nên thường khó di chuyển
+ Có thể dễ dàng định giá tài sản: Tài sản hữu hình được đánh giá lần đầu và có thể
đánh giá lại trong quá trình sử dụng. Tài sản hữu hình được tính giá theo nguyên giá (giá trị
ban đầu), giá trị đã hao mòn và giá trị còn lại.
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
8
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
Nguyên giá là toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được tài sản hữu hình
tính đến thời điểm đưa tài sản đó vào trạng thái sẵn sàng sử dụng
Giá trị đã hao mòn (Giá trị phải khấu hao) là nguyên giá của tài sản hữu hình ghi trên
báo cáo tài chính trừ đi giá trị thanh lý ước tính của tài sản đó
Giá trị thanh lý (Giá trị còn lại) là giá trị ước tính thu được khi hết thời gian sử dụng
hữu ích của tài sản sau khi trừ chi phí thanh lý ước tính.
2.2. Nội dung đầu tư vào tài sản hữu hình
2.2.1. Đầu tư vào tài sản cố định
Đầu tư vào tài sản cố định hay đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm tái
tạo tài sản cố định của danh nghiệp. Đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm các hoạt động chính
như: xây lắp và mua sắm máy móc thiết bị. Trong doanh nghiệp, đặc biệt trong sản xuất kinh

doanh, để các hoạt động diễn ra bình thường đều cần xây dựng nhà xưởng, kho tàng, các
công trình kiến trúc, mua và lắp đặt trên nền bệ các máy móc thiết bị…Hoạt động này đòi
hỏi vốn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp, gồm có:
- Đầu tư vào xây dựng nhà xưởng, các công trình kiến trúc, kho tàng, bến bãi,
phương tiện vận tải, truyền dẫn: một doanh nghiệp muốn sản xuất được cần phải có nhà
xưởng, nơi sản xuất. Hoạt đọng đầu tư này thường xảy ra trước khi tiến hành sản xuất trong
thời gian khá dài, thường từ 3 - 5 năm
- Đầu tư vào máy móc, thiết bị: để có thể tạo ra được sản phẩm thì máy móc là một
yếu tố không thể thiếu. Doanh nghiệp có thể mua máy móc thiết bị mới bằng cách nhập khẩu
từ nước ngoài, hoặc do góp vốn của các cổ đông hoặc đầu tư của nước ngoài chuyển giao
công nghệ…
- Đầu tư vào tài sản cố định khác: khi doanh nghiệp hoạt động còn phải đầu tư mua
sắm các trang thiết bị văn phòng, thiết bị dụng cụ dùng cho quản lý…
2.2.2. Đầu tư vào hàng tồn trữ
Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp là toàn bộ nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm
và sản phẩm hoàn thành được tồn trữ trong doanh nghiệp. Tồn kho bao giờ cũng được coi là
nguồn nhàn rỗi, do đo khi tồn kho càng cao thì càng gây ra sự lãng phí. Tồn kho như một lớp
đệm lót giữa nhu cầu và khả năng sản xuất. Khi nhu cầu biến đổi mà hệ thống sản xuất có
điều chỉnh khả năng sản xuất của mình, hệ thống sản xuất sẽ không cần đến lớp đệm lót tồn
kho nhưng tồn kho vẫn là cần thiết trên các phương diện sau
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
9
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
- Tồn kho để giảm thời gian cần thiết đáp ứng nhu − cầu
- Làm ổn định mức sản xuất của đơn vị trong khi − nhu cầu biến đổi
- Bảo vệ đơn vị trước những dự báo thấp về nhu − cầu
Vậy bao nhiêu tồn kho là hợp lý?
Tùy theo loại hình doanh nghiệp, qui mô và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ cũng khác
nhau. Nguyên vật liệu là một bộ phận hàng tồn trữ không thể thiếu của doanh nghiệp sản

xuất nhưng lại không có trong doanh nghiệp thương mại dịch vụ. Tỷ trọng đầu tư vào hàng
tồn trữ trong tổng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp thương mại thường cao hơn các
loại hình doanh nghiệp khác. Do vậy, xác định qui mô đầu tư hàng tồn thông trữ tối ưu cho
doanh nghiệp rất cần thiết. Hoạt động này gồm có:
- Đầu tư vào nguyên, nhiên vật liệu
- Đầu tư vào bán thành phẩm
- Đầu tư vào sản phẩm tồn trữ doanh nghiệp
2.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư vào tài sản hữu hình
2.3.1. Khái niệm hiệu quả đầu tư
Hiệu quả đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả kinh
tế - xã hội đã đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ ra để có các kết quả đó
trong một thời kỳ nhất định
Hiệu quả của hoạt động đầu tư được đánh giá thông qua các chỉ tiêu đo lường hiệu
quả. Việc xác định các chỉ tiêu này phụ thuộc vào mục tiêu của chủ đầu tư đưa ra
Hiệu quả đầu tư được đánh giá là có hiệu quả khi trị số của các chỉ tiêu đo lường
hiệu quả thỏa mãn tiêu chuẩn hiệu quả trên cơ sở sử dụng các định mức hiệu quả do chủ đầu
tư định ra
2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của đầu tư
Hệ thống đánh giá hiệu quả tài chính của đầu tư gồm có:
- Chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án
+ Chỉ tiêu lợi nhuận thuần được tính cho tưng năm, cho cả đời dự án hoặc bình quân
năm của đời dự án
Lợi nhuận thuần từng năm được xác định như sau:
W
i
= O
i
- C
i
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư

I_2
10
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
Trong đó: W
i
: Lợi nhuận thuần năm i
O
i
: Doanh thu thuần năm i
C
i
: Các chi phí ở năm i
+ Tổng lợi nhuận thuần: PV(W)
PV(W) =

=
n
i
ipv
W
1
= W
1
+ W
2
+ …+ W
n

Lợi nhuận thuần bình quân:
PV

W
n
W
W
n
i
ipv
PV

=
=
1
+ Chỉ tiêu thu nhập thuần: NPV: Thu nhập thuần của dự án thường được tính chuyển
về mặt bằng hiện tại đầu thời kỳ phân tích
- Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư: phản ánh mức lợi nhuận thuần hoặc thu
nhập thuần (tính cho cả đời dự án) thu được từ một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng
- Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời vốn tự có: Vốn tự có là một bộ phận của vốn đầu tư, là một
yếu tố cơ bản để xem xét tiềm lực tài chính cho việc tiến hành các công cuộc đầu tư. Tỷ suất
sinh lời vốn tự có càng cao thì hoạt động đầu tư càng có hiệu quả
- Chỉ tiêu số lần quay vòng của vốn lưu động: Vốn lưu động là một bộ phận của vốn
đầu tư. Vốn lưu động quay càng nhanh, càng cần ít vốn và do đó càng tiết kiệm vốn đầu tư.
Nếu trong điều kiện khác không đổi thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao
- Chỉ tiêu tỷ số lợi ích - chi phí: B/C
- Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư: T
- Chỉ tiêu tỷ suất hoàn vốn nội bộ: IRR
- Chỉ tiêu điểm hòa vốn
2.4. Kết quả và hiệu quả của việc đầu tư vào TSHH
Kết quả và hiệu quả của việc đầu tư vào TSHH gồm có:
- Khối lượng vốn đầu tư thực hiện: là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động
của các công cuộc đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác xây dựng, chi phí cho công tác

mua sắm và lắp đặt thiết bị, chi phí quản lý và chi phí khác
- Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
11
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
+ Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây
dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm hàng hóa hoặc tiến hành các
hoạt động dịch vụ) đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm
thu sử dụng, có thể đưa vào hoạt động được ngay
+ Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm: Khi các tài sản cố định được huy động vào
sử dụng, chúng đã làm gia tăng năng lực sản xuất, phục vụ cho nền kinh tế. Năng lực sản
xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất, phục vụ của các tài sản cố
định đã được huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động
dịch vụ. Năng lực sản xuất phục vụ được thể hiện ở công suất hoặc năng lực phát huy tác
dụng của các tài sản cố định được huy động
3. Đầu tư vào tài sản vô hình
3.1. Khái niệm và đặc điểm đầu tư vào TSVH
3.1.1. Khái niệm TSVH
Tài sản vô hình là tài sản không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá
trị đã được đầu tư thỏa mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào nhiều
chu kỳ kinh doanh
Theo Ủy ban Tiêu chuẩn Thẩm định giá quốc tế “Tài sản vô hình là những tài sản
thể hiện ra bằng những lợi ích kinh tế, chúng không có cấu tạo vật chất, mà tạo ra những
quyền và những ưu thế đối với người sở hữu và thường sinh ra thu nhập cho người sở hữu
chúng”.
Hiện nay tồn tại nhiều cách phân loại tài sản vô hình khác nhau.
Theo Luật thuế thu nhập của Mỹ, tài sản vô hình có thể chia làm 6 loại cơ bản:
- Các sáng chế, phát minh, công thức tính, quy trình, mô hình, kỹ năng.
- Bản quyền và các tác phẩm văn học, âm nhạc, nghệ thuật.

- Thương hiệu, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá.
- Thương quyền, giấy phép, hợp đồng.
- Phương pháp, chương trình, hệ thống, thủ tục, nghiên cứu, dự báo, dự toán, danh
sách khách hàng, các số liệu kỹ thuật.
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
12
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
- Các thứ “tương tự” khác. Một thứ được gọi là tương tự nếu nó tạo ra giá trị không
phải nhờ vào các thuộc tính vật chất mà nhờ vào nội dung trí tuệ hoặc các quyền tài sản vô
hình khác của nó.
Khái niệm tài sản theo nghĩa pháp lý được phân thành bốn dạng: tiền, vật, giấy tờ có
giá và “quyền tài sản”. Quyền tài sản là các quyền trị giá được bằng tiền và có thể trao đổi
trong giao lưu dân sự (như quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê mướn cầu thủ, thỏa thuận gia
công …). Các tài sản trí tuệ là loại tài sản tồn tại dưới hình thức “quyền tài sản” và bao gồm
các nhân tố trí tuệ mà doanh nghiệp có thể kiểm soát hoặc xác lập quyền sở hữu như: các cơ
sở dữ liệu (data base), các quy trình tác nghiệp, các bí quyết công nghệ … Quyền sở hữu đối
với một tài sản cụ thể bao gồm ba khía cạnh: quyền chiếm hữu tài sản, quyền sử dụng tài sản
và quyền định đoạt tài sản.
Một tài sản trí tuệ nếu thỏa mãn các điều kiện bảo hộ pháp lý cụ thể theo quy định
của pháp luật sở hữu trí tuệ sẽ trở thành một đối tượng sở hữu trí tuệ (intellectual property -
IP) như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tác phẩm có bản quyền
(copyright) … Tập hợp các đối tượng sở hữu trí tuệ mà một doanh nghiệp nắm giữ được gọi
là tập đối tượng sở hữu trí tuệ (IP Portfolio) của doanh nghiệp đó. Một đối tượng sở hữu trí
tuệ nếu được doanh nghiệp xúc tiến đầy đủ các biện pháp hoặc thủ tục bảo hộ thích ứng sẽ
xác lập nên một quyền sở hữu trí tuệ (IP right) như bằng độc quyền sáng chế, bằng độc
quyền kiểu dáng công nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu … Một quyền sở hữu trí
tuệ có thể có tính độc quyền tuyệt đối (như bằng độc quyền sáng chế) hoặc độc quyền tương
đối (như bí mật kinh doanh hoặc các tác phẩm có bản quyền). Điểm đáng chú ý của các đối
tượng sở hữu trí tuệ so với các tài sản trí tuệ khác là, pháp luật sở hữu trí tuệ không chỉ điều

chỉnh quá trình xác lập, bảo vệ và chuyển giao quyền tài sản đối với các đối tượng sở hữu trí
tuệ, mà còn chú trọng bảo vệ quyền nhân thân của các tác giả đã tạo ra các đối tượng sở hữu
trí tuệ đó (như quyền đứng tên trên văn bằng độc quyền, quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền
nhận thù lao và giải thưởng liên quan …).
Việc chuyển giao hẳn quyền sở hữu (bao gồm cả quyền chiếm hữu, quyền sử dụng
và quyền định đoạt) đối với một tài sản trí tuệ cụ thể hoặc một đối tượng sở hữu trí tuệ cho
một chủ thể khác được gọi là sự chuyển nhượng tài sản (assignment), như trong trường hợp
Unilever mua lại nhãn hiệu P/S của Công ty hoá mỹ phẩm P/S. Việc chủ sở hữu vẫn nắm
quyền sở hữu tài sản và chỉ cấp phép cho một chủ thể khác sử dụng tài sản trí tuệ liên quan
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
13
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
của mình gọi là sự cấp li-xăng (licensing), như trong trường hợp Unilever cấp li-xăng cho
Kinh Đô sử dụng nhãn hiệu WALL trong một thời gian ngắn để thuận tiện cho việc chuẩn bị
và lăng xê nhãn hiệu thay thế sau khi mua lại xưởng kem từ Unilever. Trong một hợp đồng
nhượng quyền thương mại (franchising), việc cấp li-xăng nhãn hiệu hay thương hiệu là một
trong các giao kết cơ bản và bên cạnh đó, hoạt động hỗ trợ tác nghiệp và hỗ trợ tiếp thị có
thể dẫn theo việc cấp li-xăng một số tài sản trí tuệ khác như bí quyết công nghệ hoặc tác
nghiệp, các tài liệu hướng dẫn hoặc các mẫu thiết kế có bản quyền …
Bên cạnh các sáng kiến đóng góp trực tiếp vào việc làm giàu cơ sở tri thức
(intellectual base) của doanh nghiệp, mọi người lao động trong doanh nghiệp cũng thường
xuyên vận dụng kinh nghiệm, kỹ năng, óc phán đoán và tri thức cá nhân của mình trong quá
trình lao động công vụ. Do vậy, nhìn từ góc độ huy động và khai thác nguồn lực, nhà điều
hành cũng nên chú ý đến một đối tượng quản trị khác được gọi là nguồn vốn trí tuệ
(intellectual capital - IC) của doanh nghiệp, bao gồm nguồn nhân lực hiện hữu cùng các tài
sản trí tuệ (IA) được họ thường xuyên vận dụng và tạo dựng bổ sung cho doanh nghiệp,
trong đó có các quyền sở hữu trí tuệ (IP). Ở góc độ chiến lược kinh doanh, có thể nói rằng,
các quyền sở hữu trí tuệ (IP) là công cụ để bảo vệ các tài sản hiện tại, trong khi nguồn vốn
trí tuệ (IC) và các tài sản trí tuệ (IA) đảm nhận vai trò khai thác các giá trị tương lai. Cách

tiếp cận này sẽ giúp phân định rõ nhiệm vụ tác nghiệp của một luật sư sở hữu trí tuệ (Patent
Attorney, Trademark Agency, IP lawyer …) với một quản trị viên tài sản trí tuệ (IP
Manager, IA Manager). Một doanh nghiệp đã phát triển đến một tầm mức nào đó có thể sẽ
có nhu cầu thiết lập một nhóm, tổ hoặc bộ phận quản trị sở hữu trí tuệ (IP team/group) hoặc
chuyên nghiệp hơn nữa là quản trị tài sản trí tuệ (IA group/division), đảm nhiệm cả hai chức
năng pháp lý lẫn quản trị.
3.1.2. Các đối tượng sở hữu trí tuệ
- Sáng chế (invention) là một giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình,
sẽ được bảo hộ độc quyền cho người đăng ký trước nếu thỏa ba điều kiện: có khả năng áp
dụng công nghiệp, có tính mới và có trình độ sáng tạo. Một nhà sáng chế hoặc một doanh
nghiệp có thể nộp đơn đăng tất cả các sáng chế mà học có ngay khi mỗi sáng chế vừa phát
sinh để giành quyền ưu tiên. Sau đó, tùy theo điều kiện thương mại hoá của mỗi sáng chế,
họ có thể tạm giữ kín sáng chế trong vòng 19 tháng để quan sát hoặc chuẩn bị thị trường, để
hoàn thiện sáng chế … hay cho công bố để chào bán hoặc chào mời hợp tác, để có quyền
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
14
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
tạm thời khuyến cáo các doanh nghiệp khác không được khai thác … Cũng từ sau ngày nộp
đơn, họ có một thời hạn là 42 tháng để ra quyết định cuối cùng là có nên lấy bằng độc quyền
hay không. Có khi chỉ một thời gian ngắn sau khi đăng ký, đã xuất hiện một sáng chế khác
ưu việt hơn của người khác, hoặc có khi sau khi đã công bố và tìm mọi cách xâm nhập thị
trường mà vẫn không thành công, người đăng ký có thể từ bỏ đơn sáng chế đã nộp do sáng
chế không có triển vọng thương mại hoá. Các tập đoàn công nghiệp quốc tế hàng năm đều
đăng ký vài ngàn đơn sáng chế vào nhiều nước khác nhau trong đó có VN, chủ yếu là để ém
trước các thị trường (preempt the markets) của các sản phẩm dự định được sản xuất theo các
sáng chế đã nộp đơn. Họ có thể tiến hành lấy bằng độc quyền hoặc không trong vòng một,
hai, ba, bốn hoặc năm năm sau tùy theo giá trị khai thác thương mại của mỗi sáng chế. Theo
đó, hệ thống đăng ký sáng chế về bản chất là một hệ thống pháp lý trợ giúp kinh doanh công
nghệ chứ không phải là hệ thống để thể hiện hoặc tôn vinh tài năng. Cũng như mọi loại sản

phẩm mới khác, có công nghệ mới sẽ hết sức đắt giá nhưng sẽ có nhiều hơn các công nghệ
mới chỉ mang tính lót đường cho tri thức và công nghiệp.
- Nhãn hiệu (brand/trademark) là dấu hiệu để phân biệt các sản phẩm (hàng hoá
và/hoặc dịch vụ) cùng loại. Giá trị của nhãn hiệu đuợc hình thành dần trong tiến trình tiếp thị
và có thể phân tách thành năm thành tố giá trị khác nhau bao gồm: mức độ nhận biết về nhãn
hiệu, chất lượng cảm thụ của nhãn hiệu, các ấn tượng liên kết với nhãn hiệu, ý hướng trung
thành của khách hàng và các lợi thế cạnh tranh của nhãn hiệu. Một mức độ nhận biết (brand
awareness) rõ ràng là cơ sở tối thiểu để tạo lập sự tin cậy đối với nhãn hiệu và giúp neo kết
các thành tố giá trị khác
Cả bốn thành tố giá trị trên khi được bồi tụ đến một mức độ nào đó sẽ tạo nên lợi thế
hình ảnh cho nhãn hiệu, bên cạnh bốn loại lợi thế cạnh tranh khác mà nhãn hiệu có thể có là:
lợi thế về công nghệ, lợi thế về tài chính, lợi thế về thương mại và lợi thế về pháp lý (như
các văn bằng độc quyền sở hữu trí tuệ khác trợ lực cho nhãn hiệu). Việc phân tách giá trị
nhãn hiệu thành năm thành tố giá trị như trên (hoặc qua một phương án phân tích khác) sẽ
giúp nhận biết chính xác hơn các tương tác nhân - quả trong tác nghiệp quản trị nhãn hiệu
- Tên thương mại của doanh nghiệp hoặc thương hiệu (corporate brand/trade name)
là dấu hiệu để nhận biết và phân biệt các chủ thể kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp sử dụng
luôn thương hiệu làm nhãn hiệu (IBM, Prudential), thường là do kinh doanh đơn ngành hoặc
phổ sản phẩm (hàng hoá, dịch vụ) có tính liên kết hay bổ trợ cho nhau. Ngược lại, nhiều
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
15
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
doanh nghiệp lại quản trị thương hiệu và nhãn hiệu như những giá trị độc lập và tách biệt,
thậm chí chẳng liên quan gì đến nhau (P&G, Unilever), thường là do phổ sản phẩm có tính
đa dạng phục vụ các phân mảng thị trường (segment) khác biệt với chất lượng cảm thụ hoặc
các ấn tượng liên kết không nên trộn lẫn với nhau hoặc đôi khi còn trái ngược với nhau (thí
dụ, trong phổ sản phẩm vừa có tuyến (line) thực phẩm cho người, vừa có tuyến thực phẩm
cho gia súc). Trong một giao kết licensing hoặc franchising, nếu có quá trình cấp phép sử
dụng thương hiệu, có thể hiểu rằng về mặt bản chất, thương hiệu đó đang được sử dụng như

một nhãn hiệu dịch vụ (service mark). Việc phân định về bản chất chức năng của thương
hiệu với chức năng của nhãn hiệu trong cách tiếp cận này sẽ giúp phát triển các chiến thuật
và sách lược khai thác mối tương quan giữa thương hiệu (corporate brand) với các nhãn hiệu
(brand) trong tập nhãn hiệu (brand portfolio) của doanh nghiệp. Không như giá trị của nhãn
hiệu về cơ bản được hình thành trong mối quan hệ với mảng khách hàng mục tiêu (target
segment), giá trị của thương hiệu được hình thành qua quá trình giao kết và giao tiếp với
hàng loạt các đối tác kinh doanh như: các nhà cung ứng, các nhà phân phối, khách hàng, các
nhà đầu tư, cổ đông, người lao động trực thuộc, chính quyền, giới báo chí, giới phân tích …
mà vào từng giai đoạn kinh doanh khác nhau, một đối tác nào đó lại có vai trò quan trọng
hơn đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Đó cũng là quá trình giúp doanh nghiệp thiết lập
nên các mối quan hệ (relationships), xác lập các quyền (rights) được thụ hưởng, quản lý các
công việc đang tiến triển (going concerns), phát triển các tài sản trí tuệ và tạo dựng nên lợi
thế hình ảnh (corporate goodwill) cho doanh nghiệp. Năm thành tố vừa liệt kê cấu thành
phần tài sản vô hình của doanh nghiệp, kết hợp cùng nguồn vốn tiền tệ và các tài sản hữu
hình khác xác lập và củng cố giá trị của thương hiệu trên trường kinh doanh, phản ánh qua
một trong những thước đo chủ yếu là giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp một khi đã được
tung vào sàn giao dịch chứng khoán. Do vậy, việc chuyển nhượng tên thương mại hoặc
thương hiệu bao giờ cũng phải đi kèm cùng toàn bộ cơ sở kinh doanh liên quan.
3.1.3. Đặc điểm TSVH
+ Gắn liền với chủ thể nhất định
+ Mang lợi ích của chủ thể đó
+ Không có hình thức vật chất cụ thể
 Không dễ dàng trong việc đánh giá tài sản
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
16
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
3.2. Các hình thức đầu tư vào TSVH
Trong nền kinh tế thị trường, một trong những mục tiêu quan trọng của các doanh
nghiệp là phải làm gia tăng được giá trị của doanh nghiệp mình, giá trị này bao gồm cả giá

trị của tài sản hữu hình và giá trị của tài sản vô hình. Điều này muốn khẳng định lại một lần
nữa, giá trị tài sản vô hình trong doanh nghiệp là một đại lượng có thật và trong nhiều
trường hợp có giá trị rất lớn, thậm chí lớn hơn nhiều giá trị của những tài sản hữu hình trong
doanh nghiệp cộng lại. Vào những năm 70 của thế kỷ XX, tỷ lệ trung bình giữa giá trị thị
trường (dựa vào giá cổ phiếu trên thị trường) với giá trị sổ sách (dựa vào bảng cân đối kế
toán) của các Công ty là 1/1, thì theo nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế đến thời điểm
hiện nay tỷ lệ này đã lên tới 6/1. Minh chứng tiêu biểu, đó là trường hợp của Công ty
Microsoft, năm 1996, tỷ lệ giữa giá trị thị trường với giá trị sổ sách lên tới 85/1; năm 1997,
tỷ số này ở Công ty Coca Cola là 9/1. Theo số liệu của Chính phủ Hà Lan, năm 1992, đầu tư
vào tài sản vô hình chiếm đến 35% tổng vốn đầu tư của nhà nước cũng như của tư nhân ở
Hà Lan. Còn tại Mỹ cũng trong năm này, vốn đầu tư cho các tài sản vô hình đã vượt vốn đầu
tư cho các tài sản hữu hình. Ở Thuỵ Điển, nguồn đầu tư cho các tài sản vô hình chiếm đến
20% GDP...
Nắm bắt được tầm quan trọng của tài sản vô hình và chiều hướng phát triển không
ngừng về mặt giá trị của tài sản vô hình, nhiều nước đã nhanh chóng tập trung mọi nỗ lực
đầu tư cho loại tài sản mới này.
3.2.1. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, là một trong những nguồn lực quan trọng
của sự phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực được hiểu như là nơi sinh sản, nuôi dưỡng
và cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Nó là một yếu tố tham gia trực tiếp vào
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, là tổng thể những con người cụ thể tham gia vào quá
trình lao động.
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực, thể hiện mối
quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Chất lượng
nguồn nhân lực là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế và đời sống người dân trong
một xã hội nhất định. Chất lượng nguồn nhân lực ảnh hưởng mạnh đến năng suất lao động,
đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
17

Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
Đối với doanh nghiệp, nguồn nhân lực có vị trí quan trọng. Đó là yếu tố duy nhất
đưa lại lợi ích kinh tế, làm tăng của cải cho doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh
doanh phải có 3 yếu tố cơ bản là: tư liệu lao động, đối tượng lao động và lao động; nếu
không có con người thì yếu tố tư liệu lao động và đối tượng lao động chỉ là vật chết, chính
yếu tố lao động mới làm sống lại tư liệu sản xuất thông qua việc đưa chúng tham gia vào quá
trình sản xuất. Người lao động là yếu tố cách mạng nhất của quá trình sản xuất. Mặt khác,
nguồn nhân lực có chất lượng cao góp phần làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
tăng thu hút đầu tư. Do vậy cần phải đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng nguồn lực
con người, đó là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người
lao động, để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất định; đó cũng là quá trinh cải
thiện, nâng cao chất lượng điều kiện làm việc của người lao động.
Như vậy, nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm:
- Đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ nguồn nhân lực
- Đầu tư cho công tác chăm sóc sức khoẻ, y tế
- Cải thiện môi trường, điều kiện làm việc
- Trả lương đúng và đủ cho người lao động.
• Đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ lao động
Hoạt động đào tạo: chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ… Giáo dục
cơ bản cung cấp những kiến thức cơ bản để phát triển năng lực cá nhân. Giáo dục nghề và
giao dục đại học (đào tạo) vừa giúp cho người học có kiến thức đồng thời cung cấp tay nghề,
kỹ năng, chuyên môn. Với mỗi trình độ nhất định, người được đào tạo biết được họ sẽ phải
đảm nhận những công việc gì, yêu cầu kỹ năng cũng như chuyên môn nghề nghiệp phải như
thế nào?
Vai trò của hoạt động giáo dục đối với việc nâng cao chất lượng lao động được cụ
thể như sau:
- Tăng tích luỹ vốn con người đặc biệt là tri thức và sẽ giúp cho việc sáng tạo ra công
nghệ mới, tiếp thu công nghệ mới. Do đó, thúc đẩy quá trình tăng trưởng dài hạn của doanh
nghiệp.

- Tạo ra một lực lượng lao động có trình độ, có khả năng làm việc với năng suất cao,
là cơ sở thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững.
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
18
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
• Đầu tư dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ cải thiện chất lượng lao động
Sức khoẻ có tác động đến chất lượng lao động cả hiện tại và tương lai. Người có sức
khoẻ tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp hoặc gián tiếp bằng việc nâng cao sức bền
bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung cao. Vì vậy nhanh chóng tiếp thu kiến thức, kỹ năng qua
giáo dục – đào tạo.
Hoạt động đầu tư cho lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe người lao động bao gồm
những nội dung như:
+ Đầu tư cho hoạt động khám sức khỏe: Khám sức khỏa tuyển dụng, khám sức khỏe
định kỳ, khám phát hiện bệnh nghề nghiệp
+ Vệ sinh lao động, vệ sinh an toàn thực phẩm
+ Bảo hộ lao động: Trang phục lao bảo hộ lao động, trang bị phòng sơ cấp cứu và
các tai nạn lao động thường gặp trong sản xuất….
+ Bảo hiểm: BHYT, BHLĐ,BHXH… cho người lao động
• Trả lương đúng và đủ cho người lao động, làm cho người lao động nhận thức đúng
đắn công việc và vai trò của mình trong doanh nghiệp.
Trước đây người ta coi tiền lương là một khoản chi phí của doanh nghiệp và vì thế
người ta tìm mọi cách để giảm thiểu khoản chi trả lương. Ngày nay các doanh nghiệp cũng
đã nhìn thấy những vai trò nhất định của hoạt động thanh toán lương cho người lao động đối
với sự phát triển của doanh nghiệp. Lương phù hợp với khả năng khiến người lao động vững
tâm và phấn đấu hơn trong công việc. Họ đóng góp, cống hiến nhiều hơn, năng suất lao
động cao hơn… góp phần thúc đẩy hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy xu hướng
chung hiện nay là nhìn nhận việc trả lương dưới góc độ đầu tư phát triển và xem nó như là
một hoạt động đầu tư.
Các hoạt động trên có tác động hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau trong việc cải thiện

chất lượng nguồn nhân lực.
3.2.2. Đầu tư nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ
Khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Khoa học và công nghệ được coi là “chiếc đũa thần mầu nhiệm” để tăng năng suất lao động,
phát triển lực lượng sản xuất. Nhờ ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ đã làm
cho chi phí về lao động, vốn tài nguyên trên một đơn vị sản phẩm giảm xuống hay nói một
cách khác, hiệu qủa sử dụng của các yếu tố này tăng lên.
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
19
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
Sự phát triển khoa học và công nghệ cho phép tăng trưởng và tái sản xuất mở rộng
theo chiều sâu, làm xuất hiện những ngành kinh tế có hàm lượng khoa học cao như: công
nghệ điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học… đang là cơ hội và thách thức đối
với các quốc gia hướng tới nền kinh tế tri thức. Như vậy, khoa học và công nghệ là một yếu
tố đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trưởng nhanh và bền vững. Vì vậy,
nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ cần phải được quan tâm và chú trọng bằng
cách đầu tư cho nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
- Đầu tư cho nghiên cứu khoa học
Đầu tư cho khoa học là một loại đầu tư mạo hiểm. Khảo sát ở Hoa Kỳ, tháng
5/2006 cho thấy 10 đề tài nghiên cứu cơ bản thì 1 đề tài có khả năng trở thành hàng hoá. Vì
vậy, việc chi cho khoa học không nên cứng nhắc như những ngành kinh tế khác.Nó tạo ra
sức bật nhiều cho nền kinh tế vì nó tạo ra những sản phẩm mới, những bước đột phá mới về
khoa học công nghệ là một nội dung trong đầu tư phát triển
Mỗi năm nước Mỹ đầu tư cho KH&CN 312 tỷ USD. Ở Trung Quốc đầu tư cho
KH&CN 1,3% GDP, Thái Lan 2,8% GDP, trong khi đó con số này ở Việt Nam kinh phí cho
KHCN là 2.411 tỷ đồng, bằng 0,34% GDP (theo nguồn Bộ Tài chính năm 2004)
-Đầu tư cho công tác chuyển giao công nghệ, phát triển sản phầm mới
Chuyển giao công nghệ là hình thức mua và bán công nghệ trên cơ sở Hợp đồng
chuyển giao công nghệ đã được thỏa thuận phù hợp với các quy định của pháp luật. Bên bán

có nhiệm vụ chuyển giao các kiến thức tổng hợp của công nghệ hoặc cung cấp các máy móc,
thiết bị dịch vụ đào tạo, kèm theo các kiến thức công nghệ cho bên mua và bên mua có nghĩa
vụ thanh toán cho bên bán để tiếp thu, sử dụng các kiến thức công nghệ đó theo các điều
kiện đã thỏa thuận và ghi nhận trong hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Phát triển sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới đòi hỏi cần đầu tư cho các
hoạt động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ. Đầu tư nghiên cứu hoặc mua công
nghệ đòi hỏi vốn lớn và độ rủi ro cao.
Hiện nay khả năng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học công
nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn. Cùng với đà phát triển của kinh tế đất
nước và doanh nghiệp, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này sẽ ngày càng tăng,
tương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp.
3.2.3. Đầu tư cho hoạt động Marketing
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
20
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
Hoạt động marketing là một trong những hoạt động quan trọng của doanh nghiệp.
Đầu tư cho hoạt động marketing bao gồm đầu tư cho hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương
mại, xây dựng thương hiệu… Đầu tư cho các hoạt động marketing cần chiếm một tỷ trọng
hợp lý trong tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Marketing = Nhu cầu (need) + mong muốn (want) + cầu/yêu cầu (demand) + trao
đổi(exchange)
Marketing quyết định và điều phối sự kết nối các hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp với thị trường (hay cụ thể hơn là khách hàng). Đảm bảo cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp hướng theo thị trường, biết lấy thị trường, nhu cầu và ước
muốn của khách hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh doanh. Khi tạo
ra được một sản phẩm/dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thì giá trị công ty cũng
tăng theo.
Đầu tư cho hoạt động Marketing bao gồm đầu tư cho:
- Quảng cáo (chiến lược ngắn hạn)

- Xúc tiến thương mại
- Xây dựng thương hiệu (Chiến lược dài hạn)
Quảng cáo, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu không phải là những hoạt
động riêng biệt tách rời mà có mối liên hệ thống nhất mật thiết. Quảng cáo là chiến lược
ngắn hạn trong mục tiêu xây dựng thương hiệu dài hạn và được hỗ trợ bởi các hoạt động xúc
tiến thương mại.
Thương hiệu là một tài sản vô hình đặc biệt mà trong nhiều doanh nghiệp nó được
coi là tài sản quan trọng nhất. Điều này là bởi vì những tác động kinh tế mà thương hiệu có
thể mang lại. Thương hiệu ảnh hưởng đến lựa chọn của người tiêu dùng, của nhân viên, nhà
đầu tư và cả các cơ quan công quyền. Trong một thế giới có nhiều lựa chọn, sự ảnh hưởng
này là tối quan trọng cho thành công trong thương mại và tạo ra giá trị cho cổ đông. Ngay cả
các tổ chức phi chính phủ cũng coi thương hiệu là nhân tố then chốt trong việc tìm kiếm các
nguồn tài trợ, quyên góp cũng như tìm kiếm ứng viên tình nguyện.
Một vài thương hiệu cũng đã chứng tỏ được tính lâu bền đến đáng kinh ngạc. Coca-
Cola được coi là thương hiệu có giá trị nhất với 118 năm tuổi. Phần lớn các thương hiệu còn
lại cũng vào khoảng 60 năm tuổi hoặc hơn trong khi vòng đời bình quân của một doanh
nghiệp theo thống kê là vào khoảng 25 năm tuổi . Nhiều công trình nghiên cứu đã cố gắng
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
21
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
ước lượng mức độ đóng góp của thương hiệu vào giá trị doanh nghiệp. Một nghiên cứu của
Interbrand kết hợp với JP Morgan đã kết luận rằng thương hiệu đóng góp vào khoảng 1/3 giá
trị cho cổ đông. Công trình nghiên cứu cũng tiết lộ rằng thương hiệu tạo ra một giá trị đáng
kể cho người tiêu dùng, doanh nghiệp hoặc cả hai.
Một vài thương hiệu nổi tiếng trên thế giới
Các công trình nghiên cứu của đại học Harvard, đại học South Carolina và
Interbrand đối với các công ty có trong bảng phân hạng “Thương hiệu tốt nhất toàn cầu” cho
thấy các công ty này có khả năng hoạt động hiệu quả hơn nhiều các doanh nghiệp khác xét ở
tất cả các khía cạnh. Công trình cũng cho thấy rằng việc sở hữu một danh mục cổ phiếu của

Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
22
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
các thương hiệu này là có giá trị hơn nhiều nếu đầu tư vào các thương hiệu nằm trong bảng
danh sách của Morgan Stanley’s global MSCI và S&P 500.
Ngày nay, các công ty hàng đầu tập chung nỗ lực quản lý của họ vào tài sản vô hình.
Điển hình, Ford Motor đã giảm đáng kể cơ cấu đầu tư từ tài sản hữu hình vào tài sản vô
hình. Trong khoảng vài năm gần đây, Ford đã đầu tư trên 12 tỷ USD để gia tăng uy tín cho
những thương hiệu như Jaguar, Aston Martin, Volvo và Land Rover. Tập đoàn điện tử Sam
sung cũng đầu tư rất mạnh vào tài sản vô hình, sẵn sàng bỏ ra 7.5% doanh thu hàng năm để
đầu tư vào Nghiên cứu phát triển và 5% cho lĩnh vực truyền thông. Trong lĩnh vực hàng tiêu
dùng, nhiều công ty sẵn sàng bỏ ra đến 10% doanh thu hàng năm cho lĩnh vực Marketing.
Đó chính là những điều mà John Akasie đã viết trong một bài báo của tạp chí Forbes:
“Chung quy lại thì đó là những vấn đề về thương hiệu, xây dựng thương hiệu và các
mối quan hệ với khách hàng. Các công ty sở hữu các thương hiệu nổi tiếng có thể thu được
lợi nhuận lớn từ các khoản đầu tư và tăng trưởng nhanh hơn, các công ty này cũng không
phải vướng bận nhiều với việc quản lý nhà máy cũng như một khối lượng lớn nhân công
thông qua những gì mà thị trường chứng khoán đã tưởng thưởng cho họ với chỉ số P/E cao”.
Thống kê của Interbrand về tỷ lệ giá trị tài sản trong tổng tài sản doanh nghiệp cho
thấy tài sản vô hình, trong đó có thương hiệu rất quan trọng. Thương hiệu chiếm ít nhất 1/3
giá trị cổ phiếu, có những trường hợp rất cao như McDonald’s (71%), Disney (68%), Coca-
Cola và Nokia (51%). Còn tại Việt Nam, thương hiệu kem đánh răng P/S đã được mua lại
với giá 5,3 triệu USD.Đó là giá trị xã hội của thương hiệu
Giá trị kinh tế của thương hiệu đối với người sở hữu nó ngày nay được chấp nhận
một cách rộng rãi nhưng giá trị xã hội của thương hiệu vẫn là cái gì đó không rõ ràng. Liệu
thương hiệu có tạo ra giá trị cho ai khác ngoài chủ sở hữu? Và liệu giá trị mà thương hiệu
tạo ra có phải bắt nguồn phần lớn từ chi phí của xã hội? Người ta tìm thấy mối liên hệ trực
tiếp giữa thương hiệu với việc bóc lột sức lao động ở nhiều quốc gia đang phát triển và việc
đồng hóa văn hóa. Ngoài ra, thương hiệu còn bị kết tội gây cản trở cạnh tranh và làm lu mờ

tính trong sạch của hệ thống tài chính bằng cách khuyến khích độc quyền và giới hạn sự lựa
chọn của khách hàng. Xét ở khía cạnh ngược lại, nhiều người cho rằng thương hiệu tạo ra
giá trị đáng kể cho chủ sở hữu cũng như cho xã hội bằng cách gia tăng cạnh tranh, cải thiện
chất lượng sản phẩm và làm gia tăng áp lực cho người chủ sở hữu phải hành xử có trách
nhiệm hơn với xã hội.
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
23
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
Cạnh tranh trên cơ sở hiệu quả hoạt động và giá cả là bản chất của cạnh tranh về
thương hiệu, điều này sẽ thúc đẩy quá trình cải tiến và phát triển sản phẩm. Các công ty đầu
tư mạnh vào việc phát triển thương hiệu thường có danh mục sản phẩm mới nhiều hơn các
công ty khác. Một nghiên cứu được thực hiện bởi PIMS Europe cho Hiệp hội thương hiệu
Châu Âu (European Brands Association) cho thấy rằng các doanh nghiệp có thương hiệu
kém thường đưa ra ít sản phẩm mới, ít đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu phát triển và các sản
phẩm ít có lợi thế cạnh tranh hơn các doanh nghiệp cùng ngành có thương hiệu tốt hơn.
Thống kê cho thấy gần một nửa công ty có thương hiệu kém hầu như không đầu tư gì cho
nghiên cứu phát triển so sánh với dưới ¼ các công ty có thương hiệu tốt. Và trong khi 26%
các nhà sản xuất có thương hiệu kém hầu như không bao giờ giới thiệu các sản phẩm mới,
con số này thấp hơn nhiều đối với các nhà sản xuất có thương hiệu tốt hơn là 7%.
Người chủ sở hữu thương hiệu phải chịu trách nhiệm về chất lượng của sản phẩm,
dịch vụ cũng như hành vi của họ đối với xã hội. Nếu kết nối mối liên hệ giữa thương hiệu
với doanh số và giá trị cổ phiếu, chi phí tiềm tàng của việc hành xử phi đạo đức là cao hơn
rất nhiều lần so với lợi ích nhận được khi hành xử phi đạo đức. Một số thương hiệu nổi tiếng
cũng đã từng bị cáo buộc là hành xử phi đạo đức nhưng hay thay, ngày nay các thương hiệu
này được coi như những ứng cử viên tiên phong trong việc đưa ra các chuẩn mực đạo đức và
hệ thống giám sát nội bộ. Điều này không có nghĩa là các thương hiệu này đã thành công
trong việc loại trừ các hành vi phi đạo đức, nhưng ít nhất cũng thể hiện rằng họ sẵn sàng đối
mặt với những vấn đề này.
Các công ty càng thành thật trong việc chấp nhận khoảng cách mà họ phải vượt qua

xét về hành vi đạo đức thì sẽ càng được khách hàng tin tưởng. Nike, một công ty đã từng bị
lên án khi các nhà cung cấp của nó bóc lột sức lao động ở các quốc gia đang phát triển, ngày
nay cung cấp báo cáo kiểm toán bên ngoài . Theo đó chỉ một sự giảm sút khoảng 5% doanh
thu có thể là sự mất mát giá trị thương hiệu lên đến trên 1 tỷ đôla. Như vậy, rõ ràng việc
hành xử theo chuẩn mực đạo đức có mối tương quan với những lợi ích kinh tế của những
công ty này.
Đầu tư xây dựng thương hiệu là một cách để nâng cao giá trị tài sản, phát triển
doanh nghiệp, từ đó định vị doanh nghiệp.
3.3. Đánh giá hiệu quả của đầu tư vào tài sản vô hình
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
24
Bài tập nhóm Kinh tế đầu tư
Năm 2003, Tạp chí Business Week hợp tác cùng Tập đoàn Interbrand công bố danh
sách 100 thương hiệu hàng đầu thế giới (thương hiệu là 1 loại tài sản vô hình quan trọng của
các doanh nghiệp): dẫn đầu là Coca Cola (69,637 tỷ USD), Microsoft (64,09 tỷ USD), IBM
(51,188 tỷ USD), General Electric (41,311 tỷ USD), Intel (30,861 tỷ USD, Nokia (29,970 tỷ
USD), Disney (29,256 tỷ USD), Mc Donald’s (26,375 tỷ USD), Marlboro (24,151 tỷ USD),
Mercedes (21,101 tỷ USD)... Ở Việt Nam cũng đã có một số Công ty xác định giá trị nhãn
hiệu hàng hoá của mình như: giá trị nhãn hiệu của Công ty P/S là 5,3 triệu USD, nhãn hiệu
Bia Sài Gòn là 9,5 triệu USD... Tất cả những điều trên muốn nói rằng, khi xem xét đánh giá
một doanh nghiệp không thể không đi vào đánh giá yếu tố vô hình trong đó, bởi vì doanh
nghiệp khác với các tài sản thông thường, đây là một thực thể động và có sự tham gia của
con người.
Trước đây, tài sản hữu hình vẫn được coi nhân tố chính tạo nên giá trị doanh nghiệp.
Ngày nay, hoàn toàn có thể nói rằng phần lớn giá trị doanh nghiệp là nằm ở tài sản vô hình.
Mối quan tâm của các cấp quản lý đối với loại tài sản này đã gia tăng một cách đáng kể.Vậy
làm thế nào để đánh giá hiệu quả đầu tư tài sản vô hình cũng như làm thế nào để định giá tài
sản vô hình?
Thực ra thì thị trường cũng nhận thức được sự hiện diện của tài sản vô hình nhưng

giá trị cụ thể của nó là không rõ ràng và chưa định lượng được. Ngay cả ngày nay, trong quá
trình xác định lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, việc tính toán chỉ dựa
trên các chỉ số như tỷ suất sinh lợi đầu tư, tài sản, vốn chủ sở hữu chứ không hề dựa vào các
chỉ số liên quan đến tài sản vô hình. . Thương hiệu, công nghệ, bằng sáng chế, nhân lực là
những nhân tố sống còn cho sự thành công của doanh nghiệp nhưng hiếm khi được xác định
giá trị một cách chi tiết, nó chỉ được tính gộp vào tổng giá trị tài sản một cách tương đối.
Có 2 cách dịnh giá tài sản vô hình đó là :
- Cách 1: Trực tiếp đi vào đánh giá giá trị của tài sản vô hình
- Cách 2: Gián tiếp tính toán thông qua việc xác định giá trị doanh nghiệp tổng thể
sau đó trừ đi giá trị của tài sản hữu hình trong doanh nghiệp đó.
• Trực tiếp đi vào đánh giá giá trị của tài sản vô hình. Theo hướng này có phương
pháp cơ bản sau:
- Các phương pháp chi phí: các phương pháp này dựa trên cơ sở cho rằng giá trị của
một tài sản được đo bằng chi phí để làm ra tài sản đó. Và hiện tại, có 2 phương pháp xác
Nhóm 12 Lớp Kinh tế đầu tư
I_2
25

×