Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Một số giải pháp nâng cao quản lý rủi ro tín dụng tại quỹ tín dụng nhân dân trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.63 MB, 84 trang )




1

LỜI MỞ ĐẦU

Trong đời sống kinh tế hằng ngày, rủi ro luôn tiềm ẩn, nó được coi là những bất
trắc, những biến cố không có lợi, năm ngoài sự mong đợi của con người. Rủi ro nhiều
khi mang lại những hậu quả không lường. Hoạt động kinh doanh Ngân hàng cũng luôn
có thể gặp nhiều loại rủi ro nhưng rủi ro nhưng rủi ro điển hình nhất mà Ngân hàng
luôn phải đối mặt là rủi ro tín dụng. Rủi ro khách hàng không trả được nợ. Rủi ro này
không chi gây tác động xấu tới ngân hàng mà ở mức độ trầm trọng hơn ảnh hưởng đến
toàn xã hội. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, nghiên cứu và đưa ra ác giải phát
nhằm hạn chế rủi ro tín dụng đang là mối quan tâm của các nhà quản trị ngân hàng và
xã hội.
Qua quá trình công tác tại Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương nhận được tầm
quan trọng của vấn đề này, cùng với sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn, em đã tìm
hiểu và chọn để tài:"
Một số giải pháp nâng cao quản lý rủi ro tín dụng tại Quỹ tín
dụng nhân dân Trung Ương " cho luận văn tốt nghiệp.
Với sự hạn chế về kiến thức, thời gian cũng như kinh nghiệm thực tế nên
luận văn không tránh khỏi những sai xót, hạn chế nhất định. Do vậy em rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô, các anh chị và các bạn để luận văn
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo GS.Đỗ
Hoàn Toàn đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, Ngày 29 tháng 09 năm 2012
Sinh viên thực hiện




Đỗ Nguyễn Duy Thanh



2

BẢNG KÊ CÁC CHỮ VIẾT TẮT


NHNN : Ngân hàng nhà nước
QTDTW : Quỹ tín dụng nhân dân trong ương
QTDND : Quỹ tín dụng nhân dân
QTDKV : Quỹ tín dụng khu vực
NHTM : Ngân hàng thương mại





















3

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1
BẢNG KÊ CÁC CHỮ VIẾT TẮT 2
MỤC LỤC 3
Chương 1. Cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng
1.1. Hoạt động tín dụng 5
1.1.1. Khái niệm 5
1.1.2. Bản chất 5
1.1.3. Phân loại hoạt động tín dụng 6
1.2 Tổng quan về rủi ro tín dụng 8
1.2.1. Khái niệm về rủi ro và rủi ro tín dụng 8
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng 9
1.3 Nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng 11
1.3.1. Nguyên nhân khách quan 11
1.3.2. Nguyên nhân chủ quan 13
1.3.3. Các yếu tố khác 18
1.4 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng 19
1.5 Khái niệm về phương pháp quản lý rủi ro tín dụng 21
1.5.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng 21
1.5.2. Nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng 22
1.5.3. Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng 25


Chương 2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại QTDTW
2.1. Giới thiệu khái quát về QTDTW 30
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 30
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của QTDTW 31
2.2. Chức năng, nhiệm vụ các phòng ban của QTDTW 33



4

2.3. Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại QTDTW 34
2.3.1. Môi trường xung quanh 34
2.3.2. Nội bộ QTDTW 37
2.3.3. Kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua 41
2.3.4.Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại QTDTW 49
2.4. Đánh giá tình hình quản lý rủi ro tại QTDTW 58
2.4.1. Đánh giá chung 58
2.4.2. Đánh giá công tác quản lý và khắc phục rủi ro tại QTDTW 60

Chương 3. Một số giải pháp nâng cao quản lý rủi ro tín dụng tại QTDTW
3.1 Định hướng phát triển hoạt động tín dụng tại QTDTW 64
3.1.1. Định hướng phát triển kinh doanh trong năm 2012 64
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động tín dụng trong thời gian tới
(sau năm 2012) 65
3.2 Một số giải pháp nâng cao quản lý rủi ro tín dụng tại QTDTW 65
3.2.1. Lương hóa rủi ro tín dụng 66
3.2.2. Nâng cao các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng 72
3.2.3. Một số giải pháp khác 73
3.3 Một số kiến nghị với Ngân hàng nhà nước 80
3.3.1. Đối với chính phủ 80

3.3.2. Đối với ngân hàng nhà nước 81
KẾT LUẬN 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85









5

CHƯƠNG 1
Cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng

1.1. Hoạt động tín dụng
1.1.1. Kháiniệm
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng
hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ tín dụng được
phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Khi chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa.
Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật - hàng
hóa. Về sau, tín dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ.[1]
Danh từ "Tín dụng" xuất phát từ tiếng La Tinh Greditum, có nghĩa là sự tin
tưởng và tín nhiệm lẫn nhau. Do đó, có thể hiểu Tín dụng là sự vay mượn. Cho vaylà
việc một bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài chính cho đối tượng khác (bên đi vay)
trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên cho vay trong một thời hạn thỏa thuận
và thường kèm theo lãi xuất. Do hoạt động này làm phát sinh một khoản nợ nên bên

cho vay còn gọi là chủ nợ, bên đi vay gọi là con nợ. Do đó, Tín dụng phản ánh mối
quan hệ giữa hai bên - Một bên là người cho vay, và một bên là người đi vay. Quan hệ
giữa hai bên ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời gian cho vay, lãi suất phải
trả, [2]
Thực chất, tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo
lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá
trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả.

1.1.2 Bảnchất
Từkháiniệmtrên,bảnchấtcủatíndụnglàmộtgiaodịchvềtàisảntrêncơsởhoàntrảvàc
ócácđặctrưngsau:
-Tàisảngiaodịchtrong quanhệtíndụng ngânhàngbaogồm haihìnhthứclà



6

chovay(bằngtiền)và chothuê(bấtđộngsảnvàđộngsản).
-Xuất pháttừnguyêntắc hoàn trả, vì vậyngườichovaykhichuyểngiaotàisản
chongườiđivay sửdụngphảicó cơsởđểtinrằngngườiđivay sẽtrảđúnghạn.
Đâylàyếutốhếtsứccơbảntrongquảntrịtíndụng.
-
Giátrịhoàntrảthôngthườngphảilớnhơngiátrịlúcchovay,haynóicáchkháclàngườiđivayphải
trảthêmphầnlãingoàivốngốc.
-
Trongquanhệtíndụngngânhàng,tiềnvayđượccấptrêncơsởbênđivaycamkếthoàntrảvôđiều
kiệnchobênchovaykhiđếnhạnthanhtoán.
- Đối với các tổ chức tín dụng, nội dung hành động chủ yếu là cho vay ( cấp
tín dụng ) và khắc phục rủi ro cho khách hàng.
1.1.3 Phânloạihoạtđộngtíndụng

Để quản lý các hoạt động tín dụng, việc đầu tiên là phải phân loại và xử lý các
khoản cho vay.
Phânloạichovay làviệcsắpxếpcáckhoảnchovay theotừngnhóm dựatrên
mộtsốtiêuthứcnhấtđịnh.Việcphânloạichovay cócơsởkhoahọclàtiềnđềđể thiếtlậpcácquy
trìnhchovay thíchhợpvànângcaohiệuquảquảntrịrủirotín
dụng.Phânloạichovaydựavàocáccăncứsauđây:
-Dựa vàomụcđích củachovay,hoạtđộngtíndụngcóthểphânchiathành các
loạisau:
+Chovayphụcvụsảnxuấtkinhdoanhcôngthươngnghiệp.
+Chovaytiêudùngcá nhân.
+Chovaymuabánbấtđộngsản.
+Chovaysảnxuấtnôngnghiệp.
+Chovaykinhdoanhxuấtnhậpkhẩu…
-Dựavàothờihạnchovay,hoạtđộngtíndụngcóthểphânchiathành cácloạisau:
+Cho vay ngắnhạn:làloạichovaycóthờihạnđến1năm.Mụcđíchcủaloại
chovaynàythườnglànhằmtàitrợchoviệcđầutưvàotàisảnlưuđộng.



7

+Chovaytrunghạn:làloạichovaycó
thờihạntrên1đến5năm.Mụcđíchcủaloạichovaynàylànhằmtàitrợchoviệcđầutưvàotàisảnc
ố định.
+Chovaydàihạn:làloạichovaycóthờihạntrên5năm.Mụcđíchcủaloại
chovaynàythườnglànhằmtàitrợđầutưvàocácdựánđầutư.
-
Dựavàomứcđộtínnhiệmcủakháchhàng,hoạtđộngtíndụngcóthểphânchiathànhcácloạisau:
+Chovaykhông cóbảođảm: là loạichovaykhôngcótàisảnthếchấp,cầm cố
hoặcbảolãnhcủangười khácmàchỉdựavào uy tíncủabảnthânkhách hàngvay

vốnđểquyếtđịnhchovay.
+Chovaycóbảođảm:làloạichovaydựatrêncơsởcácbảođảmchotiềnvay
nhưthếchấp,cầmcốhoặcbảolãnhcủamộtbênthứbanàokhác.
-Dựavàophương thức chovay,hoạtđộngtíndụng cóthểphân chiathành các
loạisau:
+Chovaytheomónvay:làloại cho vaymàmỗilầnvayvốn,kháchhàngvàtổ
chứctíndụngthựchiệnthủtụcvayvốncầnthiếtvàkýkếthợpđồngtíndụng.
+Chovaytheo hạnmứctíndụng:làloạichovay màtổchứctíndụngvàkhách
hàngxácđịnhvàthỏathuậnmộthạnmứctíndụngduy trìtrongmộtkhoảngthời giannhấtđịnh.
+Chovaytheohạnmứcthấuchi:làviệcchovaymàtổchứctíndụngthỏa thuận
bằngvănbảnchấpthuậnchokháchhàng chivượtsốtiềncótrêntàikhoản
thanhtoáncủakháchhàng.
-Dựavàoxuấtxứtíndụng,hoạtđộngtíndụngcóthểphânchiathànhcácloại sau:
+ Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng
thời người đi vay trực tiếp trả nợ vay cho ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại
các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán như là:
Chiết khấu thương mại; bao thanh toán.[3]
1.2Tổng quan về rủi ro tín dụng
1.2.1 Khái niệm về rủi ro và rủi ro tín dụng



8

Trước khi nghiên cứu về rủi ro , chúng ta cần tìm hiểu những khái niệm liên
quan tới rủi ro.
Bất trắc: là những biến cố mà trong đó khả năng xuất hiện của một sự kiện sẽ
không được biết. Bât trắc là những biến cố ngoài mong đợi, không lường trước, không
thể dự đoán hoặc đo lường được bằng xác xuất.

Hiểm họa: là trạng thái có thể diễn ra tổn thất nghiêm trọng, là nguyên nhân gây
ra tổn thất. Thông thường hiểm họa nằm ngoài tầm kiểm soát của những người có liên
quan. Hiểm họa là rủi ro nếu như người ta không biết trước, lường trước một cách chắc
chắn.
Nguy cơ rủi ro: là những đe dọa nguy hiểm có thể xảy ra gây ra tổn thất mà con
người không lường trước được.
Nguy cơ rủi ro phản ánh tình trạng tiềm ẩn và khả năng xảy ra rủi ro, nguy cơ
càng cao thì khả năng xảy ra rủi ro càng lớn. Nguy cơ rủi ro nói chung luôn tiềm ẩn
trong các hoạt động và môi trường sống và làm việc của con người, nó thường mang
tính quy luật và vận động biến đổi theo môi trường cũng như khả năng thích nghi, làm
chủ môi trường của con người.
Rủi ro: là những sự kiện bất ngờ, bất lợi đã xảy ra tốn thất cho con người, tố
chức và xã hội.
Rủi ro có các tính chất sau đây:
- Rủi ro là những sự kiện bất ngờ đã xảy ra. Đó là những sự kiện xảy ra mà con
người không lường trước một cách chắc chắn được. Mức độ bất ngờ trong các sự kiện,
tình hình không giống nhau và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nguyên nhân xảy ra rủi
ro, loại rui ro, những biện phát tiến hành để phòng tránh rủi ro
- Rủi ro gây ra tổn thất: rủi ro là sự kiện bất lợi, khi xảy ra để lại hậu quả cho
con người tổ chức và xã hội đồng thời gây nên những tổn thất. Tổn thất có thể tồn tại
dưới nhiều dạng, có thể là hữu hình nhưng cũng có thể là vô hình, khó lượng hóa một
cách cụ thể và chính xác được nhưng đều gây ra thiệt hại, làm giảm sút lợi ích của con
người, tổ chức và xã hội.
- Rủi ro là sự kiện ngoài mong đợi: vì rủi ro gây nên những tổn thất không ai



9

mong chờ rủi ro xảy ra với mình. Mọi người, trong mọi hoạt động đều có gắng để

không gặp phải hoặc giảm thiểu những rủi ro và tổn thất có thể xảy ra với mình.
- Mức độ nghiêm trọng của rủi ro được thể hiện qua tính chất nguy hiểm, mức
độ thiệt hại của rủi ro ảnh hưởng như thế nào tới cá nhân, doanh nghiệp và xã hội. Mức
độ nghiêm trọng của rủi ro phụ thuộc vào giá trị thiệt hại, phạm vi ảnh hưởng, tính chất
của từng loại rủi ro.
Trong nền kinh tế thị trường, cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản của ngân
hàng. Rủi ro trong ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng.
Đây là rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra. Khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài
chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng
của ngân hàng.
Vậy Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của
ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ
không đúng hạn cho ngân hàng.[4]
Như vậy có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ
mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, khách hàng là con nợ lại không thực hiện hoặc không
đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay,
chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao
thanh toán của ngân hàng. Đây còn gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn,
là loại rủi ro liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia thành
các loại sau :










10










- Rủi ro giao dịch : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát
sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá
khách hàng. Rủi ro giao dịch có 03 bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và
rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn : là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích
tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết
định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm : phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản
trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức đảm bảo
và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ : là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt
động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các
khoản cho vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát
sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân
chia thành 02 loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
Rủi ro tín
d


ng

Rủi ro giao
d

ch

Rủi ro danh
m

c

Rủi ro nội
t

i

Rủi ro tập
trung

Rủi ro bảo
đ

m

Rủi ro
nghi

p v



Rủi ro lựa
ch

n




11

+ Rủi ro nội tại : xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính
riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát
từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung : là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều
đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một
ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại
hình cho vay có rủi ro cao.
1.3 Những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong ngân hàng có rất nhiều, rất đa dạng
và muôn hình, muôn vẻ. Song qua kết quả thống kê và nghiên cứu tổng hợp các nhà
kinh tế cho thấy các nguyên nhân chủ yếu gây nên rủi ro tín dụng của ngân hàng bao
gồm:
1.3.1. Nguyên nhân khách quan
Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan là loại thiệt hại nẩy sinh từ nguyên
nhân thiên tai địch hoạ,bão lụt, hạn hán, hoả hoạn, động đất, chiến tranh
Những thay đổi về nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng hoặc về công nghệ của
một ngành công nghiệp có thể làm sụp đổ cả cơ đồ cả một hãng kinh doanh và đặt
người đi vay từng làm ăn có lãi vào tình trạng thua lỗ. Nổi bật trong số các nguyên

nhân khách quan xảy ra cho tín dụng là các nguyên nhân chính sau:
 Sự tác động của cơ chế thị trường:
Ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp nên muốn tồn tại và phát triển
thì hoạt động kinh doanh phải sinh lời. Bởi vậy cũng như các doanh nghiệp sản xuất và
kinh doanh khác, ngân hàng phải giải quyết được các mâu thuẫn nảy sinh trong quá
trình kinh doanh: mâu thuẫn về giá cả (lãi suất) về mức cung cầu của vốn, về các sản
phẩm dịch vụ cung ứng cho khách hàng.Trong quá trình giải quyết mâu thuẫn, các
Ngân hàng cạnh tranh nhau quyết liệt và tất yếu có Ngân hàng giành được thắng lợi và
có Ngân hàng chịu rủi ro thất bại.
Mặt khác khi ngân hàng đóng vai trò là người đi vay, Ngân hàng cũng cần phải
tôn trọng quy luật cạnh tranh. Hiện nay, người gửi tiền không chỉ gửi tiền nhằm an toàn



12

mà còn sinh lời. Do độ nhạy cảm rất cao với thị trường đã cho phép họ lựa chọn hình
thức gửi tiền, nơi gửi tiền sao cho có lợi nhất. ảnh hưởng của nhóm khách hàng này đối
với Ngân hàng là rất lớn, thậm chí có thể gây phá sản cho Ngân hàng.
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và điện tử tin học, với việc quốc tế hoá
các thị trường tài chính, công nghệ Ngân hàng càng phát triển ngày một tinh vi và hiện
đại. Hơn nữa việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ và Ngân hàng và đa năng hoá các
tổ chức trung gian tài chính, thị trường tài chính tiền tệ ngày càng sôi động và cạnh
tranh ngày càng trở nên gay gắt. Để tồn tại và phát triển, buộc lòng các Ngân hàng
thương mại phải tìm cách đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt này.


 Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với Ngân hàng thương mại.
Sự biến động theo chiều hướng xấu của môi trường kinh tế là nguyên nhân trực tiếp

dẫn đến rủi ro cho các Ngân hàng thương mại. Điều này được thể hiện ở suy thoái kinh
tế, những cơn sốc về tỷ lệ lãi suất, tỷ giá hối đoái và khả năng thanh khoản, thâm hụt tài
chính lớn
Mặt khác, môi trường kinh tế cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp, các khách hàng trực tiếp sử dụng vốn vay của Ngân hàng,
đến sức mạnh tài chính, đến sự thất bại hay thành công của người đi vay. Sự hưng thịnh
hay suy thoái của chu kỳ kinh tế cũng ảnh hưởng tới lợi nhuận của người đi vay. Một ví
dụ điển hình là sự biến động của thị trường thép cuối năm 2003 đầu năm 2004 đã gây
ảnh hưởng đến hầu hết các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây lắp, sản xuất và kinh
doanh vật liệu xây dựng , những khách hàng truyền thống của các Ngân hàng, làm cho
các doanh nghiệp này không có khả năng thanh toán, gây ra rủi ro cho các Ngân hàng .
Lạm phát có ảnh hưởng bất lợi đến công việc kinh doanh: giá cả nguyên vật
liệu, năng lượng, lao động tăng làm cho các cá nhân và doanh nghiệp khó khăn về tài
chính dẫn đến nhu cầu tín dụng tăng đã trở thành gánh nặng đối với người đi vay, kết
quả là không trả được nợ dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng. Thiểu phát cũng có ảnh hưởng
bất lợi đến công việc kinh doanh: chỉ số giá thấp hơn so với lãi suất cho vay làm cho



13

các doanh nghiệp cầm chừng trong vay vốn phát triển sản xuất, điều đó dẫn tới tốc độ
tăng trưởng tín dụng chậm.
Thị trường bất động sản : theo thông kê sơ bộ, tối thiểu 50% các khoản vay thể
nhân ở các ngân hàng là để mua nhà đất, được đảm bảo bằng bất động sản, nguồn trả
nợ cũng từ kinh doanh bất động sản chứ không phải từ dòng tiền thường xuyên ổn
định . Mặc dù hiện tại đó chưa phải là nợ quá hạn nhưng đang tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu
rất lớn do thị trường bất động sản ở Việt Nam được đánh giá là “bong bóng ” do tình
trạng đầu tư quá mức dựa vào vốn vay ngân hàng, có tính chất bất ổn cao và những
thay đổi do chính sách nhà nước rất khó dự đoán.

 Môi trường pháp lý.
Trong kinh doanh các yếu tố pháp lý có tác động đến hoạt động kinh doanh gồm
hệ thống luật, hệ thống các biện pháp bảo đảm cho pháp luật được thực thi và sự chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt đông kinh doanh và các
ngành có liên quan.
Hoạt động kinh doanh luôn chịu sự tác động của 3 yếu tố tạo thành môi trường
pháp lý nói trên. Các yếu tố này có quan hệ đan xen và tác động đến hoạt động kinh
doanh một cách tổng hợp chứ không riêng rẽ, hay nói cách khác chúng mang tính đồng
bộ cao. Nếu các yếu tố này tách rời nhau sẽ không tồn tại một môi trường pháp lý đồng
bộ, khi đó có thể gây ách tắc hoặc tạo những kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng.
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các yếu tố pháp lý phải rất rõ ràng và chặt chẽ,
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng
đi theo một quỹ đạo nhất định nhằm hạn chế rủi ro. Những quy định của Nhà nước
trong việc trích lập dự phòng rủi ro, bảo hiểm tiền gửi, bảo đảm tiền vay là điều kiện
để các Ngân hàng thực hiện triệt để việc phòng ngừa rủi ro.
Bên cạnh sự điều tiết của thị trường và môi trường kinh tế, môi trường pháp lý
cùng tạo nên môi trường cho vay của các Ngân hàng thương mại. Môi trường này có
thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực, có thể hạn chế hay tăng thêm rủi ro cho hoạt động
kinh doanh tín dụng của các Ngân hàng thương mại.
1.3.2. Nguyên nhân chủ quan



14

a. Thông tin không đầy đủ, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức
Trong quá trình ngân hàng chuyển vốn từ người gửi tiền sang người đi vay, toàn
bộ giao dịch này sẽ suôn sẻ nếu các bên tham gia đều có những thông tin và hiểu biết
đầy đủ về nhau. Song một thực tế tồn tại là: những người cho vay thường không biết
được hết tất cả những gì cần biết về bên xin vay để có những quyết định đúng đắn. Sự

không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được như vậy được gọi là “thông tin không
đầy đủ”. Và việc thiếu thông tin trong các giao dịch này sẽ đưa đến hai vấn đề: “Sự lựa
chọn đối nghịch” và “ Rủi ro đạo đức”.
Lựa chọn đối nghịch xảy ra trước khi cuộc giao dịch diễn ra. Bản chất vấn đề là
thay vì lựa chọn những người trả được nợ để cho vay, nhưng Ngân hàng vì thông tin
không cân xứng đã chọn người tích cực vay nhất để cho vay (mặc dù không mong
muốn), nhưng lại là người có khả năng gây rủi ro cho Ngân hàng.
Thông tin không đầy đủ có thể dẫn đến rủi ro đạo đức sau khi cuộc giao dịch
diễn ra. Rủi ro đạo đức diễn ra khi người cho vay phải chịu một rủi ro là người xin vay
có ý muốn thực hiện những hoạt động thiếu đạo đức, những hoạt động trái với cam kết
sau khi nhận được khoản tiền vay, gây rủi ro cho Ngân hàng.
Thông tin không đầy đủ trên thị trường tài chính dẫn tới sự lựa chọn đối nghịch
và rủi ro đạo đức đã đặt Ngân hàng trước những nguy cơ rủi ro cao. Song nếu Ngân
hàng quá thận trọng trong việc cho vay (không cho vay ra hoặc đột ngột cắt đứt hợp
đồng tín dụng) thì lại có nguy cơ dẫn đến thiệt hại về lợi nhuận và lớn hơn là mất uy tín
với khách hàng.
b. Về phía Ngân hàng :
Trong nên kinh tế thị trường, Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh khác, muốn tồn tại và phát triển thì tất yếu phải giải quyết các mâu thuẫn
trong quá trình kinh doanh giữa việc tìm kiếm lợi nhuận với rủi ro, giữa thế mạnh của
mình với các đối thủ cạnh tranh khác Trong quá trình giải quyết các mâu thuẫn đó,
các Ngân hàng phải cạnh tranh nhau quyết liệt. Trong lĩnh vực tín dụng, khả năng cạnh
tranh của một Ngân hàng được thể hiện ở việc tìm kiếm khách hàng tin cậy để cho vay,



15

khả năng huy động một lượng vốn dồi dào, bền vững và một lĩnh vực hết sức quan
trọng đó là hạn chế rủi ro tín dụng.

Qua điều tra nghiên cứu của học viên có thể thấy có một số nguyên nhân làm
tăng rủi ro tín dụng từ phía các Ngân hàng. Đó là:
- Chính sách tín dụng không hợp lý, quy trình tín dụng chưa hoàn thiện, do đó
tạo nhiều sơ hở trong quá trình thực hiện. Điều này cũng một phần do các Ngân hàng
mới thành lập và đi vào hoạt động nên không thể tránh khỏi những hạn chế. Các Ngân
hàng cũng không có chính sách vay thận trọng đối với các doanh nghiệp có vấn đề,
chính sách đối với các công ty, nhóm công ty có liên quan. Có những doanh nghiệp chỉ
gặp khó khăn tạm thời, nếu được Ngân hàng hỗ trợ vốn và có chiến lược khắc phục khó
khăn tốt thì sẽ vượt qua được khó khăn đó. Tầm nhìn chiến lược không tốt của các
ngân hàng cũng là nguyên nhân của tình trạng cạnh tranh thu hút khách hàng bằng
cách giảm giá.
- Trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế, nhiều khi chưa đánh giá hết được khả
năng hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng như tư cách của khách hàng. Đối với
các khoản vay của doanh nghiệp thì có rất nhiều trường hợp khách hàng lập số liệu giả,
nếu cán bộ tín dụng không thu thập thông tin từ nhiều nguồn và không sát sao trong
việc xem xét tình hình kinh doanh thực tế thì rất dễ dẫn đến rủi ro tín dụng. Đối với các
khoản vay tiêu dùng cá nhân thì lại rất dễ bị sử dụng vốn sai mục đích, đòi hỏi cán bộ
tín dụng phải rất để ý trong khâu giám sát sau khi giải ngân, phát hiện kịp thời được
những dấu hiệu có thể dẫn đễn rủi ro cho các khoản tín dụng.
- Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức kinh doanh như: cho vay khống, thông đồng
với khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn, gian lận khi giải ngân hay khi thu nợ. Hoặc
cán bộ tín dụng không bao quát được hầu hết các điểm yếu về mặt pháp lý hoặc các sai
sót khách quan, chủ quan khác của doanh nghiệp trong hồ sơ, chứng từ xin vay.
-Ngân hàng chưa thật chú trọng vào mục tiêu của các khoản vay, tính toán
không chính xác hiệu quả đầu tư, dự án xin vay dẫn đến các quyết định sai lầm trong
cho vay. Họ quá lạc quan tin tưởng vào dự án đầu tư, vào khoản cho vay và chạy theo



16


số lượng cho vay càng nhiều càng tốt, chú trọng không đúng mức đến chất lượng tín
dụng.
-Ngân hàng đánh giá chưa đúng mức về khoản vay, về người đi vay hoặc do chủ
quan tin tưởng vào khách hàng quen và coi nhẹ khâu kiểm tra về tình hình tài chính,
phi tài chính, khả năng thanh toán hiện tại và tương lai, nguồn trả nợ
-Ngân hàng quá quan tâm, tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm,
coi đó là vật đảm bảo chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay mà coi nhẹ công
tác phòng ngừa rủi ro, việc kiểm tra, giám sát đôn đốc thực thi dự án xin vay, không
nắm vững tình hình sử dụng tiền vay của khách hàng, không có các biện pháp ngăn
chặn, xử lý kịp thời khi có dấu hiệu xấu của khoản vay có thể dẫn tới nợ quá hạn.
-Thiếu thông tin tín dụng, hoặc thông tin tín dụng không chính xác, kịp thời,
không có danh sách phân loại khách hàng, không có sự phân tích đánh giá khách hàng
một cách khách quan, đúng đắn.
-Ngân hàng thiếu một cơ cấu theo dõi, quản lý rủi ro, để phân tán rủi ro, chưa đủ
các tiêu thức đo lường rủi ro, độ rủi ro cho phép chấp nhận đối với từng khách hàng,
nhóm khách hàng thành các ngành khác nhau.
-Bên cạnh đó là do sự tăng nhanh của các khoản cho vay của Ngân hàng trong
các khu vực có độ rủi ro cao hoặc tập trung tín dụng cho một số khu vực kinh tế, khu
vực địa lý hoặc một khách hàng Đồng thời số lượng cán bộ tín dụng không đủ đáp
ứng cho việc giám sát khách hàng sau khi giải ngân, đó cũng là nguyên nhân dẫn đến
rủi ro tín dụng .
c. Về phía khách hàng


Yếu tố tài chính : Nghiên cứu hầu hết các trừơng hợp phát sinh rủi ro tín dụng
đều có thể thấy yếu tố đầu tiên và chủ yếu tác động đến khả năng trả nợ của khách hàng
là yếu tố tài chính . Các yêu tố tài chính có ảnh hưởng nhiều đến khả năng trả nợ của
doanh nghiệp, có thể phân ra các nhóm sau:
- Khả năng thanh khoản: (phản ánh thông qua các chỉ số như khả năng thanh

toán nhanh, vốn lưu động thuần…). Các Ngân hàng cần đặc biệt quan tâm đến những
thay đổi trong trạng thái thanh khoản của khách hàng vì các khoản trả nợ bắt nguồn từ



17

sự chuyển đổi thành tiền của các tài sản lưu động. Khả năng thanh khoản của khách
hàng giảm là tăng khả năng Ngân hàng sẽ phải giải quyết các tài sản khác của khách
hàng để thu hồi vốn. Quá trình này thường mất nhiều thời gian và tốn kém với hiệu quả
không chắc chắn. Trong hợp đồng tín dụng các ngân hàng nên yêu cầu khách hàng của
mình duy trì một tỷ lệ thanh khoản an toàn.
- Khả năng sinh lời: ROA, ROE, EPS: Đây là các thước đo mức độ thành công
về mặt tài chính của khách hàng vay, dù vậy Ngân hàng cần đánh gía đúng triển vọng
trong tương lai của khách hàng chứ không phải chỉ căn cứ vào thành công của những
năm tài chính đã qua.
- Hiệu quả quản lý vốn :vòng quay vốn lưu động, số ngày phải thu , tồn kho,
vòng quay tài sản, vòng quay tài sản cố định. Nhì chung vòng quay vốn lưu động, phải
thu và hàng tồn kho của doanh nghiệp càng nhanh so với trung bình càng tốt.
- Dòng tiền: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một bức tranh cho Ngân hàng cái
nhìn toàn diện về chuyển động tiền mặt của các hoạt động kinh doanh, đầu tư, tài
chính của doanh nghiệp trong năm tài chính. Không phụ thuộc vào thời điểm, không bị
ảnh hưởng của các nguyên tắc kế toán, lưu chuyển tiền tệ thể hiện rõ nhất khả năng trả
nợ Ngân hàng


Yếu tố phi tài chính : Các yếu tố phi tài chính ảnh hưởng đến mức độ rủi ro
của Ngân hàng gồm có:
- Đạo đức, uy tín của chủ doanh nghiệp : Đây là yếu tố quan trọng nhất trong
các yếu tố phi tài chínhcó tác động đến khả năng trả nợ. Mặc dù vậy yếu tố này không

phải dễ đánh giá, nguồn cung cấp thông tin ở Việt Nam hiện nay chỉ là phi chính thức
và Ngân hàng có thể đưa ra quyết định mang tính cảm tính. Các Ngân hàng sẽ được hỗ
trợ nếu có trung tâm cung cấp thông tin năng lực, nhân thân và các thành công cũng
như thất bại của khách hàng trước đây.
- Năng lực kinh doanh, quản trị: Đây là yếu tố có tác động rất lớn và là yếu tố
cốt lõi ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Một cuộc điều tra cho thấy các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có khả năng trả nợ Ngân hàng rất tốt. Một đặc
điểm chung của các doanh nghiệp này là chất lượng quản trị doanh nghiệp, môi trường



18

kiểm soát nội bộ, dự án kinh doanh của họ được xây dựng rất cụ thể rõ ràng và cẩn
trọng. Doanh nghiệp có năng lực quản trị cao luôn biết làm điều tốt nhất cho doanh
nghiệp mình, thời hạn cho vay có thể kéo dài nhưng khả năng trả nợ luôn được đảm
bảo.
- Triển vọng ngành: ngành kinh doanh phát triển hay suy thoái là yếu tố cần
phải xem xét để có quyết định đầu tư đúng đắn. Thời kỳ kinh tế tăng trưởng cần phải
cân nhắc về tình trạng đầu tư quá mức cho các ngành sản xuất các hàng sa sỉ, hàng
vững bền.
- Khả năng cạnh tranh: Yếu tố thương hiệu và khả năng các đối thủ cạnh tranh
có ảnh hưởng lớn đến sự thành công của hàng hoá, sản phẩm của doanh nghiệp. Với
những doanh nghiệp đã có chỗ đứng trên thị trường, Ngân hàng có thể tài trợ vốn lưu
động dưới dạng hợp đồng hạn mức mà không cần đánh giá kĩ từng món vay cụ thể, tuy
nhiên cũng cần theo sát hoạt động của doanh nghiệp để có những điều chỉnh khi cần
thiết.[5]
1.3.3. Các yếu tố khác



Tính chính xác và đầy đủ của thông tin
Thông tin tài chính của các doanh nghiệp hầu hết đều không đủ độ tin cậy gây
khó khăn rất nhiều cho việc đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp. Trung tâm
thông tin tín dụng của NHNN chưa đáp ứng được yêu cầu do nguồn thông tin rất hạn
chế. Bản thân các Ngân hàng thương mại cũng chưa xây dựng cho mình một hệ thống
thông tin doanh nghiệp , thông tin ngành hay các tình huống rủi ro cần thiết cho cán bộ
tín dụng. Điều kiện này nếu được cải thiện sẽ rất hữu ích cho công tác quản trị rủi ro tín
dụng của các NHTM.


Hành lang pháp lý chưa hoàn thiện
Mặc dù các Luật, văn bản dưới luật chi phối các hoạt động của Ngân hàng đã
được sửa đổi rất nhiều, ngày càng phù hợp hơn với các quy luật của nền kinh tế thị
trường, song cũng vẫn còn nhiều vướng mắc như sự chồng chéo giữa quy định của các
Luật, việc ban hành các nghị định hướng dẫn thi hành Luật còn chậm, công tác thực
hiện của bộ máy thực thi pháp luật còn quan liêu, tuỳ tiện. Hành lang pháp lý nói



19

chung chưa ủng hộ công tác phục hồi nợ của Ngân hàng và gián tiếp làm tăng mức độ
tổn thất tín dụng .
Quy định trích lập dự phòng rủi ro tín dụng hiện tại chỉ căn cứ trên nợ quá hạn
chứ không phải mức độ rủi ro của khoản vay nên chưa thực sự là nguồn để dự phòng
rủi ro một cách toàn diện. Luật phá sản doanh nghiệp ra đời đã lâu nhưng không mấy
tác dụng, số liệu của doanh nghiệp phá sản chưa phản ánh được thực tế và chưa cung
cấp được nguồn tài liệu cho nghiên cứa rủi ro
 Vai trò giám sát của Ngân hàng Nhà nước: NHNN Việt Nam hiện chưa
phát huy hết vai trò giám sát, nhận dạng và đưa ra được đánh giá độc lập về chiến

lược, chính sách, quy trình cấp tín dụng và quản trị danh mục NHTM, từ đó đảm bảo
cho sự khoẻ mạnh của cả hệ thống NHTM. Thanh tra NHNN hiện nay chỉ xem xét
được các NHTM thực hiện đúng các quy chế, quy định của NHNN hay không, đánh
giá hoạt động tín dụng dựa trên tỷ lệ nợ quá hạn chứ không phải mức độ rủi ro được
dự báo của các giao dịch. Các Ngân hàng đang tham gia cũng chỉ có kiến nghị hay can
thiệp khi đã xảy ra trong các trường hợp rủi ro tín dụng
1.4. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
 Đối với Ngân hàng
- Trong các nguồn thu của Ngân hàng thì nguồn thu từ lãi tín dụng là chủ yếu.
Do vậy khi xảy ra rủi ro tín dụng thì nguồn thu lớn nhất đó sẽ bị giảm đi. Nguồn thu
giảm đi tức là năng lực tài chính của Ngân hàng cũng bị giảm đi. Những người gửi tiền
tại Ngân hàng đều mong muốn thu được lãi suất lớn tại Ngân hàng , do vậy năng lực tài
chính của Ngân hàng là một căn cứ để họ đặt lòng tin. Khi năng lực tài chính của Ngân
hàng giảm thì các khách hàng cũng không muốn gửi tiền tại Ngân hàng nữa, hay khả
năng huy động vốn của Ngân hàng sẽ giảm xuống. Điều đó đồng nghĩa với việc Ngân
hàng không thể có vốn để đáp ứng nhu cầu vây vốn của khách hàng . Và nguồn thu từ
tín dụng của Ngân hàng ngày càng giảm xuống cho đến khi Ngân hàng mất khả năng
thanh toán nếu không có biện pháp khắc phục rủi ro một cách tích cực.



20

- Tình trạng mất khả năng thanh toán kéo dài mà Ngân hàng không thể tự khắc
phục được hay mặc dù có sự giúp đỡ của NHNN cũng không thể vượt qua thì Ngân
hàng dễ hàng lâm vào phá sản .
 Đối với doanh nghiệp
- Tín dụng Ngân hàng góp phần tác động các đơn vị sử dụng nguồn vốn vay
Ngân hàng có hiệu quả. Nguồn vốn từ tín dụng Ngân hàng là một nguồn tài chính giúp
doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn. Đối với các doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư

thì một trong những cách huy động vốn nhanh nhất của họ là vay của các Ngân hàng .
Do đó rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng sẽ làm cho doanh nghiệp ít có cơ hội vay vốn,
do đó rất có thể nhiều phương án kinh doanh khả thi sẽ bị bỏ qua, doanh nghiệp cũng
không thể mở rộng sản xuất kinh doanh như mong muốn.
- Rủi ro tín dụng có nguyên nhân chủ yếu là uy tín, đạo đức của khách hàng.
Do vậy nếu rủi ro tín dụng xảy ra nhiều sẽ làm niềm tin giữa các doanh nghiệp và Ngân
hàng bị suy giảm. Hai bên luôn ở thế phòng thủ lẫn nhau, làm cho quan hệ tín dụng sẽ
căng thẳng hơn, thủ tục vay vốn ngày càng chặt chẽ, là rào cản để các doanh nghiệp
làm ăn chính đáng vay vốn.
 Đối với nền kinh tế
Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung và điều hoà nguồn vốn giữa
các chủ thể trong nền kinh tế, tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá và chu chuyển tiền
tệ. Nhờ đó mà thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
Tín dụng Ngân hàng là công cụ chủ yếu để tài trợ, đầu tư cho các ngành kinh tế
then chốt và các ngành, các vùng kinh tế kém phát triển.Thông qua hệ thống Ngân
hàng, luồng tiền được chuyển từ những nơi nguồn vốn nhàn rỗi sang những nơi cần
vốn đầu tư, thúc đẩy sự phát triển cân đối giữa các vùng, miền…
Nhờ có tín dụng Ngân hàng trên cơ sở cho vay mở rộng sản xuất, phát triển
ngành nghề, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thực hiện mục tiêu
chính sách xã hội của Nhà nước. Đây là một nhiệm vụ khó khăn và quan trọng đối với
mọi nhà nước. Các Ngân hàng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc kết hợp với
chính phủ giải quyết nhiệm vụ này.



21

Do vậy rủi ro tín dụng xảy ra trên phạm vi rộng cũng tạo ra rủi ro cho nền kinh
tế; nền kinh tế không có mức tăng trưởng cao, hoặc sự phát triển kinh tế không đồng
đều giữa các vùng, miền, cũng không thể giúp Nhà nước thực hiện các mục tiêu chính

sách xã hội.[6]
1.5 Khái niệm và phương pháp quản lý rủi ro tín dụng
1.5.1. Khái niệm quản lý rủi ro
Quản lý rủi ro của doanh nghiệp là sự tác động có chủ đích, có tổ chức của
doanh nghiệp (cơ quan, tổ chức) để đối phó với các rủi ro có thể xảy ra cho doanh
nghiệp (cơ quan, tổ chức).
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta vẫn thường gặp “sự rủi ro”. Đó là những gì
không tốt, ngoài sự mong đợi, có thể xảy ra đối với chúng ta trong mọi mặt của đời
sống xã hội: vật chất, sức khoẻ, tinh thần và bao gồm cả tư duy, như bị mất cắp tiền, tai
nạn giao thông, thất vọng, buồn chán do không đạt được mục đích nào đó…
Như vậy, “rủi ro” là một phần của cuộc sống hàng ngày, nó diễn ra ở hầu hết các
lĩnh vực cuộc sống; là những nguy cơ tiềm ẩn có khả năng xảy ra và có thể sẽ mang
đến những tổn hại về vật chất, tinh thần hoặc các yếu tố khác trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội
Trong cuộc sống cũng như trong công việc, chúng ta luôn tìm cách dự đoán
trước những rủi ro có thể xảy ra và lựa chọn cách xử lý đối với những rủi ro này bằng
cách: ngăn chặn không cho rủi ro xảy ra, giảm thiểu hậu quả của rủi ro, né tránh rủi ro
hoặc chấp nhận để cho rủi ro xảy ra. Đây là phản ứng mang tính tự nhiên được đưa ra
nhằm bảo vệ chúng ta - đôi khi bảo vệ sự sống còn - trước những thiệt hại có thể xảy
ra, hay còn gọi là quản lý rủi ro. Tất cả chúng ta đều có kỹ năng quản lý rủi ro, mặc dù
có thể đôi khi chúng ta không nhận ra điều này. Ví dụ: vào mùa mưa, đi làm phải đem
áo mưa; để không bị kẹt xe phải tránh giờ cao điểm hoặc chọn đường đi khác, v.v…
Như vậy, Quản lý rủi ro là việc dự đoán về những khả năng và mức độ hậu quả
của sự việc có thể xảy ra, qua đó áp dụng những biện pháp để làm giảm độ không an
toàn và thay đổi cách xem xét và hành động đối với sự việc đó.



22


Dưới góc độ quản lý, quản lý rủi ro là một phương pháp để phát hiện ra những
yếu tố gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của công tác quản lý từ đó thay đổi cách xem
xét và hành động nhằm loại trừ hoặc làm giảm sự ảnh hưởng của những yếu tố trên.
Khái niệm rủi ro bao gồm 02 nhân tố:
- Khả năng xảy ra rủi ro, và
- Hậu quả nếu rủi ro xảy ra.
Như nội dung đã đề cập phần trên, khi xác định được rủi ro, chúng ta thường
lựa chọn các biện pháp xử lý nhằm ngăn chặn, làm triệt tiêu các rủi ro, né tránh hoặc
làm giảm các thiệt hại do rủi ro gây ra. Thông thường có các hình thức xử lý rủi ro chủ
yếu như sau:
- Ngăn chặn, làm triệt tiêu nguyên nhân, điều kiện nảy sinh rủi ro;
- Làm giảm tác hại của rủi ro;
- Né tránh đối với những rủi ro mà nếu ta áp dụng biện pháp để ngăn
chặn hiệu quả sẽ thấp vì chi phí cho việc ngăn chặn này sẽ lớn hơn hậu quả của rủi ro
có thể xảy ra;
- Chuyển giao rủi ro;
- Chấp nhận những rủi ro có khả năng và mức độ xảy ra thấp, vì chi phí
cho việc quản lý những rủi ro này sẽ cao hơn hậu quả có thể xảy ra.
1.5.2 Nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng
Hiện nay nhiều quốc gia và các ngân hàng trên thế giới đã và đang áp dụng các
tiêu chuẩn quốc tế về hoạt động giám sát ngân hàng do Uỷ ban Basel ban hành. ( Ủy
ban Basel được thành lập năm 1974 bởi thống đốc ngân hàng trung ương của nhóm 10
nước G10. Hiện nay, các ủy ban này gồm các nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan,
Hoa Kỳ, Luxemembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Ý. Các
quốc gia được đại diện bởi ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động của
ngân hàng )[7]
Quan điểm của Uỷ ban Basel là sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một
quốc gia có thể ảnh hưởng tới sự ổn định về tài chính không chỉ trong phạm vi quốc gia




23

đó mà trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế, vấn đề giám sát rủi ro của hệ thống ngân
hàng được Uỷ ban này đặc biệt quan tâm.
Bộ nguyên tắc thứ nhất của Basel bao gồm các nguyên tắc và chuẩn mực mà
hoạt động giám sát của ngân hàng trung ương nên thực hiện, bao hàm một số nhóm nội
dung chủ yếu sau:
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về điều kiện tiên quyết cho việc giám sát
ngân hàng hiệu quả, theo đó, điều kiện để có được một hệ thống giám sát hiệu quả là
phải có một khung pháp lí phù hợp, đảm bảo phân định mục tiêu, nguồn lực và trách
nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan giám sát và có những quy định đầy đủ và khả thi về
chia sẻ và bảo mật thông tin.
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề cấp phép và cơ cấu, theo đó, cần xác định rõ
ràng các hoạt động tổ chức tài chính được phép làm và chịu sự giám sát. Đồng thời, cơ
quan cấp phép có quyền đưa ra các tiêu chí và bác bỏ đơn xin thành lập nếu không đạt
yêu cầu và có quyền rà soát và từ chối bất kì một đề xuất nào đối với việc chuyển
quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát ngân hàng hiện tại cho các bên khác.
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về các quy định và yêu cầu thận trọng. Nội
dung chính của nhóm nguyên tắc là đưa ra các chuẩn mực mà các chuyên gia giám sát
nghiệp vụ ngân hàng được làm và nhất thiết phải biết xử lí trong hoạt động của mình.
Ví dụ: yêu cầu về an toàn vốn cho các ngân hàng, xác định rõ những khu vực nào của
vốn ngân hàng chịu rủi ro; đánh giá các chính sách, thực tiễn hoạt động, các thủ tục cho
vay vốn, đầu tư, việc kiểm soát vốn vay hiện tại và hồ sơ đầu tư của ngân hàng đó.
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về giám sát nghiệp vụ ngân hàng hiện nay.
Nhóm nguyên tắc này quy định yêu cầu đối với một hệ thống giám sát nghiệp vụ ngân
hàng hiệu quả bao gồm cả các hình thức giám sát từ xa và giám sát tại chỗ. Cơ quan
giám sát cần thường xuyên liên hệ với Ban giám đốc ngân hàng để hiểu rõ về hoạt động
của ngân hàng, xây dựng phương pháp phân tích báo cáo thống kê và có biện pháp
thẩm định độc lập thông tin giám sát thông qua kiểm tra tại chỗ.




24

- Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề yêu cầu về thông tin yêu cầu cán bộ giám sát
phải biết chắc mỗi ngân hàng có hệ thống lưu trữ tài liệu phù hợp cho phép chuyên gia
giám sát có thể tiếp cận và thấy được tình hình tài chính thực tế của ngân hàng.
- Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề quyền hạn hợp pháp của chuyên gia giám sát chỉ
ra các quyền hạn được đưa ra các hành động can thiệp kịp thời khi ngân hàng không
đáp ứng được những yêu cầu cơ bản (ví dụ tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu không đảm bảo,
năng lực quản trị điều hành yếu…).
- Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề nghiệp vụ ngân hàng xuyên biên giới: có nội
dung hướng dẫn giám sát đối với các nghiệp vụ giao dịch ngân hàng quốc tế, theo đó,
yêu cầu các ngân hàng nước ngoài hoạt động theo đúng các tiêu chuẩn cao bằng tiêu
chuẩn của các ngân hàng trong nước và thiết lập quan hệ và hệ thống trao đổi thông tin
với các chuyên gia giám sát khác, đặc biệt là với chuyên gia giám sát của nước sở tại.
Bộ nguyên tắc thứ hai là những nguyên tắc giám sát dành cho bản thân các ngân
hàng, bao gồm những nội dung chính sau:
- Ban giám đốc của ngân hàng phải có trách nhiệm bảo đảm ngân hàng có trình
tự đánh giá rủi ro tín dụng phù hợp và hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả phù hợp với
tính chất, quy mô và tính phức tạp của nghiệp vụ cho vay của đơn vị đồng thời phù hợp
với chính sách, hệ thống kế toán và hướng dẫn giám sát của nước sở tại;
- Ngân hàng phải có một hệ thống phân loại khoản cho vay đáng tin cậy dựa trên
cơ sở đánh giá rủi ro tín dụng;
- Chính sách của ngân hàng phải được mô hình đánh giá rủi ro tín dụng nội bộ
nhất định phê chuẩn;
- Ngân hàng phải phê chuẩn và ban hành phương pháp quản lí tổn thất khoản
cho vay hợp lí trong đó đề cập đến: quy trình, chính sách đánh giá rủi ro tín dụng, quy
trình kiểm tra lại và xác định những vấn đề về khoản cho vay, hướng trích lập dự

phòng một cách kịp thời;
- Khoản dự phòng trích lập phải đủ để có thể bù đắp những tổn thất cho vay
trong danh mục các khoản cho vay;



25

- Việc sử dụng phương pháp đánh giá tín dụng đã được kiểm chứng và ước
lượng hợp lí là một phần cơ bản trong việc đánh giá tổn thất cho vay;
- Quy trình đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng phải cung cấp cho ngân hàng
những công cụ, trình tự và dữ liệu thích hợp để đánh giá rủi ro tín dụng.[8]
Bộ nguyên tắc Basel đang rất được nhiều quốc gia ưa chuộng và áp dụng. Việt
Nam cũng đã và đang tiến hành rất nhiều những sửa đổi cần thiết về hệ thống pháp luật
để từng bước áp dụng những nguyên tắc này như việc quy định về xây dựng hệ thống
kiểm soát nội bộ hiệu quả, cơ chế minh bạch thông tin, phân loại nợ và trích lập dự
phòng, các tỉ lệ bảo đảm an toàn… nhằm đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế về kiểm
soát rủi ro tín dụng.
1.5.3 Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng
Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng theo cách thường hiểu là tổng thể các cách
thức có thể được doanh nghiệp sử dụng với hy vọng đem lại kết quả tốt nhất cho doanh
nghiệp (tổ chức). Trong việc khống chế , loại bỏ rủi ro.
Nội dung của các phương pháp quản lý rủi ro tín dụng là việc phải làm để ngăn
ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng. Đó là tập hợp các giải pháp đồng bộ
nhằm ngăn ngừa, hạn chế các nguy cơ xảy ra rủi ro và các tổn thất có thể. Thông
thường qui trình chung để quản lý rủi ro là:
- Nhận dạng các nguy cơ xảy ra rủi ro trong hoạt động tín dụng.
- Dự báo các rủi ro và đo lường các tổn thất mà ngân hàng có thể phải gánh chịu.
- Đề xuất các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế rủi ro.
Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng thực chất là một kỹ thuật được áp dụng

trong một chu trình mang tính logic và hệ thống từ thiết lập bối cảnh, xác định - phân
tích - đánh giá - xử lý và quản trị rủi ro tín dụng cũng như gắn rủi ro tín dụng với tác
động của nó. Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng trở thành một công cụ hữu hiệu áp
dụng cho các biện pháp hoặc quy trình nghiệp vụ trong các kế hoạch, chương trình

×