1
MỤC LỤC
Trang
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng, biểu, sơ đồ, hình vẽ
Mở đầu 5
Chương I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm về rủi ro và các loại rủi ro trong kinh doanh 7
1.1.1 Khái niệm 7
1.1.2. Các loại rủi ro trong kinh doanh 7
1.2. Tín dụng ngân hàng 9
1.2.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng 9
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng 9
1.2.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng 12
1.3. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và rủi ro tín dụng trong
ngân hàng 14
1.3.1. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng 14
1.3.2. Rủi ro tín dụng trong ngân hàng 16
1.3.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng 16
1.3.2.2. Các loại hình rủi ro trong tín dụng 17
1.3.2.3. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại 18
Chương II:
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG EXIMBANK
2.1. Giới thiệu chung về EximBank 21
2
2.1.1. Mô hình tổ chức 21
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Eximbank 23
2.2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng Eximbank 28
2.2.1. Huy động vốn tín dụng và một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả giảm
thiểu rủi ro tín dụng 28
2.2.2. Giới hạn rủi ro tín dụng 29
2.2.3. Phân loại tài sản 40
2.2.4. Trích lập dự phòng rủi ro trong tín dụng 43
2.2.5. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý rủi ro 44
2.3. Đánh giá tình hình rủi ro của ngân hàng Eximbank 48
2.3.1. Môi trường 48
2.3.2. Quy trình cấp tín dụng, hệ thống giới hạn rủi ro tín dụng 49
2.3.3. Vai trò của cơ quan kiểm soát, kiểm toán bên ngoài 58
2.3.4. Kết quả thực hiện, hạn chế bất cập và nguyên nhân 58
Chương III:
GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG EXIMBANK
3.1. Phương hướng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Eximbank trong thời
gian tới 64
3.2 Các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Eximbank 66
Kết luận 75
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
EXIMBANK Ngân hàng hàng xuất nhập khẩu Việt Nam
NHTM Ngân hàng thương mại
WTO Tổ chức thương mại thế giới
GHTD Giới hạn tín dụng
CBTD Cán bộ tín dụng
GHTD Giới hạn tín dụng
HĐTD Hội đồng tín dụng
HĐTD Hội đồng tín dụng
GHTD Giới hạn tín dụng
QLRR Quản lý rủi ro
NHNN Ngân hàng nhà nước
DPRR Dự phòng rủi ro
TCTD Tổ chức tín dụng
TMCP Thương mại cổ phần
DMTV Danh mục tiền vay
4
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Bảng 2.1. Vốn điều lệ và Tổng tài sản của Eximbank qua các năm
Bảng 2.2. Kết quả kinh doanh theo báo cáo tài chính
Bảng 2.3. Tăng trưởng vốn huy động của Eximbank
Bảng 2.4. Chi phí DPRR so với một số chỉ tiêu tài chính của ngân hàng
Eximbank
Bảng 2.5. Chấm điểm quy mô doanh nghiệp
Bảng 2.6. Trọng số áp dụng cho các chỉ tiêu phi tài chính
Bảng 2.7. Tổng hợp điểm tín dụng
Bảng 2.8. Tăng trưởng dư nợ cho vay của Eximbank
Bảng 2.9. Phân loại tín dụng theo kỳ hạn
Bảng 2.10. Phân loại tín dụng theo chất lượng
Bảng 2.11. Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của Eximbank
Bảng 2.12. Phân loại khách hàng DN và quan điểm đánh giá của
Eximbank
Bảng 3. Tỷ lệ trích dự phòng rủi ro
Hình 2.1. Mô hình tổ chức
Hình 2.2. Lợi nhuận trước thuế của Eximbank năm 2009 - 2011
Hình 2.3. Sơ đồ tổ chức hoạt động tín dụng tại Eximbank
Hình 2.4. Sơ đồ tổ chức hoạt động tín dụng tại chi nhánh Eximbank
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đất nước đang chuyển mình với những bước đi đúng hướng, những thành
tựu mới trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Xu hướng toàn cầu hoá
trên thế giới cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO đã mở
ra nhiều cơ hội mới cho mọi nhà, mọi doanh nghiệp, mọi lĩnh vực trong đó không
thể không nói tới ngân hàng - một lĩnh vực hết sức nhạy cảm ở Việt Nam. Chúng ta
đang bắt đầu thực hiện các cam kết mở cửa, khiến cho các doanh nghiệp đứng trước
sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ.
Điều này tạo ra những ảnh hưởng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, vì thế ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại
(NHTM) nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng.
Trong hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay, hoạt động tín dụng là
một nghiệp vụ truyền thống, nền tảng, chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu tài sản và cơ
cấu thu nhập của các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng thương mại cổ
phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (gọi tắt là Eximbank) nói riêng. Trong thời gian vừa
qua hoạt động tín dụng trong ngân hàng đã đạt được những thành công nhất định,
đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, hoạt
động tín dụng cũng là nơi hội tụ nhiều rủi ro, gây ra những ảnh hưởng nghiệm trọng
đến kết quả kinh doanh, lợi nhuận trong ngân hàng, thậm chí có thể gây ra ảnh
hưởng dây chuyền sang cả các ngân hàng khác. Một vài năm trở lại đây công tác
quản lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng đã được chú trọng hơn biểu hiện rõ nét nhất
là việc các NHTM Việt Nam coi trọng và ưu tiên về tốc độ tăng trưởng tài sản hơn
là lợi nhuận và vấn đề an toàn vốn. Với tình trạng như vậy, trong khi tín dụng vẫn là
hoạt động chính của ngân hàng với tỷ lệ dư nợ tín dụng so với tổng tài sản trung
bình hiện ở mức cao khoảng 50%, thì hoạt động rủi ro tín dụng có ý nghĩa sống còn
đối với ngân hàng và cũng có nghĩa là sự ổn định của cả nền kinh tế. Vì vậy, quản
trị rủi ro tín dụng - một vấn đề còn nhiều mới mẻ để triển khai trong thực tiễn là mối
quan tâm hàng đầu của các ngân hàng thương mại hiện nay.
6
Với những ý nghĩa như vậy, qua thời gian tìm hiểu thực tế tại ngân hàng
EximBank, Tác giả đã lựa chọn Đề tài: “Giải pháp giảm thiểu rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam (EximBank)”.
2. Mục đích nghiên cứu
Những giải pháp khả thi nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng trong ngân hàng
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động rủi ro tín dụng tại ngân hàng EximBank.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Các loại rủi ro trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng Eximbank giai đoạn 2009 - 2011
4. Đóng góp của Luận văn
Với những nhu cầu và mục đích như trên, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ
giúp cho lãnh đạo ngân hàng EximBank biết được các giải pháp hạn chế rủi ro tín
dụng tại ngân hàng EximBank trong điều kiện hiện nay và có thể áp dụng để đưa
công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng trở nên hiệu quả hơn.
5. Tên và Kết cấu của Luận văn
Tên Luận văn: “Giải pháp giảm thiểu rủi ro tín dụng tại Ngân hàng xuất
nhập khẩu Việt Nam (EximBank)”
7
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO VÀ RỦI RO TÍN
DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm về rủi ro và các loại rủi ro trong kinh doanh
1.1.1 Khái niệm
Hiện nay, mặc dù chưa có định nghĩa thống nhất về rủi ro nhưng tập trung có
thể chia làm hai trường phái lớn:
Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn, sự tổn
thất mất mát, nguy hiểm. Nó được xem là điều không lành, điều không tốt, bất ngờ
xảy đến. Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi
nhuận dự kiến. Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong
quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Tóm lại, theo quan điểm này thì rủi ro là những thiệt
hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc
điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người.
Theo trường phái hiện đại, rủi ro là một sự không chắc chắn hay một tình
trạng bất ổn. Tuy nhiên, không phải sự không chắc chắn nào cũng là rủi ro. Chỉ có
những tình trạng không chắc chắn mà ta có thể ước đoán, đo lường được xác suất
xảy ra mới được xem là rủi ro nhưng nếu xác suất mất mát là 0 hoặc 1 thì không có
rủi ro vì nếu một người không biết bơi nếu nhảy xuống biển thi cầm chắc cái chết,
đây không được coi là rủi ro.
1.1.2. Các loại rủi ro trong kinh doanh
- Rủi ro từ môi trường tự nhiên như thiên tai, lũ lụt, động đất, sóng thần v.v
Các rủi ro này thường có đặc điểm chung: khả năng dự báo, dự đoán thấp, xảy ra
bất ngờ, gây thiệt hại quy mô lớn.
8
- Rủi ro từ môi trường xã hội, từ cấu trúc xã hội, dân số, dân cư. Đó là sự
thay đổi các chuẩn mực giá trị, hành vi con người, các thang giá trị trong xã hội, các
đặc điểm xã hội v.v Nếu một xã hội với cộng đồng dân cư đông nhưng không
mạnh, chất lượng dân số thấp, sức mua kém, tỉ lệ dân số già trên tổng dân số của cả
nước cao đều có thể là rủi ro cho các hoạt động kinh doanh, đầu tư của doanh
nghiệp.
- Rủi ro từ nơi có môi trường trình độ văn hóa thấp kém, tha hóa về chuẩn
mực đạo đức. Một xã hội nơi mà có trình độ văn hóa thấp, các chuẩn mực về đạo
đức không được coi trọng, pháp luật không được thực thi hiệu quả thì việc kinh
doanh trong hoàn cảnh này sẽ gặp vô vàn các rủi ro: trộm cắp, cướp bóc, lừa đảo,
bội ước trong ký kết hợp đồng, hàng giả, hàng nhái v.v
- Rủi ro từ môi trường chính trị và kinh tế: Một quốc gia thường xuyên có sự
thay đổi về chính sách do các nhóm lợi ích mờ ám chi phối, tham ô, hối lộ; nơi
thường xuyên có sự xung đột về sắc tộc, tôn giáo; nơi mà có nền kinh tế đề kháng
thấp, thường xuyên xảy ra lạm phát, khủng hoảng đều được coi là những rủi ro lớn
cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tại một nước có môi trường cạnh tranh cao, sự
thay đổi mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật cũng sẽ là những rủi ro đối với các doanh
nghiệp thiếu khả năng thích ứng với đổi mới.
- Rủi ro từ môi trường pháp lý thiếu minh bạch, bao gồm cả ba lĩnh vực lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Một nơi pháp luật bất nhất, mâu thuẩn, chồng chéo,
thay đổi đột ngột, thực thi pháp luật thiếu minh bạch, công khai, hiệu quả, các
quyền về sở hữu v.v luôn bị xâm hại hoặc chi phí quá cao đều là nguồn gốc rủi ro,
gây thiệt hại nặng nề cho doanh nghiệp.
- Rủi ro đến từ các đối tác của doanh nghiệp. Họ có thể là các nhà đầu tư,
góp vốn liên doanh, liên kết, là bạn hàng của doanh nghiệp. Cần phải tìm hiểu họ
trước khi tiến hành ký kết, thực hiện hợp đồng vì mỗi công đoạn đều chứa đựng
những rủi ro như: mâu thuẫn trong các điều khoản, hình thức thanh toán, chuyển
quyền sở hữu và rủi ro, giải quyết tranh chấp hợp đồng v.v
9
- Rủi ro đến ngay từ trong chính nội bộ của doanh nghiệp như thái độ của
doanh nghiệp đối với rủi ro, sai lầm trong chiến lược kinh doanh, quản lý doanh
nghiệp, sự yếu kém của bộ máy quản lý và nhân viên, thiếu đạo đức và văn hóa kinh
doanh, thiếu động cơ làm việc, thiếu đoàn kết nội bộ. Ba rủi ro có thể đến: thứ nhất
là chỉ biết mình không biết người, thứ hai là chỉ biết người không biết mình và cuối
cùng là không biết cả mình lẫn người. Để “biết mình”, điều quan trọng nhất là phải
thường xuyên tự kiểm tra, đánh giá và có sự đối chứng hệ thống quản trị doanh
nghiệp của mình có hiệu quả không, có minh bạch không.
1.2. Tín dụng ngân hàng
1.2.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn được biểu hiện dưới hình thức tiền
tệ hoặc hiện vật trên nguyên tắc người đi vay phải hoàn trả cho người vay cả vốn
lẫn lãi trong một thời gian nhất định. Do hoạt động này làm phát sinh một khoản nợ
nên bên cho vay còn gọi là chủ nợ, bên đi vay gọi là con nợ. Tín dụng ngân hàng
hoàn toàn khác với các hình thức tín dụng khác (tín dụng thương mại, tín dụng tiêu
dùng, tín dụng nhà nước), đó là một hoạt động kinh doanh tiền tệ phức tạp, tính
phức tạp của nó thể hiện ở chính đối tượng kinh doanh - đó là tiền tệ, ở đây tiền tệ
đã tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Tín dụng ngân hàng được thể hiện
theo ba nguyên tắc:
- Vốn vay phải được hoàn trả đầy dử cả gốc và lãi đúng thời hạn đã ký trong
hợp đồng tín dụng
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả
- Vốn vay phải được đảm bảo bằng hàng hóa có giá trị tương đương
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng
Ở nước ta hiện nay thiếu vốn là hiện tượng xảy ra thường xuyên đối với các
thành phần kinh tế, vì vậy tín dụng ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó
trở thành động lực trong quá trình phát triển của nền kinh tế nước nhà. Ngày nay tín
dụng ngân hàng được sử dụng như một công cụ đòn bẩy kinh tế, giúp cho nền kinh
10
tế phát triển, tín dụng ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc phát triển
nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay.
1.2.2.1. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia giữ một vai trò hết
sức quan trọng. Xét trên nhiều mặt, hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần thúc
đẩy mở rộng sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triển, tài trợ cho các thành phần kinh
tế kém phát triển và các ngành mũi nhọn của quốc gia. Đồng thời hoạt động tín
dụng Ngân hàng cũng tạo điều kiện phát triển kinh tế đối ngoại, hội nhập với nền
kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động tín dụng mối quan hệ giữa ngân
hàng với khách hàng mà cụ thể là các doanh nghiệp được củng cố, tăng cường và
hai bên sẽ hỗ trợ nhau phát triển. Vai trò tín dụng của ngân hàng đối với nền kinh tế
được thể hiện trên một số mặt như sau:
- Thứ nhất, hoạt động tín dụng ngân hàng giúp điều hòa vốn trong nền kinh
tế, cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất, tái sản xuất mở rộng. Như chúng ta đã
biết, vốn sản xuất kinh doanh của các chủ thể nền kinh tế vận động liên tục và biểu
hiện các hình thái khác nhau qua mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất tạo thành chu
kỳ tuần hoàn và luân chuyển vốn, điểm xuất phát và kết thúc của một vòng tuần
hoàn này được thể hiện dưới dạng tiền tệ.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi
vốn của các doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả ba giai đoạn: dự trữ, sản xuất,
lưu thông. Từ đó xảy ra hiện tượng thừa hoặc thiếu vốn tạm thời tại các doanh
nghiệp. Đây chỉ là hiện tượng mang tính chất tạm thời nhưng xảy ra thường xuyên
và phổ biến, làm nảy sinh yêu cầu cần phải giải quyết cho được vấn đề điều hòa vốn
trong nền kinh tế. Với nghiệp vụ huy động vốn và nghiệp vụ tín dụng các ngân hàng
thương mại đã giải quyết được vấn đề này. Ngân hàng thương mại đứng ra tập trung
và phân phối lại vốn, điều hòa cung - cầu vốn trong nến kinh tế, góp phần điều tiết
các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp không bị gián đoạn. Mặt khác, để mở rộng sản xuất đối với các doanh
nghiệp thì yêu cầu về vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra.
11
Các doanh nghiệp không thể chỉ trong chờ vào vốn tự có mà còn phải dựa vào nhiều
nguồn vốn khác nhau trong xã hội. Ngân hàng thương mại với tư cách là nơi tập
trung đại bộ phận vốn nhàn rối sẽ đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát
triển. Như vậy, tín dụng ngân hàng vừa giúp doanh nghiệp rút ngắn được thời gian
tích lũy vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc
độ tập trung và tích lũy vốn cho nền kinh tế.
- Thứ hai, tín dụng ngân hàng là công cụ vĩ mô của Nhà nước để tài trợ cho
các ngành mũi nhọn và các thành phần kinh tế kém phát triển. Trong tiến trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, tín dụng ngân hàng được xem như một công cụ
vĩ mô quan trọng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, phát huy tối đa lợi thế
so sánh của đất nước. Mặc dù các ngành này có tỷ lệ sinh lời thấp, thời gian thu hồi
vốn chậm, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn nhưng đây là các ngành kinh tế mũi nhọn,
là xương sống nền kinh tế, là cơ sở để phát triển đất nước. Chính vì vậy, việc đầu tư
phát triển các ngành này là một yêu cầu không thể thiếu và tín dụng ngân hàng được
xem như một trong những nguồn vốn quan trọng tài trợ cho các ngành kinh tế mũi
nhọn
- Thứ ba, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển kinh tế đối ngoại.
Trong bối cảnh nước ta đã gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), các hàng
rào thuế quan dần được dỡ bỏ, doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đứng trước những
thách thức to lớn là phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực
kinh tế mạnh, có kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Khi đó, các doanh nghiệp của Việt
Nam cần phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời hạ giá thành
sản phẩm, đa dạng mẫu mã chủng loại hàng hóa. Để làm được điều này các doanh
nghiệp Việt Nam cần phải có vốn đầu tư để mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ
khi đó nguồn vốn vay của ngân hàng là thực sự cần thiết.
1.2.2.2. Vai trò của nghiệp vụ tín dụng đối với các ngân hàng thương mại:
Bên cạnh vai trò to lớn của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế, nghiệp vụ
tín dụng còn giữ vai trò hết sức quan trọng đối với bản thân các ngân hàng thương
mại. Tín dụng là hoạt động cơ bản, quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn
12
tại và phát triển của ngân hàng thương mại. Bản chất của ngân hàng thương mại là
kinh doanh tiền tệ, hoạt động chủ yếu là đi vay để cho vay. Nguồn vốn mà ngân
hàng huy động , trước tiên được sử dụng vào hoạt động cho vay và đây cũng là hoạt
động mang lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng. Khi các ngân hàng không thực
hiện được duy trì và mở rộng tín dụng thì phần vốn mà ngân hàng huy động được sẽ
bị ứ đọng, ngân hàng sẽ phải trả lãi cho phần vốn đó trong khi không có thu nhập từ
lãi cho vay, điều này sẽ dẫn ngân hàng tới chỗ bị thua lỗ và có khả năng bị phá sản.
Hơn nữa, việc nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động tín dụng sẽ tạo điều kiện
để ngân hàng phát triển đa dạng thêm các hoạt động tín dụng khác. Do đó, việc duy
trì và mở rộng tín dụng có ý nghĩa quan trọng đối với các ngân hàng thương mại.
1.2.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới nhiều hình thức, được nhìn nhận
dưới nhiều góc độ khác nhau theo các tiêu thức phân loại khác nhau. Trên thực tế
người ta thường đề cập đến các hình thức tín dụng ngân hàng theo các tiêu thức
phân chia sau:
1.2.3.1. Phân loại theo thời gian cấp tín dụng:
- Tín dụng có kỳ hạn:
Là khoản tín dụng có thời hạn xác định về ngày trả nợ: cho vay ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn. Mặc dù hầu hết các nước đều thông nhất về điều này nhưng
thời gian cụ thể được quy định cho từng loại lại không hoàn toàn đồng nhất. Ở Việt
Nam hiện nay, theo quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng cùng
với quyết đinh 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2000 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam thì:
+ Tín dụng ngắn hạn: Tối đa đến 12 tháng, được xác định phù hợp với chu
kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng
+ Tín dụng trung và dài hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với
thời hạn thu hồi vốn của vốn đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất
nguồn vốn vay của tổ chức tín dụng. Trong đó, thời hạn vay cho trung hạn là từ trên
12 tháng đến 60 tháng, thời hạn vay dài hạn là từ 60 tháng trở lên nhưng không quá
13
thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập đối với pháp nhân và không
quá 15 năm đối với các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
- Tín dụng không kỳ hạn: Là khoản tín dụng được ứng dụng đối với khoản
vay không xác định rõ thời hạn trả nợ.
1.2.3.2. Phân loại theo thành phần kinh tế::
Theo thành phần kinh tế, ta có thể chia các khoản vay thành:
- Cho vay doanh nghiệp Nhà nước
- Cho vay kinh tế tập thể
- Cho vay kinh tế tư nhân
- Cho vay kinh tế cá thể
- Cho vay kinh tế hỗn hợp
1.2.3.3. Phân loại theo phương thức hoàn trả:
Theo phương thức hoàn trả thì các khoản vay còn có thể được phân chia theo
hai loại: cho vay hoàn trả một lần và cho vay trả góp. Trong đó:
- Cho vay hoàn trả một lần: các khoản vay sẽ được hoàn trả một lần vào thời
gian xác định trong hợp đồng tín dụng, lãi vay có thể được hoàn trả theo thỏa thuận
trong hợp đồng, có thể theo tháng, theo quý hoặc theo năm.
- Cho vay trả góp: việc hoàn trả được tiến hành theo định kỳ, các khoản này
có thể bằng nhau hay không bằng nhau tùy theo thỏa thuận và được thực hiện theo
nguyên tắc trả dần trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng.
1.2.3.4. Phân loại theo mức độ đảm bảo:
Các ngân hàng có thể đảm bảo hay không có đảm bảo tùy thuộc vào mức độ
tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng vay cũng như độ rủi ro của phương án
xin vay. Từ đảm bảo của khách hàng ở đây chỉ được hiểu là đảm bảo bằng tài sản
thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ ba. Cách đảm bảo này có mục đích giảm
bớt rủi ro mất mát trong trường hợp người vay không trả được nợ hoặc không muốn
trả nợ khi đến hạn. Các tài sản được đem thế chấp thường là các bất động sản trong
khi các tài sản được đem cầm cố lại là các động sản nhỏ, vật tư hàng hóa, chứng
14
khoán và các giấy tờ có giá khác. Yêu cầu cơ bản đối với tài sản đem thế chấp cầm
cố là chúng phải có tính thị trường tức là có khả năng thanh lý được.
1.2.3.5. Phân loại theo nguồn phát sinh các khoản tín dụng:
- Cho vay trực tiếp: trước khi cấp tiền ra ngân hàng có mối liên hệ trực tiếp
đối với người vay để thẩm định khách hàng, xem xét tình hình người vay
- Cho vay gián tiếp: ngân hàng bỏ tiền ra cho vay nhưng không liên hệ gì với
người vay như cho vay hợp vốn đối với ngân hàng.
1.3. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và rủi ro tín dụng trong
ngân hàng
1.3.1. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù cặp đôi.
Kinh tế thị trường làm đa dạng hóa các thành phần kinh tế, bình đẳng hóa hoạt động
của các thành phần này và thúc đẩy canh tranh lẫn nhau. Rủi ro tuy là sự bất trắc
gây ra mất mát thiệt hại, là sự bất trắc cụ thể liên quan đến một biến cố không mong
đợi, song lại là hiện tượng đồng hành với các hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị
trường, trong quá trình cạnh tranh.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng không nằm ngoài tác động trên,
với các hoạt động ngân hàng hầu như không có loại nghiệp vụ, dịch vụ nào của
ngân hàng là không có rủi ro. Bởi lẽ, ngân hàng được coi là một tổ chức kinh doanh
tiền tệ - một loại hàng hóa đặc biệt, vì vậy ngân hàng thường xuyên đối mặt với
nhiều loại rủi ro. Ngoài các rủi ro thông thường mà các doanh nghiệp thường gặp
phải, các ngân hàng còn phải đối mặt với các rủi ro cơ bản trong lĩnh vực ngân hàng
như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt
động ngoại bảng, rủi ro công nghệ và hoạt động, rủi ro quốc gia và rủi ro khác.
Trong đó:
- Rủi ro lãi suất: là loại rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất thị
trường hoặc những yếu tố có liên quan đến lãi suất dẫn đến nguy cơ biến động thu
nhập và giá trị ròng của ngân hàng hay có thể nói rủi ro này phát sinh khi kỳ hạn
đến hạn của tài sản có không cân xứng với kỳ hạn đến hạn của tài sản nợ.
15
- Rủi ro tín dụng: là rủi ro bị tổn thất tài sản khi bên vay là những khách
hàng hay các ngân hàng không có khả năng thanh toán khoản vay theo đúng các
điều khoản trong hợp đồng tín dụng đã ký với ngân hàng.
- Rủi ro hối đoái: là những tác động tiêu cực dẫn đến tổn thất cho ngân hàng
do có sự thay đổi giá trị ngoài ý muốn của các đồng tiền.
- Rủi ro thanh khoản: là khả năng các ngân hàng không đáp ứng được các
nghĩa vụ tài chính một cách tức thời hoặc phải huy động vốn bổ sung với chi phí
cao hoặc phải bán tài sản với giá thấp.
- Rủi ro hoạt động ngoại bảng: Một xu hướng mạnh mẽ trong hoạt động của
các ngân hàng hiện đại là việc mở rộng các nghiệp vụ ngoại bảng. Hoạt động
nghiệp vụ ngoại bảng là các cam kết không nằm trong bảng cân đối tài sản (nội
bảng). Tuy nhiên, các hoạt động ngoại bảng có ảnh hưởng đến trạng thái tương lai
của bảng cân đối tài sản nội bảng vì khi cam kết ngoại bảng đến hạn có thể tạo ra tài
sản có và tài sản nợ bổ sung, làm thay đổi bảng cân đối nội bảng. Các hoạt động
ngoại bảng có thể kể ra sau đây như: phát hành thư tín dụng dự phòng bảo lãnh cho
công ty phát hành trái phiếu, hợp đồng mua bán ngoại tệ kỳ hạn… Từ đó, hoạt động
này có thể khiến ngân hàng gặp rủi ro trong trường hợp khi công ty phát hành trái
phiếu phá sản thì ngân hàng phải đứng ra thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán
cho công ty phát hành.
- Rủi ro công nghệ và hoạt động: Rủi ro công nghệ phát sinh khi những
khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi
phí như đã dự tính khi mở rộng quy mô hoạt động. Rủi ro hoạt động có mối liên hệ
chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh bất cứ khi nào nếu hệ thống công
nghệ bị trục trặc hoặc là khi hệ thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động
- Rủi ro đạo đức: nảy sinh trong môi trường thông tin phi đối xứng, nó nảy
sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông tin phi đối xứng giữa các
bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành động theo hướng làm lợi cho
bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế thông tin
- Rủi ro quốc gia và rủi ro khác:
16
Rủi ro quốc gia xảy ra khi ngân hàng đầu tư cho công ty nước ngoài, thì ngay
cả trong trường hợp công ty có khả năng và sẵn sàng hoàn trả vốn vay, nhưng cũng
có thể không thực hiện được bởi vì chính phủ của công ty nước này cấm hoặc hạn
chế việc thanh toán cho nước ngoài do dự trữ ngoại hối hạn hẹp hoặc vì lý do chính
trị.
Rủi ro khác bao gồm như việc thay đổi thuế đột ngột, ảnh hưởng của chiến
tranh làm cho các điều kiện trên thị trường tài chính thay đổi đột biến không dự tính
trước, sự sụp đổ đột ngột của thị trường chứng khoán, rủi ro lừa đảo… Bên cạnh đó
rủi ro bắt nguồn từ yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát gia tăng, sự biến động vô lối
của giá cả hàng hóa, thất nghiệp đều có ảnh hưởng đến sự biến động lãi suất, bộc lộ
rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản
1.3.2. Rủi ro tín dụng trong ngân hàng
1.3.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Trong điều kiện hiện nay, việc cấp tín dụng vẫn là một hoạt động cơ banr và
quan trọng nhất của ngân hàng do đó rủi ro tín dụng cũng là loại rủi ro lớn nhất,
thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nanwgh nề nhất đối với hoạt động ngân hàng.
Sở dĩ như vậy vì đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm quá
nửa giá trị tổng tải sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Vì thế, rủi
ro tín dụng cũng được nhiều học giả nghiên cứu và đưa ra khái niệm về rủi ro tín
dụng:
* Rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả được
nợ hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay. (Peter S.Rose, 2001)
* Theo Ủy ban Basel (thuộc ngân hàng thanh toán quốc tế) thì: rủi ro tín
dụng là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện được các
nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã cam kết. Cũng theo Ủy ban này thì
“Rủi ro thất thoát đối với một NH là sự vỡ nợ của người giao ước trong hợp đồng,
trong đó sự vỡ nợ được xác định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng nào đối với
nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả nơ gốc và lãi”.
17
* Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy
đủ gốc và lãi của khoản vay hoặc việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn.
(Nguyễn Văn Tiến, 2005)
* Theo quyết định 493/2005.QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam thì: Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng
là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết.
1.3.2.2. Các loại hình rủi ro tín dụng
Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng, việc sử dụng cách phân loại tùy
thuộc vào mục đích nghiên cứu , quản lý. Đối với ngân hàng, việc phân loại có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc thiết kế chính sách, quy trình, thủ tục và cả mô hình
tổ chức nhằm đảm bảo nhận biết đầy đủ các yếu tố làm phát sinh rủi ro và phân biệt
trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ phận, giữa các khâu. Thực tế cho thấy, sự phân tách
trách nhiệm càng rõ ràng, càng cụ thể thì sẽ càng làm cho việc hạn chế rủi ro hiệu
quả. Do vậy, căn cứ vào các tiêu thức khác nhau có thể chia rủi ro tín dụng thành
nhiều loại khác nhau như căn cứ vào đối tượng, phạm vi, các giai đoạn cấp tín dụng,
các sản phẩm của ngân hàng trong hoạt động tín dụng, tính chất của rủi ro và kỳ hạn
của các khoản vay:
- Nếu phân theo đối tượng sử dụng thì có 3 nhóm chính là: (1) Rủi ro khách
hàng cá thể; (2) Rủi ro công ty, tổ chức kinh tế; (3) Rủi ro quốc gia hay khu vực địa
lý.
- Nếu phân theo phạm vi thì có thể chia ra 2 loại: (1) Rủi ro cá lẻ/giao dịch
(được hiểu là rủi ro gắn với một giao dịch cụ thể nào đó, như đối với một khoản vay
của khách hàng. Loại rủi ro này gắn liền và xuất phát chủ yếu do đặc điểm cá biệt
của một khoản vay/ khách hàng); (2) Rủi ro hệ thống (rủi ro gắn với một nhóm
khách hàng, chẳng hạn đối với một ngành, thậm chí cả một nền kinh tế. Loại rủi ro
này mang tính chất vĩ mô và liên quan đến việc quản lý danh mục tín dụng).
18
- Nếu phân theo giai đoạn phát sinh rủi ro thì có 3 loại: (1) Rủi ro trong thẩm
định, tức là đánh giá sai khách hàng; (2) Rủi ro khi cho vay, chẳng hạn như giải
ngân sai mục đích làm cho khoản vay không phát huy hiệu quả; (3) Rủi ro trong khi
quản lý, xử lý thu nợ.
- Nếu phân loại theo sản phẩm thì có 2 loại sau: (1) Rủi ro các sản phẩm nội
bảng (cho vay, thấu chi); (2) Rủi ro các sản phẩm ngoại bảng (chiết khấu, thư tín
dụng, bảo lãnh).
- Nếu căn cứ vào tính chất rủi ro: (1) Rủi ro khách quan xảy ra do thiên tai,
địch họa, người vay trốn chạy, mất tích; (2) Rủi ro chủ quan xảy ra do người vay
hoặc cho vay vô tình hoặc cố ý làm cho thất thoát vốn vay.
- Nếu căn cứ thời hạn khoản vay: (1) Rủi ro theo các khaonr vay ngắn hạn;
(2) Rủi ro theo các khoản vay trung, dài hạn.
1.3.2.3. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại
Các ngân hàng khi cho vay luôn phải đối mặt với rủi ro. Với khả năng cho
vay, các ngân hàng thương mại thúc đẩy quá trình đầu tư, sản xuất và lưu thông
hàng hóa, do đó góp một ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế và đối với các
doanh nghiệp. Tuy nhiên, để xác định nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cần tập
trung vào một số nguyên nhân sau:
a. Nguyên nhân từ người vay:
Rủi ro tín dụng từ phía người vay là một trong những loại rủi ro thường đem
lại tổn thất nhiều nhất cho ngân hàng. Các nguyên nhân dẫn đến việc khách hàng
không trả được nợ cho ngân hàng có rất nhiều, có thể sắp xếp theo hai nhóm như
sau:
- Nhóm nguyên nhân khách quan: là những tác động ngoài ý chí của khách
hàng như do thiên tai, hỏa hoạn, do sự ổn định của các chính sách kinh tế chưa
chắc, thay đổi đột ngột chính sách quản lý kinh tế, điều hành quy hoạch, do hành
lang văn bản pháp lý chưa phù hợp, do biến động của thị trường trong và ngoài
nước, quan hệ cung cầu hàng hóa thay đổi.
19
- Nhóm nguyên nhân chủ quan: là nguyên nhân nội tại của mỗi khách hàng.
Trước hết là vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn rất ít so
với nhu cầu. Năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường và các đối
tác bạn hàng làm ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh. Công nghệ sản xuất
không đủ khả năng tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao. Trong đó có trường hợp
ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng do khách hàng cố ý lừa đảo ngân hàng, cho dù
công việc kinh doanh có lãi họ vẫn không trả nợ ngân hàng đúng hạn với hi vọng sử
dụng vốn vay càng lâu càng tốt, sử dụng vốn vay không đúng mục đích hoặc chây ỳ
không trả nợ ngân hàng. Để đạt được mục đích, người vay thường dùng mọi biện
pháp để ứng phó với ngân hàng như cung cấp sai thong tin bao gồm thông tin về
doanh nghiệp, về mặt hàng kinh doanh, khả năng trả nợ, làm khả năng đánh giá của
cán bộ ngân hàng không chính xác.
b. Nguyên nhân từ phía ngân hàng (người cho vay):
Nguyên nhân đầu tiên thuộc về ngân hàng phải kể đến là việc không chấp
hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện cho vay. Nguyên nhân thứ hai về phía
ngân hàng là chính sách tín dụng và quy trình cho vay còn lỏng lẻo, chưa chú trọng
đến phân tích khách hàng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ hoặc phương
pháp xem xét phân tích còn hạn chế, chưa chính xác. Nguyên nhên thứ ba là kỹ
thuật cấp tín dụng chưa hiện đại, chưa đa dạng như việc xác định hạn mức tín dụng
cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù hợp, chủ yếu là tín dụng trực
tiếp. Nguyên nhân thứ tư là thiếu thông tin về khách hàng hay thiếu thông tin tín
dụng tin cậy, kịp thời, chính xác để xem xét phân tích trước khi cấp tín dụng, một
nguyên nhân nữa cần phải kể đến đó là năng lực, phẩm chất cán bộ tín dụng và vấn
đề quản lý đãi ngộ của cán bộ ngân hàng.
c. Nguyên nhân từ bên ngoài:
Bao gồm môi trương kinh tế, pháp lý và những điều kiện khách quan khác
liên quan đến khoản vay.
Môi trường kinh tế ảnh hưởng rất lớn tới sự thành công hay thất bại, lạm
phát cũng là vấn đề khiến các ngân hàng luôn phải cảnh giác vì người đi vay phải
20
vay một khoản lớn hơn cho mục đích của mình và chịu chi phí cũng lớn hơn. Khi
nền kinh tế hưng thịnh, mọi hoạt động trong nền kinh tế diễn biến tích cực, hoạt
động kinh doanh tốt thì khoản vay được đảm bảo (nếu không gặp rủi ro khác) và
ngược lại.
Nguyên nhân thông tin không cân xứng. Ngân hàng thương mại thực hiện
các nghiệp vụ tài sản Nợ, tài sản Có, chuyển vốn từ người gửi tiền sang người vay
tiền - Toàn bộ các giao dịch này sẽ suôn sẻ nếu các bên tham gia đều có những
thông tin và hiểu biết đầy đủ về nhau. Song thực tế là một bên thường không biết
hết những gì cần biết về phía bên kia và sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên
có được như vậy được gọi là “thông tin không cân xứng”. Việc thiếu thông tin trong
các giao dịch sẽ đưa đến “sự lựa chọn đối nghịch” và rủi ro đạo đức. Thông tin
không cân xứng trên thị trường tài chính khiến các ngân hàng phải đối mặt với nguy
cơ rủi ro cao
Môi trường pháp lý trong kinh doanh là tổng hợp các yếu tố pháp lý có tác
động đến hoạt động kinh doanh, bao gồm hệ thống pháp luật, hệ thống các biện
pháp đảm bảo cho pháp luật được thực thi và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của
các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh. Nếu hệ thống pháp luật không đầy đủ,
đồng bộ thì sẽ không đảm bảo sự lành mạnh, hiệu quả và dễ gặp rủi ro.
21
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG EXIMBANK
2.1. Giới thiệu chung về EximBank
2.1.1. Mô hình tổ chức
- Khái quát về ngân hàng Eximbank:
Ngân hàng được thành lập vào ngày 24/05/1989 theo quyết định số 140/CT
của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với tên gọi đầu tiên là Ngân hàng Xuất Nhập khẩu
Việt Nam (Vietnam Export Import Bank), là một trong những ngân hàng thương
mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam. Ngân hàng đã chính thức đi vào hoạt động
ngày 17/01/1990. Ngày 06/04/1992, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký
giấy phép số 11/NH-GP cho phép ngân hàng hoạt động trong thời hạn 50 năm với
số vốn điều lệ đăng ký là 50 tỷ đồng Việt Nam tương đương 12,5 triệu USD với tên
mới là Ngân hàng Thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Vietnam Export
Import Commercial Joint - Stock Bank), gọi tắt là Vietnam Eximbank. Eximbank
được Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh chấp thuận cho niêm yết
kể từ ngày 20/10/2009 theo Quyết định số 128/QĐ-SGDHCM. Đến nay vốn điều lệ
của Eximbank đạt 12.355 tỷ đồng, Vốn chủ sở hữu đạt 16.303 tỷ đồng (theo Báo
cáo thường niên năm 2011 của ngân hàng Eximbank). Eximbank hiện là một trong
những ngân hàng có Vốn chủ sở hữu lớn nhất trong khối Ngân hàng TMCP tại Việt
Nam.
Bảng 2.1: Vốn điều lệ và Tổng tài sản của Eximbank qua các năm
(Đơn vị tính: tỷ đồng)
TT Năm 2009 2010 2011
Tổng tài sản 65.448 131.111 183.567
Vốn điều lệ 8.800 10.560 12.355
(Nguồn: Báo cáo thường niên của Eximbank năm 2011)
- Mô hình tổ chức: (Hình 2.1)
22
23
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Eximbank
Năm 2011 được xem là năm có nhiều thay đổi quan trọng trong chính sách
điều hành vĩ mô, tác động rất lớn đến hoạt động của NHTM. Để kiềm chế lạm phát,
Chính phủ đã điều hành chính sách thắt chặt tài khóa và tiền tệ trong năm 2011.
Tăng trưởng tín dụng được giới hạn dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng
15-16%, tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất giảm dần theo lộ trình của
Chỉ thị số 01/2011/TT-NHNN. Đến cuối năm 2011, tăng trưởng tín dụng toàn
ngành đạt 10,9% là mức thấp kỷ lục trong nhiều năm qua. Tín dụng tăng chậm còn
do ảnh hưởng từ những khó khăn của nền kinh tế khi nhiều doanh nghiệp hoạt động
trì trệ, thu hẹp quy mô hoặc ngừng hoạt động. Một số hạn chế của hệ thống ngân
hàng về thanh khoản, nợ xấu ngày càng rõ nét. Trong bối cảnh đó, Hội đồng quản
trị cùng với Ban điều hành đã linh hoạt nhạy bén trong đối sách kinh doanh, đưa
Eximbank vượt qua khó khăn, bảo đảm an toàn hoạt động và thực thi đúng pháp
luật, đạt hiệu quả cao. Điều này được thể hiện rõ nét qua Báo cáo kết quả kinh
doanh (Bảng 2.2)
24
25
Tại bảng 2.2 ở trên ta thấy:
* Thu nhập lãi thuần:
Thu nhập lãi thuần của Eximbank tăng trưởng qua từng năm, đặc biệt năm
2011 mặc dù là một năm khó khăn của nền kinh tế khi Chính phủ ban hành Nghị
quyết số 11 để ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, thực hiện chính sách tiền
tệ thắt chặt nhưng Eximbank vẫn tiếp tục với tốc độ phát triển cao và an toàn, cụ thể
đạt 5.303.626 triệu đồng tăng 83,96% so với năm 2010 và tăng 168,49% so với năm
2009. Để đạt được kết quả như vậy là do Eximbank đã chủ động cơ cấu danh mục
tín dụng theo hướng ưu tiên tập trung đối với lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là đối với
hoạt động xuất khẩu, hạn chế tối đa vốn tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất, đầu
tư kinh doanh chứng khoán (tỷ trọng 1,32%), kinh doanh bất động sản (tỷ trọng
7,14%) và cho vay tiêu dùng. Cụ thể thu nhập lãi thuần năm 2011 tăng lên so với
năm 2010 là do chênh lệch giữa thu nhập và chi phí từ các khoản tiền gửi và cho
vay tại tổ chức tín dụng, các khoản cho vay và ứng trước của khách hàng, thu nhập
từ đầu tư chứng khoán tăng lên. Trong đó, năm 2011 thu nhập từ các khoản cho vay
của khách hàng chiếm tỷ trọng lớn (chiếm 59,46%), tăng lên 5.021.859 triệu đồng
(tương đương 92,76%) so với năm 2010, thu nhập lãi tiền gửi tăng lên so với năm
2010 là 3.435.723 triệu đồng (tương đương 336,52%), thu nhập từ đầu tư chứng
khoán cũng tăng đáng kể so với năm 2010, cụ thể tăng 1.466.251 triệu đồng
(132,06%)
* Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ:
Năm 2011, lãi thuần từ hoạt động dịch vụ của Eximbank đạt 565.743 triệu
đồng, tăng 91.496 triệu đồng tương đương mức tăng 19,29% so với năm 2010.
Trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn cộng với sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường,
Eximbank vẫn đạt được sự tăng trưởng nói trên là một thành công lớn. Với thế
mạnh là ngân hàng tài trợ đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, Eximbank đã
triển khai thành công các chương trình tài trợ xuất nhập khẩu như chương trình tài
trợ xuất khẩu bằng ngoại tệ, VNĐ với lãi suất ưu đãi. Ngoài ra, Eximbank đã tiếp
tục phát triển và hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện