Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

thực trạng hoạt động kinh doanh và tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty cổ phần đầu tư và xây lắp sông đà bản gốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.41 KB, 69 trang )

Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1:
CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN VÀ CÁC BIỆN PHÁP CƠ BẢN
ĐỂ TĂNG LỢI NHUẬN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Lợi nhuận của doanh nghiệp
1.1.1. Lợi nhuận, ý nghĩa và vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp
1.1.1.1. Lợi nhuận
Theo luật doanh nghiệp 2005 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, doanh nghiệp được định nghĩa là:
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực
hiện hoạt động kinh doanh.”
Kinh doanh được định nghĩa là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả
các giai đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp năm 2005, có các loại hình doanh
nghiệp chủ yếu sau:
1. Doanh nghiệp tư nhân.
1. Công ty cổ phần.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn.
3. Công ty hợp danh.
Đứng trên góc độ doanh nghiệp, thì lợi nhuận được xác định là kết quả
tài chính cuối cùng của các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (hay các
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
1
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
Công ty) là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp
đã bỏ ra để đạt được doanh thu đó từ các hoạt động của doanh nghiệp mang
lại.


Lợi nhuận = doanh thu – chi phí tạo ra doanh thu
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
2
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
1.1.1.2. Ý nghĩa, vai trò của lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh
tế
Trong thời kì bao cấp, vai trò của lợi nhuận chưa thực sự quan trọng đối
với các doanh nghiệp, bởi các doanh nghiệp trong thời kì đó sản xuất kinh
doanh theo kế hoạch của Nhà nước. Cho dù kết quả kinh doanh là lãi hay lỗ
cũng không ảnh hưởng đến sự sống còn của doanh nghiệp. Tuy nhiên khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường, thì lợi nhuận trở thành mối quan tâm hàng
đầu của mọi doanh nghiệp. Lợi nhuận không chỉ có ý nghĩa đối với các doanh
nghiệp mà còn đối với người lao động và toàn xã hội.
 Đối với nền kinh tế:
Lợi nhuận là tiền đề của tái sản xuất mở rộng xã hội. Trong điều kiện
nền kinh tế thị trường hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh phải có
lãi, lợi nhuận thuần ngày càng cao, phục vụ sản xuất mở rộng với quy mô và
tốc độ nhanh.
Bên cạnh đó thuế TNDN đánh trên lợi nhuận cũng là một nguồn thu
đáng kể của ngân sách quốc gia. Nhờ đó, Nhà nước có nguồn lực để xây dựng
cở sở hạ tầng, duy trì bộ máy hành chính và củng có an ninh đảm bảo môi
trường tốt nhất cho doanh nghiệp phát triển.
 Đối với doanh nghiệp:
Đối với doanh nghiệp, lợi nhuận giữ vị trí vô cùng quan trọng quyết
định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, một trong những mục tiêu
hàng đầu của doanh nghiệp là lợi nhuận, nếu doanh nghiệp bị thua lỗ liên tục,
kéo dài thì doanh nghiệp đó có thể lâm vào tình trạng phá sản.
Lợi nhuận là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh hiệu quả của
toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, một doanh nghiệp
có lợi nhuận cao, tình hình tài chính lành mạnh sẽ thu hút được nhiều nhà đầu

tư. Do đó, việc huy động thêm vốn để sản xuất kinh doanh sẽ thuận lợi hơn.
Đồng thời lợi nhuận cũng là nguồn tích lũy quan trọng để doanh nghiệp bổ
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
3
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
sung vốn kinh doanh, tạo điều kiện để doanh nghiệp tái sản xuất giản đơn và
tái sản xuất mở rộng. Vì nguồn cho các quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng
tài chính…được lấy từ lợi nhuận. Các quỹ này doanh nghiệp có thể bổ sung
cho vốn lưu động, vốn cố định phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh.
 Đối với người lao động:
Lao động là một trong ba yếu tố không thể thiếu và giữ vai trò quyết
định của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy để quá trình đó được tiến hành
một cách liên tục và có hiệu quả ngày càng cao thì doanh nghiệp phải quan
tâm đến người lao động một cách thỏa đáng. Ngoài tiền lương thì lợi nhuận là
một trong những nguồn mà doanh nghiệp thể hiện sự quan tâm của mình. Lợi
nhuận sau thuế, sau khi trích lập một số quỹ bắt buộc như quỹ dự phòng tài
chính, quỹ đầu tư phát triển…sẽ được trích lập các quỹ như: quỹ dự phòng trợ
cấp mất việc làm, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng. Thông qua việc tạo lập và
sử dụng các quỹ này, doanh nghiệp có điều kiện nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho người lao động. Từ đó góp phần nâng cao sức lao động cũng
như tinh thần của người lao động và là đòn bẩy để nâng cao hiệu quả làm
việc.
1.1.2. Sự hình thành lợi nhuận trong doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế hiện nay, một doanh nghiệp không chỉ kinh doanh
trên lĩnh vực hoạt động chính của mình mà còn tham gia vào nhiều lĩnh vực
khác nhằm tối đa hóa lợi nhuận và khai thác những tiềm năng từ những lĩnh
vực khác. Do đó, lợi nhuận trong doanh nghiệp cũng được hình thành từ
nhiều nguồn khác nhau. Hiện tại trong doanh nghiệp chia lợi nhuận thành
những lĩnh vực sau:
1.1.2.1. Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh:

Khoản lợi nhuận này được xác định là khoản tiền chênh lệch giữa
doanh thu bán hàng thuần trừ giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí
quản lý doanh nghiệp. Trong đó:
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
4
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
Doanh thu bán hành là toàn bộ số tiền bán sản phẩm, hàng hóa, cung
ứng dịch vụ trên thị trường sau khi đã trừ đi các khoản giảm giá hàng bán,
hàng bán bị trả lại (nếu có chứng từ hợp lệ). Trong doanh thu cũng bao gồm
phần trợ giá của Nhà nước khi thực hiện việc cung cấp các hàng hóa và dịch
vụ theo yêu cầu của Nhà nước. Các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đem biếu
tặng, cho hoặc tiêu dùng nội bộ doanh nghiệp cũng cần hạch toán để xác định
doanh thu.
Thời điểm ghi nhận doanh thu bán hàng là khi quyền sở hữu sản phẩm,
hàng hóa đã được chuyển giao hoặc dịch vụ đã được thực hiện, và người mua
đã chấp nhận thanh toán, không kể đã thu được tiền hay chưa.
Doanh thu bán hàng sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ doanh thu như
giảm giá hàng bán, trị giá hàng hóa bị trả lại gọi là doanh thu thuần.
Giảm giá hàng bán là các khoản giảm giá của sản phẩm mà doanh
nghiệp đã bán hàng hóa đó cho khách hàng tuy nhiên hàng hóa đó kém phẩm
chất, sai quy định theo hợp đồng hoặc ưu tiên cho khách hàng mua khối lượng
lớn.
Trị giá hàng hóa bị trả lại là trị giá số sản phẩm, hàng hóa, lao vụ, dịch
vụ đã bán bị khách hàng trả lại do các nguyên nhân như vi phạm cam kết, vi
phạm hợp đồng kinh tế, kém phẩm chất, không đúng quy cách, chủng loại.
Giá vốn hàng bán là trị giá vốn của thành phẩm, hàng hóa, dịch vụ xuất
bán trong kỳ, bao gồm các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí
nhân Công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Doanh thu thuần sau khi trừ giá
vốn hàng bán, phần còn lại chính là lợi nhuận gộp. Phần chênh lệch giữa lợi
nhuận gộp với chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp được gọi là

lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chi phí bán hàng là những khoản chi phí phát sinh có liên quan đến
hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, lao vụ, dịch vụ trong kỳ.
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
5
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
Chi phí quản lý doanh nghiệp là những khoản chi phí có liên quan đến
toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp mà không tách riêng cho bất kỳ hoạt
động nào.
Lợi nhuận gộp sau khi bù đắp hai loại chi phí trên gọi là lợi nhuận trước
thuế của hoạt động kinh doanh.
Như vậy, ta có Công thức xác định lợi nhuận hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp là:
Lợi
nhuận
HĐKD
=
Doanh
thu
thuần
-
Giá vốn
hàng
bán
-
Chi phí
bán
hàng
-
Chi phí quản

lý doanh
nghiệp
Trong đó:
Doanh
thu
thuần
=
Tổng
doanh
thu bán
hàng
-
Giảm
giá hàng
bán
-
Trị giá
hàng
bán bị
trả lại
-
Thuế gián
thu
1.1.2.2. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính là số chênh lệch giữa thu nhập từ hoạt
động tài chính trừ đi chi phí hoạt động tài chính và thuế phải nộp theo quy
định (không bao gồm thuế thu nhập doanh nghiệp). Trong đó:
Thu nhập hoạt động tài chính là khoản thu do hoạt động đầu tư tài
chính hoặc kinh doanh về vốn đưa lại, bao gồm: thu về hoạt động góp vốn
tham gia liên doanh, thu nhập về hoạt động đầu tư chứng khoán, thu nhập từ

cho thuê tài sản, thu nhập về các hoạt động kinh doanh khác như kinh doanh
bất động sản, thu lãi tiền gửi…
Chi phí hoạt động tài chính là các chi phí cho các hoạt động đầu tư tài
chính và các chi phí liên quan đến hoạt động về vốn gồm: chi phí về liên
doanh không tính vào trị giá vốn góp, lỗ liên doanh, lỗ do bán chứng khoán
ngắn hạn, chi phí cho đầu tư tài chính, chi phí liên quan đến cho vay vốn, chi
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
6
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
phí trả lãi vay vốn kinh doanh, chi phí liên quan đến mua bán ngoại tệ, lỗ do
bán ngoại tệ, chiết khấu thanh toán,…
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định như sau:
Lợi nhuận hoạt
động tài chính
=
Doanh thu hoạt
động tài chính
-
Chi phí hoạt
động tài chính
-
Thuế gián
thu
1.1.2.3. Lợi nhuận khác
Lợi nhuận khác là số chênh lêch giữa thu nhập khác trừ đi chi phí khác
và thuế phải nộp (nếu có). Trong đó:
Thu nhập khác là những khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính
trước hoặc những khoản thu bất thường không xảy ra một cách đều đặn và
thường xuyên. Những khoản thu nhập bất thường gồm: thu nhập về nhượng
bán, thanh lý tài sản cố định, thu tiền được phạt do vi phạm hợp đồng, thu các

khoản nợ khó đòi đã xử lý xóa sổ, thu các khoản nợ không xác định được chủ,
hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho và các khoản phải thu khó đòi…
Chi phí bất thường là những khoản lỗ do các nghiệp vụ riêng biệt với
những hoạt động thông thường của doanh nghiệp. Những khoản chi phí bất
thường có thể do nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan đưa tới, gồm: giá trị
còn lại của tài sản cố định khi thanh lý, nhượng bán, tiền phạt do vi phạm hợp
đồng, bị phạt thuế, truy nộp thuế, các khoản chi phí kế toán ghi nhầm hay bỏ
sót khi vào sổ…
Đối với các hoạt động khác thì lợi nhuận được xác định:
Lợi nhuận
khác
=
Doanh thu
khác
-
Chi phí
khác
-
Thuế gián thu
(nếu có)
Sau khi xác định được lợi nhuận của các hoạt động, tiến hành tổng hợp
lại, ta xác định lợi nhuận trước thuế thu nhập của doanh nghiệp như sau:
Lợi nhuận trước
thuế TNDN
=
Lợi nhuận
HĐKD
+
Lợi nhuận hoạt
động tài chính

+
Lợi nhuận
khác
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
7
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
Lợi nhuận sau
thuế TNDN
=
Lợi nhuận trước
thuế TNDN
- Thuế TNDN
Đối với doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thuần túy thì lợi
nhuận hoạt động khác không xảy ra thường xuyên và đều đặn nên không phải
là mục tiêu chính của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất
kinh doanh đều phải lựa chọn cho mình một ngành nghề phù hợp với điều
kiện về trình độ kĩ thuật, lực lượng lao động, quy mô vốn… Đó là sản xuất
kinh doanh chủ yếu nhằm sản xuất và tiêu thụ một hoặc một nhóm mặt hàng
nhất định trong đó có những mặt hàng doanh nghiệp có thể phát huy được thế
mạnh của mình. Vì vậy, trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp thì lợi nhuận
từ hoạt động kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất quyết định đến hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ hạch toán. Do vậy, trong bài luận
văn này em xin chỉ đề cập tới lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm.
1.1.3. Các chỉ tiêu lợi nhuận.
1.1.3.1. Chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối
 Chỉ tiêu lợi nhuận gộp
Chỉ tiêu này được xác định bằng số chênh lệch giữa doanh thu thuần và
giá vốn hàng bán.
Công thức tính:
Lợi nhuận gộp = Doanh thu thuần - Giá vốn hàng bán

Chỉ tiêu lợi nhuận gộp phản ánh hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp
chưa tính tới chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Chỉ tiêu này
cho thấy tình hình tiêu thụ sản phẩm, tình hình quản lý giá thành sản xuất sản
phẩm của doanh nghiệp ở khâu sản xuất và chất lượng hàng hóa của doanh
nghiệp.
 Chỉ tiêu lợi nhuận trước lãi vay và thuế (EBIT).
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
8
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
Chỉ tiêu này phản ánh số chênh lệch giữa lợi nhuận gộp và các chi phí
như chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Công thức tính:
Lợi nhuận
trước lãi vay
và thuế
(EBIT)
=
Lợi
nhuận
gộp
+
Doanh
thu tài
chính
-
chi
phí
bán
hàng
-

Chi phí
quản lý
doanh
nghiệp
+
Lợi
nhuận
khác
Trên lý thuyết, chỉ tiêu này phản ánh tốt nhất hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp. Vì chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp không phân biệt nguồn vốn đó được lấy từ đâu, đi vay hay của chủ sở
hữu.
 Chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế (EBT).
Chỉ tiêu này phản ánh chênh lệch giữa lợi nhuận trước lãi vay và thuế
so với chi phí lãi vay. Công thức xác định:
Lợi nhuận trước
thuế (EBT)
=
Lợi nhuận trước lãi
vay và thuế (EBIT)
- Chi phí lãi vay
Xem xét chỉ tiêu này có thể đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn chủ sở
hữu của doanh nghiệp, cũng như đánh giá được lãi vay đóng góp bao nhiêu
phần trăm trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp, đồng thời là căn cứ để xác
định số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.
 Chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế (NI).
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách lấy lợi nhuận trước thuế trừ đi số
thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp, chỉ tiêu này phản ánh kết quả cuối cùng
mà doanh nghiệp thực nhận được để có thể sử dụng tái sản xuất giản đơn
cũng như mở rộng, đồng thời cũng là căn cứ xác định thu nhập chủ sở hữu

của công ty. Trong các chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối, các nhà đầu tư cũng như
các chủ sở hữu quan tâm nhất chỉ tiêu này.
Công thức xác định:
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
9
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
Lợi nhuận sau thuế
(NI)
=
Lợi nhuận trước
thuế (EBT)
-
Thuế TNDN phải
nộp
1.1.3.2. Chỉ tiêu lợi nhuận tương đối
Việc sử dụng những phương pháp tính trên sẽ giúp nhà quản lý xác
định được số lợi nhuận tuyệt đối. Tuy nhiên, sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt
đối còn một hạn chế sau:
• Các doanh nghiệp cùng loại nếu có quy mô sản xuất khác nhau
thì lợi nhuận thu được cũng khác nhau. Trong thực tế đã cho thấy, doanh
nghiệp có quy mô lớn sẽ sản xuất ra nhiều sản phẩm và trong cùng một điều
kiện cạnh tranh sẽ thu được lợi nhuận cao hơn so với doanh nghiệp có qui mô
nhỏ. Thậm chí, nếu một doanh nghiệp có qui mô lớn nhưng Công tác quản lý
yếu kém vẫn có thể thu được lợi nhuận cao hơn so với doanh nghiệp có qui
mô nhỏ. Do vậy, nếu căn cứ vào số lợi nhuận tuyệt đối thu được của một
doanh nghiệp sẽ đánh giá không chính xác hiệu quả sản xuất mà chỉ xác định
được kết quả sản xuất.
• Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng. Nó chịu tác động của
nhiều nhân tố. Có những nhân tố thuộc về chủ quan như trình độ quản lý sản
xuất, tổ chức tiêu thụ sản phẩm… có những nhân tố khách quan như vị trí địa

lý, cơ hội kinh doanh… có những nhân tố tác động cùng chiều đến lợi nhuận
như giá bán sản phẩm, số lượng sản phẩm tiêu thụ, chất lượng sản phẩm…
nhưng có những nhân tố tác động ngược chiều đến lợi nhuận như giá thành
tiêu thụ sản phẩm, tác động cạnh tranh, chi phí bất thường xảy ra…làm cho
lợi nhuận của các doanh nghiệp cũng rất khác nhau.
• Do điều kiện sản xuất kinh doanh, thị trường tiêu thụ, thời điểm
tiêu thụ, điều kiện phương tiện vận chuyển khác nhau làm cho lợi nhuận của
các doanh nghiệp không giống nhau. Nếu các doanh nghiệp có qui mô sản
xuất, khả năng tổ chức quản lý là như nhâu thì doanh nghiệp có thị trường
tiêu thụ rộng lớn, điều kiện sản xuất gặp nhiều thuận lợi trong việc thu mua
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
10
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
nguyên vật liệu, kho bãi gần trục giao thông thì sẽ có khả năng thu được nhiều
lợi nhuận hơn các doanh nghiệp không có các điều kiện ưu đãi đó.
Như vậy, sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối chỉ giúp nhà quản lý xác
định kết quả kinh doanh mà chưa xác định được hiệu quả kinh doanh, chưa
xác định được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố (doanh thu, vốn sản xuất,
chi phí sản xuất…) đến kết quả kinh doanh. Để khắc phục những hạn chế trên
của việc sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối, giúp nhà quản lý đánh giá chính
xác hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, người ta sử dụng
thêm các chỉ tiêu lợi nhuận tương đối (hay còn gọi là tỷ suất lợi nhuận).
Có rất nhiều chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận, mỗi chỉ tiêu có một nội dung
kinh tế khác nhau. Nhưng chúng đều có mục đích là đưa các doanh nghiệp có
điều kiện sản xuất khác nhau về cùng một mặt bằng để so sánh (một đồng vốn
sản xuất kinh doanh, một đồng chi phí, một đồng doanh thu). Sau đây là một
số chỉ tiêu thường dùng:
 Tỷ suất lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên vốn sản xuất
kinh doanh (ROA
e

)
Là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận trước lãi vay và thuế với số vốn sử
dụng bình quân trong kỳ (gồm có vốn cố định bình quân và vốn lưu động bình
quân)
Công thức tính như sau:
ROA
E
=
EBIT
VKD
bq
Trong đó:
ROA
e
: tỷ suất lợi nhuận vốn.
EBIT : Tổng số lợi nhuận trước lãi vay và thuế.
VKD
bq
: vốn kinh doanh (hay tài sản) bình quân trong kỳ
(bao gồm vốn cố định bình quân và vốn lưu động bình quân).
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
11
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
VKD
bq
= VCĐ
bq
+ VLĐ
bq
Vốn cố định bình quân (VCĐ

bq
) trong kỳ được tính bằng bình quân số
học giữa vốn cố định đầu kỳ và vốn cố định cuối kỳ. Trong đó, vốn cố định
đầu kỳ (hoặc cuối kỳ) được tính bằng nguyên giá tài sản cố định trừ đi khấu
hao lũy kế tính đến thời điểm xác định.
Công thức xác định vốn cố định bình quân:
VCĐ
bq
=
V

đầu kì + V

cuối kì
2
Vốn lưu động bình quân (VLĐ
bq
) trong kỳ được tính theo phương pháp
bình quân số học vốn lưu động trong từng quý hoặc từng tháng.
Công thức được xác định vốn lưu động bình quân như sau:
VLĐ
bq
=
VLĐ
quí 1
+ VLĐ
quí 2
+ VLĐ
quí 3
+ VLĐ

quí 4
4
Hoặc có thể tính V
bq
bằng cách lấy bình quân số học tổng tài sản đầu
năm + tổng tài sản cuối năm.
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn phản ánh tổng hợp trình độ sử dụng tài
sản, vật tư tiền vốn của doanh nghiệp. Nó cho biết mỗi đồng vốn bỏ vào sản
xuất kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận không tính đến ảnh hưởng
của thuế thu nhập doanh nghiệp. Thông qua đó kích thích doanh nghiệp khai
thác những khả năng tiềm tàng để quản lý và sử dụng vốn đạt hiệu quả cao
hơn
 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu (hệ số lãi ròng)
Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế và doanh thu trong kì.
Công thức tính như sau:
ROS =
NI
D
Trong đó:
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
12
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
ROS : tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu (hệ số lãi ròng)
NI : Lợi nhuận sau thuế trong kỳ.
D

: Doanh thu trong kỳ.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết cứ
một đồng doanh thu bán hàng thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu

này cao so với tiêu chuẩn của ngành chứng tỏ doanh nghiệp kinh doanh có
hiệu quả. Công thức trên cũng cho thấy để tăng được lợi nhuận doanh thu một
mặt phải tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, mặt khác phải đảm bảo chất
lượng sản phẩm tiêu thụ, hạ giá thành sản phẩm, từ đó tăng được lợi nhuận
tuyệt đối. Nếu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận nhanh hơn tốc độ tăng doanh
thu thì tỷ suất lợi nhuận doanh thu sẽ tăng lên.
 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh (ROA)
Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế và vốn kinh doanh bình quân
sử dụng trong kì.
Công thức tính như sau:’
ROA =
NI
VKD
bq
Trong đó:
ROA : Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn kinh doanh.
EBT : Lợi nhuận trước thuế trong kỳ.
VKD
bq
: Vốn kinh doanh (tài sản) bình quân sử dụng trong
kỳ. (được tính tương tự như trên)
Chỉ tiêu này thể hiện mỗi đồng vốn kinh doanh trong kỳ có khả năng
sinh lời ra bao nhiều đồng lợi nhuận sau khi đã trang trải lãi tiền vay và nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp.
 Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE)
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
13
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế và vốn chủ sở hữu bình quân
trong kỳ.

Công thức được xác định như sau:
ROE =
NI
VCSH
bq
Trong đó:
ROE: Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
NI: Lợi nhuận sau thuế trong kỳ.
VCSH
bq
: Vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ.
Vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ được xác định bằng bình quân số
học giữa vốn chủ sở hữu đầu kỳ và vốn chủ sở hữu cuối kỳ.
Chỉ tiêu này thể hiện mức mức lợi nhuận thu được trên mỗi đồng vốn
của vốn chủ sở hữu trong kỳ. Đây là một chỉ tiêu mà các nhà đầu tư rất quan
tâm. Vì nó thể hiện mức sinh lời trên mỗi đồng vốn của họ, nếu công ty có
ROE cao thì sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn, từ đó khâu huy động vốn
cho sản xuất kinh doanh sẽ dễ dàng hơn, khi có vốn thì công ty có thể sử dụng
để tạo ra thêm nhiều lợi nhuận hơn.
Có thể nói việc sử dụng kết hợp cả hai loại chỉ tiêu lợi nhuận nói trên
(lợi nhuận tuyệt đối và lợi nhuận tương đối) giúp cho nhà quản lý doanh
nghiệp có thể đánh giá một cách chính xác, toàn diện tình hình và kết quả
kinh doanh. Từ đó đề ra được phương hướng sản xuất, nâng cao lợi nhuận
như mức doanh lợi.
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận và các biện pháp chủ yếu
để tăng lợi nhuận trong các doanh nghiệp hiện nay.
1.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận
Nội dung lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm 2 bộ phận là lợi nhuận
từ hoạt động kinh doanh và lợi nhuận từ hoạt động khác. Trong đó, lợi nhuận
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02

14
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
tiêu thụ sản phẩm là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lợi nhuận của
doanh nghiệp. Bộ phận lợi nhuận này phản ánh kết quả của cả một quá trình
sản xuất từ khâu nghiên cứu thị trường, lập kế hoạch sản xuất, thu mua vât
liệu, tiến hành sản xuất đến khâu tiêu thụ hàng hóa và thu tiền. Do đó nó chịu
ảnh hưởng của hầu hết các nhân tố trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Vì vậy, khi nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận, ta đi sâu
vào nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm.
1.2.1.1. Khối lượng sản phẩm hàng hóa tiêu thụ.
Khối lượng sản phẩm tiêu thụ ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu
thụ sản phẩm và cũng ảnh hưởng tới lợi nhuận tiêu thụ. Vì:
Tổng lợi nhuận tiêu thụ =
1
*
n
Si Pi

Trong đó:
S
i
: Khối lượng tiêu thụ sản phẩm i
P
i
: Lợi nhuận đơn vị sản phẩm i
n : số loại sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
Nếu lợi nhuận đơn vị sản phẩm là số dương mà các nhân tố khác không
biến động thì khối lượng sản phẩm tăng lên bao nhiêu lần làm cho lợi nhuận
tăng bấy nhiêu lần. Nếu doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có giá bán thấp
hơn giá thành làm cho lợi nhuận là số âm thì việc bán càng nhiều sản phẩm

càng làm cho doanh nghiệp lỗ hơn. Vì vậy, cùng với việc nâng cao lợi nhuận
đơn vị sản phẩm, nếu doanh nâng cao số lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ làm tăng
lợi nhuận. Tuy nhiên, khối lượng sản phẩm tiêu thụ còn phụ thuộc vào khả
năng sản xuất của doanh nghiệp, quan hệ cung cầu trên thị trường…
1.2.1.2. Chất lượng sản phẩm tiêu thụ
Chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy Công
tác tiêu thụ sản phẩm trong cơ chế hiện nay của doanh nghiệp. Trong nền kinh
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
15
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
tế thị trường, chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh sắc bén có thể mang
tính chất quyết định thắng lợi trước các đối thủ khác. Chất lượng sản phẩm
tiêu thụ phụ thuộc rất nhiều vào trình độ khao học kỹ thuật Công nghệ. Nếu
chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp cao thì sẽ được thị trường chấp nhận
với khối lượng lớn, sản phẩm tiêu thụ nhanh làm tăng doanh thu, tăng lợi
nhuận (nếu giá bán cao hơn giá thành). Điều quan trọng nhất trong kinh
doanh mà doanh nghiệp đạt được là uy tín với khách hàng. Chính điều này sẽ
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong những bước phát triển tiếp theo.
1.2.1.3. Giá bán đơn vị sản phẩm
Giá bán đơn vị sản phẩm cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới quá trình
tiêu thụ sản phẩm. Về nguyên lý, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng
hóa và giá cả xoay xung quanh giá trị hàng hóa. Trong cơ chế thị trường hiện
nay, giá cả được hình thành tự phát trên thị trường theo sự thỏa thuận giữa
người mua và người bán, do đó, doanh nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng giá cả
như một Công cụ sắc bén đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Nếu doanh nghiệp đưa
ra một mức giá cả phù hợp với chất lượng được đông đảo người tiêu dùng
chấp nhận, doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong việc tiêu thụ sản phẩm của
mình. Ngược lại, nếu định giá quá cao người tiêu dùng không chấp nhận thì
sản phẩm của doanh nghiệp sẽ bị ứ đọng, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh
doanh.

1.2.1.4. Kết cấu sản phẩm tiêu thụ
Trong điều kiện kinh tế thị trường, để kinh doanh tránh được rủi ro thì
doanh nghiệp phải đầu tư, sản xuất nhiều mặt hàng cùng một lúc để mặt hàng
này có thể hỗ trợ mặt hàng kia trong điều kiện khó khăn về thị trường tiêu thụ.
Mỗi loại sản phẩm có lợi nhuận đơn vị cao, giảm mặt hàng có lợi nhuận đơn
vị thấp sẽ làm cho tổng lợi nhuận tăng lên mặc dù khối lượng sản phẩm tiêu
thụ không đổi.
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
16
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
Việc thay đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ thường do biến động của nhu
cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng. Điều này khẳng định mỗi doanh
nghiệp cần phải bám sát thị trường để định hướng cho mình một kết cấu sản
phẩm hợp lý. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải tìm tòi nghiên cứu ra sản
phẩm mới ưu việt hơn, thay thế những sản phẩm đã lỗi thời lạc hậu, có như
vậy mới có thể duy trì và nâng cao chất lượng của sản phẩm tiêu thụ.
1.2.1.5. Giá thành sản phẩm tiêu thụ
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh
nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định.
Ta có:
Lợi nhuận đơn
vị sản phẩm
= giá bán đơn vị - Giá thành đơn vị
Tổng lợi nhuận = lợi nhuận đơn vị * khối lượng tiêu thụ
Trong cơ chế thị trường, việc tăng giá bán đơn vị sản phẩm là rất khó
khăn. Qua Công thức trên ta thấy, nếu khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ
không đổi thì việc hạ giá thành sẽ làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng
lên. Khi giá thành đơn vị của doanh nghiệp hạ hơn so với các đơn vị khác
trong khi giá bán trên thị trường tương đương nhau thì tỷ suất lợi nhuận của
doanh nghiệp sẽ cao hơn các doanh nghiệp khác. Nếu như Công tác hạ giá

thành làm tốt, doanh nghiệp còn có thể hạ thấp giá bán nhằm thu hút khách
hàng, tăng khối lượng sản phẩm bán ra, tăng lợi nhuận. Tuy nhiên việc hạ giá
thành lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: kỹ thuật sản xuất, Công nghệ sử
dụng, trình độ tổ chức quản lý sản xuất, nguyên vật liệu sử dụng, trình độ tay
nghề Công nhân, tiết kiệm chi phí tiêu thụ sản phẩm.
1.2.1.6. Công tác tổ chức bán hàng
Công tác tổ chức bán hàng của doanh nghiệp cũng là một nhân tố quan
trọng thúc đẩy quá trình tiêu thụ. Một doanh nghiệp áp dụng nhiều hình thức
bán hàng như bán buôn, bán lẻ, bán tại kho, bán tại cửa hàng…điều này sẽ
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
17
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
giúp doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn doanh nghiệp chỉ áp
dụng một hình thức bán hàng. Bên cạnh đó, việc tổ chức các dịch vụ vận
chuyển, lắp ráp, bảo hành…cũng sẽ khiến khách hàng yên tâm hơn khi tiêu
dùng sản phẩm của doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc tăng khối lượng sản
phẩm tiêu thụ.
Trong Công tác tổ chức bán hàng, Công việc quảng cáo không thể xem
nhẹ. Thông qua quảng cáo giới thiệu sản phẩm sẽ đem đến cho khách hàng
những thông tin cô đọng, đặc trưng nhất về sản phẩm. Nhờ đó không những
đưa thông tin về sản phẩm của doanh nghiệp tới cho người tiêu dùng mà còn
giúp khách hàng có thể so sánh, lựa chọn khi mua sản phẩm. Nếu là sản phâm
mới, quản cáo sẽ khơi dậy cho khách hàng những nhu cầu mới, qua đó thu hút
khách hàng mở rộng sản phẩm thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp.
1.2.1.7. Tổ chức công tác thanh toán
Thanh toán cũng là một nhân tố quan trọng tác động đến quá trình tiêu
thụ sản phẩm. Một doanh nghiệp tổ chức Công tác thanh toán tốt, từ việc quy
định các điều kiện ưu đãi đối với khách hàng quen thuộc, thanh toán nhanh,
mua khối lượng lớn, các hình thức phạt do vi phạm kỷ luật thanh toán trong
quá trình ký kết hợp đồng, áp dụng các hình thức thanh toán linh hoạt như

thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán bằng sec, chuyển khoản…đến việc đôn
đốc thu hồi Công nợ sẽ góp phần tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, tăng tốc
độ luân chuyển vốn, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận trong quá
trình kinh doanh. Doanh nghiệp cần nghiên cứu đầy đủ các nhân tố này và
nắm được mức độ ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của chúng. Từ đó, doanh
nghiệp chủ động đề ra các biện pháp tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả,
tăng doanh thu và tăng lợi nhuận.
1.2.2. Một số biện pháp chủ yếu để tăng lợi nhuận trong các doanh
nghiệp hiện nay
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
18
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
1.2.2.1. Tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm:
Sản xuất và tiêu thụ là hai quá trình không thể tách rời nhau, vì vậy sản
xuất ra nhiều sản phẩm có chất lượng tốt và đẩy mạnh Công tác tiêu thụ sẽ
tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Chúng ta đã biết, Công thức xác định lợi
nhuận tiêu thụ là:
Lợi nhuận
tiêu thụ
trong kỳ
=
Doanh thu
bán hàng
trong kỳ
-
Giá thành
tiêu thụ hàng
hóa trong kỳ
-

Thuế gián
thu trong kỳ
Doanh thu tiêu thụ được xác định theo Công thức:
D =
1
*
n
Si gi

Trong đó:
D: Doanh thu tiêu thụ trong kỳ.
S
i
: Khối lượng sản phẩm i tiêu thụ trong kỳ.
g
i
: giá bán đơn vị sản phẩm i tiêu thụ trong kỳ.
n : số loại sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
Qua Công thức trên ta thấy doanh thu bán hàng phụ thuộc vào số
lượng, giá bán, kết cấu mặt hàng tiêu thụ. Nếu như giá thành tiêu thụ sản
phẩm không đổi thì doanh nghiệp phải phấn đấu tăng doanh thu bằng cách sử
dụng các biện pháp tích cực để tác động đến các nhân tố ảnh hưởng đến
doanh thu. Cụ thể là:
 Tăng số lượng sản phẩm sản xuất
Việc tăng số lượng sản phẩm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Để tăng số
lượng sản phẩm sản xuất doanh nghiệp phải tìm các biện pháp tổ chức lao
động hợp lý hơn, bố trí hệ thông máy móc thiết bị phù hợp để phát huy năng
lực nguồn lao động cũng như tận dụng năng lực của máy móc thiết bị để làm
tăng năng suất lao động. Nghĩa là, với một đơn vị thời gian như trước thì
doanh nghiệp sản xuất ra nhiều hàng hóa hơn. Doanh nghiệp cũng phải đầu tư

Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
19
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
theo chiều rộng nhự mua sắm thêm máy móc, tuyển thêm lao động và đầu tư
theo chiều sâu như hiện đại hóa, cải tiến máy móc, áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật, đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân để tăng số lượng
sản phẩm sản xuất.
Tuy nhiên, việc tăng số lượng sản phẩm sản xuất cũng dừng lại ở mức
độ giới hạn của doanh nghiệp về quy mô sản xuất, trình độ tổ chức quản lý và
nhu cầu thị trường. Doanh nghiệp phải có chính sách mở rộng sản xuất, tăng
số lượng sản phẩm phù hợp với điều kiện kinh doanh của mình về vốn, nhân
lực, trình độ công nghệ cũng như phải phù hợp với nhu cầu tiêu thụ sản phâm
trên thị trường.
 Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm tạo uy tín đối với
khách hàng:
Với số lượng sản phẩm không đổi, nếu doanh nghiệp sản xuất hàng hóa
với chất lượng cao thì sẽ được thị trường chấp nhận với khối lượng lớn và giá
cả cao hơn sản phẩm cùng loại. Nhờ đó mà doanh thu được tăng lên. Muốn
vậy, doanh nghiệp phải đầu tư máy móc thiết bị hiện đại, tổ chức công tác thu
mua, bảo quản nguyên liệu theo đúng yêu cầu, áp dụng các thành tựu khoa
học.
 Thực hiện đa dạng hóa sản phẩm:
Kinh tế thị trường tạo nên sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp.
Để tạo lợi thế trong cạnh tranh, các doanh nghiệp phải nghiên cứu tìm hiểu thị
hiếu của khách hàng. Trong mỗi thời kỳ, khả năng tiêu thụ và thị hiếu của
khách hàng không giống nhau. Hơn nữa, khách hàng cũng có thể phân loại
theo địa phương, theo khả năng tiêu thụ… Do đó, để tăng thị phần, tăng khối
lượng sản phẩm tiêu thụ, doanh nghiệp phải không ngừng nghiên cứu, sản
xuất những sản phẩm mới có tính năng sử dụng, mẫu mã ưu việt hơn cũng
như đa dạng hơn trong việc sản xuất các loại sản phẩm phù hợp với khả năng

của doanh nghiệp.
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
20
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
 Đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm:
Mỗi loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trường đều do nhiều doanh nghiệp
cung cấp (trừ sản phẩm độc quyền). Để đẩy mạnh quá trình tiêu thụ sản phẩm,
doanh nghiệp cần phải tìm cách tiếp cận thị trường, đưa sản phẩm đến với
người tiêu dùng. Để làm tốt công tác này, doanh nghiệp cần phải thực hiện
các công việc sau đây:
 Chú trọng việc quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp:
Do sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong việc sản xuất và tiêu thụ sản
phảm cùng một mặt hàng nên công tác quảng cáo rất quan trọng. Theo kinh
nghiệm của một số hãng kinh doanh nổi tiếng trên thế giới thì chi phí quảng
cáo có thể chiếm tới 10% doanh thu bán hàng nhưng lợi ích mà nó mang lại
vô cùng to lớn. Doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác này qua việc quản cáo
trên các thông tin đại chúng, tham gia các triển lãm, tổ chức hội nghị khách
hàng…
 Thực hiện bảo hành sản phẩm: Đây là biện pháp tích cực bảo vệ
uy tín về chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp, tạo niềm tin đối với khách
hàng. Thông qua thời gian bảo hành, những sản phẩm cam kết chấp nhận
trách nhiệm về doanh nghiệp nếu sản phẩm đưa ra tiêu thụ có sai sót sẽ tạo
tâm lý yên tâm cho khách hàng khi tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
 Tăng cường mở rộng các đại lý: Đại lý là đại diện cho doanh
nghiệp tiếp xúc với người tiêu dùng qua quá trình giới thiệu và bán sản phẩm.
Mạng lưới đại lý của doanh nghiệp càng rộng khắp, hợp lý thì sản phẩm sẽ
được phân phối rộng, từ đó đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ. Sử dụng mạng lưới đại
lý doanh nghiệp phải trả một khoản hoa hồng phí. Nhưng bù lại, doanh nghiệp
có thể tập trung các nguồn lực như vốn, cơ sở hạ tầng, lao động nhằm nâng
cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, thông qua hệ thống đại

lý đó doan nghiệp nhanh chóng, kịp thời tiếp thu ý kiến của khách hàng để rút
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
21
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
kinh nghiệp cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm để đáp ứng thị hiếu người
tiêu dùng.
1.2.2.2. Hạ thấp giá thành sản phẩm
Hạ thấp giá thành sản phẩm là biện pháp cơ bản và lâu dài đối với mọi
doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, giá bán
sản phẩm của doanh nghiệp được hình thành trên thị trường bởi quan hệ cung
cầu và chất lượng sản phẩm. Nếu giá thành sản phẩm càng thấp so với giá bán
thì doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm càng cao
làm tổng lợi nhuận tăng lên. Mặt khác, khi giá thành sản phẩm thấp, doanh
nghiệp có thể hạ giá bán để có thể cạnh tranh. Hạ thấp giá thành còn giúp
doanh nghiệp giảm bớt lượng vốn lưu động vào sản xuất vì cùng với điều kiện
sản xuất như cũ, doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được một lượng vốn nguyên vật
liệu, nhân công. Từ đó, doanh nghiệp có thể mở rộng qui mô sản xuất với số
vốn tiết kiệm đó. Với ý nghĩa đó các doanh nghiệp cần thực hiện các biện
pháp phấn đấu hạ thấp giá thành. Cụ thể là:
 Đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng thành tựu khoa học kỹ
thuật và vào sản xuất:
Trong điều kiện hiện nay, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật vừa là nguy cơ
cũng là cơ hội đối với sự phát triển của mỗi doanh nghiệp. Để có thể chiến
thắng trong điều kiện cạnh tranh, để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp nhất
thiết phải đầu tư mua sắm máy móc thiết bị hiện đại, áp dụng tiến bọ khoa học
kỹ thuật. Nhờ đó doanh nghiệp có thể giảm chi phí nguyên vật liệu, chi phí
nhân công nhằm nâng cao năng suất lao động, làm cho giá thành sản phẩm hạ
thấp.
 Tổ chức sử dụng lao động một cách hợp lý:
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02

22
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
Việc tổ chức lao động khoa học tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất
một cách hợp lý, loại bỏ được tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ
máy…có tác dụng rất lớn trong việc tăng năng suất lao động và hạ giá thành
sản phẩm. Hơn nữa, để tăng năng suất lao động không thể thiếu quá trình đào
tạo, bồi dưỡng tay nghề, nâng cao nghiệp vụ cho công nhân, kết hợp với việc
động viên khuyến khích người lao động công hiến sứ lực, tài năng cho doanh
nghiệp bằng các đòn bẩy kinh tế như tiền lương, tiền thưởng, các chính sách
trợ cấp, đãi ngộ khác. Đây là yếu tố để doanh nghiệp tăng lợi nhuận lâu dài.
Điều quan trọng là doanh nghiệp đã phát huy được yếu tố con người, một
nhân tố quan trọng hàng đầu trong quá trình sản xuất.
 Tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu:
Thông thường chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong
toàn bộ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của mỗi doanh nghiệp. Do vậy
việc phấn đấu giảm chi phi nguyên vật liệu có ý nghĩa rất lớn đối với việc hạ
giá thành giản phẩm. Để thực hiện được điều này, doanh nghiệp có thể thực
hiện các biện pháp:
 Kết hợp chặt chẽ giữa kế hoạch sản xuất với việc cung ứng
nguyên vật liệu. Doanh nghiệp cần căn cứ vào kế hoạch sản xuất để có kế
hoạch thu mua, dự trữ hợp lý cả về số lượng, chủng loại, chất lượng để đảm
bảo cho quá trình sản xuất được liên tục.
 Làm tốt công tác quản lý và sử dụng vật liệu: Quản lý chặt chẽ từ
khao thu mua, vận chuyển, bảo quản đến khi đưa vào sản xuất, cung ứng
nguyên vật liệu phù hợp với yêu cầu sản xuất.Doanh nghiệp cần xây dựng và
kiểm tra định mức tiêu hao nguyên vật liệu đối với từng loại sản phẩm. Bên
cạnh đó, doanh nghiệp đẩy mạnh công tác nghiên cứu áp dụng Công nghệ
mới sử dụng vật liệu thay thế, vật liệu trong nước chất lượng tốt giá thành hợp
lý để thay thế vật liệu nhập ngoại.
1.2.2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh:

Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
23
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
Vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể chia thành hai bộ
phận là: vốn cố định và vốn lưu động. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh, tăng lợi nhuận cũng như tăng doanh lợi từng loại vốn, doanh nghiệp
cần thực hiện các biện pháp sau:
a. Nâng cao hiệu quả sự dụng vốn lưu động:
Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài các tư liệu lao động, các doanh
nghiệp còn cần có các đối tượng lao động (như nguyên vật liệu, bán thành
phẩm…) chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái
vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ, một lần vào giá trị
sản phẩm. Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật
được gọi là các tài sản lưu động, còn về hình thái giá trị được gọi là vốn lưu
động của doanh nghiệp. Vì vậy, cũng có thể nói vốn lưu động là số vốn tiền tệ
ứng trước để đầu tư, mua sắm tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Sử dụng có hiệu quả vốn lưu động tức là tăng số vòng quay (số lần lưu
chuyển) trong kỳ, rút ngắn số ngày luân chuyển của một vòng quay. Muốn
vậy, doanh nghiệp phải tiến hành các biện pháp:
 Giảm đến mức thấp nhất vốn lưu động để có được doanh thu với
mức luân chuyển như cũ. Do đó có thể rút ra khỏi luân chuyển một lượng vốn
lưu động không cần thiết để sử dụng, mở rộng sản xuất.
 Với số vốn lưu động không đổi, phấn đấu tăng doanh thu làm
mức luân chuyển tăng lên. Doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp tăng
doanh thu như hạ giá thành, đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm để hạn chế
đến mức thấp nhất vốn nằm trong khâu dự trữ và khâu lưu thông, do số vốn
này không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất. Tuy nhiên, doanh nghiệp
phải cân đối số vốn này ở các khâu một cách hợp lý, phù hợp với kế hoạch
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nhằm tránh tình trạng ngừng sản xuất do thiếu
vật tư hoặc nhiều vốn nhàn rỗi không sử dụng hết làm giá thành sản phẩm

tăng, lợi nhuận giảm.
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
24
Luận văn cuối khóa Học Viện Tài Chính
b. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước
về tài sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong
nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định
hết thời gian sử dụng.
Muốn sử dụng hiệu quả vốn cố định, nâng cao lợi nhuận, doanh nghiệp
cần thực hiện các biện pháp sau:
 Tăng cường quản lý và sử dụng triệt để máy móc thiết bị vào sản
xuất. Trong thực tế hiện nay, nhiều doanh nghiệp chưa sử dụng hết công suất
thiết kế của máy móc gây lãng phí. Đẩy mạnh công suất, năng lực của máy
móc thiết bị sẽ mở ra khả năng tăng doanh thu cho doanh nghiệp. Sản lượng
tăng lên sẽ làm chi phí khấu hao trên một đơn vị sản phẩm giảm, từ đó hạ giá
thành, tăng lợi nhuận.
 Điều chỉnh quy mô vốn cố định phù hợp với qui mô và điều kiện
sản xuất của doanh nghiệp. Tránh tình trạng máy móc sử dụng quá tải, nhà
xưởng chật hẹp cũng như máy móc không sử dụng hết công suất, nhà xưởng
để không.
 Áp dụng các biện pháp thưởng phạt đối với người lao động trong
việc sử dụng và bảo quản tài sản cố định, nâng cao tay nghề công nhân sử
dụng máy, giáo dục tinh thần trách nhiệm cho người lao động. Từ đó, nâng
cao tuổi thọ của máy móc, tiết kiệm chi phí bảo dưỡng, sửa chữa, nâng cao
năng suất máy móc thiết bị, tăng sản lượng.
 Đầu tư thêm vốn, đảm bảo cơ cấu hợp lý nhằm mở rộng qui mô
sản xuất sản phẩm, tăng doanh thu tiêu thụ với yêu cầu tốc độ tăng doanh lợi
phải lớn hơn tốc độ tăng của vốn.
 Chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh

doanh để hạn chế tổn thất vốn cố định do các nguyên nhân khách quan như
Nguyễn Quang Vinh CQ 45/11.02
25

×