Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

đánh giá tình hình thực hiện các công cụ kinh tế trong quản lý nhà nước về môi trường theo luật bảo vệ môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.86 KB, 71 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BPP Người hưởng thụ phải trả tiền
PPP Người gây ô nhiễm phải trả tiền
CAC Mệnh lệnh và kiểm soát
CCKT Công cụ kinh tế
BVMT Bảo vệ môi trường
QLMT Quản lý môi trường
DN Doang nghiệp
QH Quốc hội
VPHC Vi phạm hành chính
CN Công nghiệp
NSNN Ngân sách nhà nước
UBND Ủy ban nhân dân
BTC Bộ tài chính
TM – DV Thương mại – dịch vụ
NN Nông nghiệp
TNMT Tài nguyên môi trường
KT – XH Kinh tế - xã hội
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
SXCN Sản xuất công nghiệp
QCVN Quy chuẩn việt nam
TCVN Tiêu chuẩn việt nam
TP Thành phố


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp……………………………… 38
Bảng 3.2. Khối lượng rác thải phát sinh năm 2013………………………… 47
Bảng 3.3. Thực trạng nộp phí thu gom rác thải sinh hoạt………………… 48
Bảng 3.4. Thống kê số hộ gia đình thực hiện nộp phí thu gom rác thải sinh
hoạt …………………………………………………………………………. 49


Bảng 3.5. Kết quả điều tra về hiện trạng thu gom rác thải của các hộ …… 50
Bảng 3.6. Thống kê nguồn lực phục vụ công tác thu gom rác thải trên địa bàn
thành phố Thái Nguyên …………………………………………………… 50
Bảng 3.7. Thực trạng nộp phí trong hoạt động BVMT của các doanh nghiệp
(công ty)……………………………………………………………………. 51
Bảng 3.8. Tiền thu phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt……………… 54
Bảng 3.9. Tiền thu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp…………… 56
Bảng 3.10. Cấp vốn bổ sung hàng năm…………………………………… 57
Bảng 3.11. Quyết định xử phạt đối với 10 đơn vị tại Thái Nguyên năm
2013………………………………………………………………………… 58
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………… 2
1. Lời nói đầu……………………………………………………………. 2
2. Mục tiêu nghiên cứu………………………………………………… 3
3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………… 3
Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU……………………………… 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài ………………………………………… 4
1.1.1.Cơ sở pháp lý ………………………………………………… 4
1.1.2. Cơ sở thực tiễn ………………………………………………… 5
1.2. Khái niệm về công cụ kinh tế ………………………………………… 6
1.2.1. Một số đặc trưng cơ bản của công cụ kinh tế…………… 7
1.2.2. Sự cần thiết của các công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường
………………………………………………………………………………. 9
1.3. Vai trò của CCKT trong quản lý và bảo vệ môi trường……………… 10
1.4. Các nguyên tắc cơ bản trong việc sử dụng các CCKT……………… 12
1.4.1. Nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” PPP…… 12
1.4.2. Nguyên tắc “Người hưởng thụ phải trả tiền” BPP………………… 13
1.5. Thực trạng áp dụng các CCKT trong quản lý môi trường trên thế giới và
kinh nghiệm áp dụng thực tiễn ở việt nam ………………………………… 14
1.6. Các loại CCKT trong QLMT …………………… 18

1.6.1. Thuế tài nguyên …………………………………………………… 18
1.6.2. Thuế môi trường…………………………………………………… 19
1.6.3. Phí và lệ phí………………………………………………………… 20
1.6.4. Ký quỹ bảo vệ môi trường…………………………………………. 23
1.6.5. Trợ cấp môi trường………………………………………………… 24
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU ……………………………………………………………………… 25
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu …………………………………… 25
2.2. Địa điểm và thời gian tiến hành ……………………………………… 25
2.3 Nội dung nghiên cứu ………………………………………………… 25
2.4. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………… 25
2.4.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp ………………………………. 25
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp ……………………………… 26
Chương 3: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC …………………………………… 27
3.1. Điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội của thành phố Thái Nguyên …… 27
3.1.1. Điều kiện tự nhiên …………………………………… 27
3.1.1.1. Vị trí địa lý ……………………………………………………… 27
3.1.1.2. Địa hình địa mạo …………………………………………………. 28
3.1.1.3. Khí hậu …………………………………………………………… 28
3.1.1.4. Thủy văn ……………………………………………………… 29
3.1.1.5. Các nguồn tài nguyên………………………………………… 30
3.1.1.6. Thực trạng môi trường ………………………………………… 31
3.1.2. Thực trạng phát triển kinh tế, xã hội …………………… 32
3.1.2.1. Tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ……… 32
3.1.2.2. Kết quả thực hiện trên từng lĩnh vực cụ thể …………… 34
3.1.2.3. Dân số, lao động, việc làm và thu nhập ………………. 43
3.2.Thực trạng áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường trên địa
bàn thành phố Thái Nguyên …………………………………………… 44
3.2.1. Thuế môi trường ………………………………………………… 44
3.2.2. Các loại phí ……………………………………………………… 45

3.2.2.1. Phí khai thác khoáng sản ……………………………………… 45
3.2.2.2. Phí bảo vệ môi trường đối với rác thải ……………………… 46
3.2.2.3. Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải …………………… 51
3.2.3. Quỹ môi trường Thái Nguyên …………………………………… 55
Chương 4. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
…………………………………………………………………………… 59
4.1. Giải pháp về thể chế chính sách ………………………………… 59
4.1.1. Các giải pháp chung ……………………………………………. 59
4.1.2. Các biện pháp cụ thể …………………………………… 60
4.2. Giải pháp giáo dục và truyền thông ……………………………… 61
KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ ………………………………………… 62
MỞ ĐẦU
1. Lời nói đầu
Môi trường sinh thái đang là mối quan tâm bức xúc của nhân loại và trở thành
thách thức đối với toàn cầu. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh
tế toàn cầu là quá trình suy thoái môi trường đang diễn ra ngày càng sâu sắc,
tạo ra cho loài người những thách thức trong việc kiểm soát ô nhiễm môi
trường.
Tăng trưởng kinh tế mà hy sinh môi trường hay đầu tư để bảo vệ môi trường
mà bỏ qua tăng trưởng kinh tế, đây là hai quan điểm phát triển đối lập nhau.
Cả hai mô hình này đều tồn tại những hạn chế rất lớn và không thể đạt được
mục tiêu phát triển bền vững. Vì vậy để phát triển bền vững cần đồng thời
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Một câu hỏi đặt ra cho các nhà quản
lý môi trường là cần tiến hành quản lý môi trường như thế nào để đảm bảo
kinh tế vẫn tăng trưởng cao.
Công cụ kinh tế, công cụ mệnh lệnh kiểm soát và các biện pháp giáo dục môi
trường nằm trong hệ thống công cụ của quản lý môi trường. Trên thế giới
cùng với các công cụ mang tính mệnh lệnh, bắt buộc thì các công cụ kinh tế

cũng đã được áp dụng một các rộng rãi, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế
thị trường.
Việt nam hiện nay đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, do đó phải đối mặt
với những thách thức lớn về bảo vệ môi trường. Quá trình đô thị hóa diễn ra
mạnh mẽ kéo theo đó là những tồn tại về môi trường. Các chất thải ngày càng
tăng lên cả về khối lượng và mức độ nguy hại. Tình trạng này ở các thành phố
lại càng đáng báo động. Nồng độ các chất độc hại có trong đất, nước, không
khí vượt quá tiêu chuẩn cho phép gây ảnh hưởng tới sức khỏe người dân.
Thành phố Thái Nguyên với vị thế là trung tâm của sự phát triển của tỉnh cũng
không tránh được những hệ quả về suy thoái môi trường do các hoạt động
sinh sống, hoạt động sản xuất công nghiệp Do đó cần thiết phải tiến hành
quản lý môi trường bằng các biện pháp kinh tế, bởi các công cụ kinh tế tiếp
cận môi trường một cách linh hoạt, hiệu quả và kinh tế, nó cho phép các
doanh nghiệp lựa chọn phương án tối ưu đáp ứng các yêu cầu về môi trường.
Hiện tại, thành phố Thái Nguyên đã bước đầu áp dụng các công cụ kinh tế và
thu được những kết quả nhất định. Để đánh giá công tác áp dụng các biện
pháp kinh tế vào trong quản lý môi trường nên em đã lựa chọn đề tài “Đánh
giá tình hình thực hiện các công cụ kinh tế trong quản lý nhà nước về môi
trường theo luật bảo vệ môi trường năm 2005 tại thành phố Thái Nguyên –
tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Phân tích thực trạng áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi
trường vào thực tế, cụ thể trên địa bàn thành phố Thái Nguyên.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng công cụ
kinh tế trong quản lý môi trường.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: áp dụng các công cụ kinh tế trong công tác
quản lý môi trường. Đời sống kinh tế của các hộ dân tại thành phố Thái
Nguyên.
- Phạm vi nghiên cứu: địa bàn thành phố Thái Nguyên.

- Thời gian nghiên cứu: số liệu thống kê năm 2013.
CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở pháp lý
Các công cụ kinh tế được quy định rộng rãi ở hầu hết các văn bản pháp quy
chính điều này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các công cụ kinh tế
trong quản lý và bảo vệ môi trường ở nước ta. Cụ thể:
- Luật bảo vệ môi trường năm 2005: Ngày 29/11/2005, Quốc hội nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam khóa XI kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật
bảo vệ môi trường và Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm
2006.
- Nghị định số 25/NĐ-CP ngày 29/03/2013 về phí bảo vệ môi trường
đối với nước thải.
- Nghị định số 26/CP ngày 26/4/1996 quy định xử phạt vi phạm hành
chính về bảo vệ môi trường.
- Quyết định số 82/2002-QĐ/TTg về việc thành lập, tổ chức và hoạt
động của quỹ bảo vệ môi trường.
- Nghị định 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 về việc xử lý vi phạm
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Nghị quyết 41/NQ-TU của Bộ chính trị về bảo vệ môi trường trong
thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
- Nghị định 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 hướng dẫn thực hiện Luật
bảo vệ môi trường và Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 8 năm 2006
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Thông tư số 48/TT-TCT của Bộ Tài Chính hướng dẫn thi hành Quyết
định số 276-CT ngày 28/7/1992 của chủ tịch hội đồng Bộ trưởng về việc
thống nhất quản lý các loại phí và lệ phí.
- Thông tư số 46 TC/TCT của Bộ tài chính về hướng dẫn chế độ quản
lý thu phí, lệ phí ở phường, xã.

- Chiến lược bảo vệ môi trường Quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020.
- Tiêu chuẩn việt nam TCVN 5502:2003 nước cấp sinh hoạt- yêu cầu
chất lượng.
- Căn cứ Luật Tài nguyên nước số 17/2012/QH13 được Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 21/6/2012.
- Căn cứ Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 20/8/2013 về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Căn cứ Quyết định sô 13/QĐ-XPHC ngày 18/4/2013 về xử phạt vi
phạm hành chính trong BVMT.
- Căn cứ quyết định số 14/QĐ-XPHC ngày 25/4/2013 về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Căn cứ quyết định số 04/QĐ- VPHC ngày 25/01/2013 và Quyết định
số 35/QĐ –VPHC ngày 30/6/2013 về xử phạt vi phậm hành chính trong bảo
vệ môi trường.
- QCVN 24:2009/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải
công nghiệp.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Việt Nam
phải giải quyết cùng một lúc hai vấn đề: nhằm đạt được mục tiêu phát triển
bền vững là kiểm soát được mức độ ô nhiễm ngày càng tăng do công nghiệp
hóa và đô thị hóa, đồng thời phải có được những chính sách giảm tối đa chi
phí cho bảo vệ môi trường cả từ phía doanh nghiệp lẫn Nhà nước trên cơ sở
công bằng xã hội. Để đáp ứng được các yêu cầu đó thì việc tìm kiếm các biện
pháp cũng như công cụ kinh tế cần áp dụng là cần thiết. Thực tế nghiên cứu
và áp dụng cho thấy một số công cụ có thể tạo ra rất hữu hiệu trong việc đảm
bảo được mục tiêu bảo vệ môi trường nhưng lại gây nhiều tốn kém cho doanh
nghiệp, ngược lại một số công cụ khác có thể giảm được chi phí nhưng chưa
chắc đã đảm bảo được tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường đã đặt ra. Một số công
cụ có thể có hiệu quả nhưng lại phụ thuộc quá nhiều vào khả năng của các cơ

quan quản lý môi trường trong việc kiểm soát và cưỡng chế thực hiện. Ví dụ
như việc áp dụng phí môi trường đối với nhiều nước nói chung và Việt Nam
nói riêng là rất có hiệu quả nhưng nó đòi hỏi ở sự kỹ thuật, khoa học trong
việc xác định mức phí môi trường, vấn đề thực thi pháp luật và khả năng tổ
chức, quản lý của các cơ quan có thẩm quyền. Thực tiễn cũng cho thấy một số
loại công cụ khi áp dụng có thể dễ dàng thực hiện được nhưng lại cho hiệu
quả không cao.
Trên thực tế ở thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng thì môi trường
không được coi là một yếu tố quan trọng, mà thường coi là yếu tố đương
nhiên. Hơn nữa các nhà kinh doanh cho rằng việc bảo vệ môi trường cũng như
những biện pháp làm giảm khả năng thu lợi nhuận hoặc làm tăng thêm các chi
phí, nói cho cùng việc bảo vệ môi trường sẽ không mang lại hiệu quả kinh tế
cao. Vì những lý do trên mà vấn đề về thực thi pháp luật hiện hành chưa được
thực hiện ở mức độ nhất định. Nhiều doanh nghiệp vẫn làm ngơ hoặc cố tình
lẩn tránh trách nhiệm bảo vệ môi trường. Tuy nhiên với nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước thì nếu tổ chức,
quản lý thật chặt chẽ việc áp dụng các công cụ kinh tế cũng như việc thực thi
pháp luật sẽ ngày càng được bảo đảm và đạt hiệu quả cao.
Thực tiễn ở Việt nam đã áp dụng thành công và có hiệu quả một số
công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường như thuế môi trường, phí
môi trường…(ví dụ Điều 20 Luật khoáng sản – Thuế tài nguyên).
Trong cơ chế thị trường đòi hỏi phải nghiên cứu, xây dựng các công cụ
kinh tế sao cho phù hợp đặc điểm thể chế nền kinh tế.
1. 2. Khái niệm về công cụ kinh tế
1.2.1. Một số đặc trưng cơ bản của công cụ kinh tế
Bàn về công cụ kinh tế các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều định
nghĩa khác nhau. Để làm sáng tỏ đặc trưng cơ bản của công cụ kinh tế, có
một số định nghĩa như sau:
Công cụ kinh tế là những công cụ chính sách nhằm thay đổi chi phí và
lợi ích của những hành động của hoạt động kinh tế thường xuyên tác động

tới môi trường, tăng cường ý thức trách nhiệm trước việc hủy hoại môi
trường.
Công cụ kinh tế sử dụng sức mạnh thị trường để ra các quyết định nhằm
đạt tới các mục tiêu môi trường, từ đó sẽ có cách ứng xử hiệu quả chi phí
cho BVMT.
Công cụ kinh tế đơn giản là con đường mà Chính phủ có thể thay đổi
hành vi ứng xử của mọi người thông qua việc lựa chọn những phương thức
kinh tế khác nhau hoặc giảm thiểu chi phí trên thị trường nhằm mục tiêu
môi trường.
Công cụ kinh tế là biện pháp cung cấp những tín hiệu thị trường để giúp
cho những người ra quyết định ghi nhận hậu quả môi trường trong việc lựa
chọn của họ.
Trong tất cả các định nghĩa trên ta có thể rút ra hai đặc điểm cơ bản để
làm sáng tỏ thêm nội dung của công cụ kinh tế của phương tiện chính sách:
Công cụ kinh tế hoạt động thông qua giá cả, chúng nâng giá của các
hành động làm tổn hại đến môi trường lên hoặc hạ giá hành động BVMT
xuống.
Công cụ kinh tế dành khả năng lựa chọn cho các công ty và cá nhân
hành động sao cho phù hợp với điều kiện của họ.
Như vậy, công cụ kinh tế tương phản thường xuyên với các quy định “
Mệnh lệnh và kiểm soát” ( CAC ). Đó là hai mặt của phương tiện chính
sách CAC được tiến hành thông qua cơ chế ra lệnh cho các hành động môi
trường hoặc xác đinh những hậu quả môi trường nếu không tuân thủ các
quy chế đã ban hành. Ngược lại, các công cụ kinh tế duy trì một tập hợp
tương đối rộng rãi các hành động môi trường mang tính pháp lý, nhưng có
xác định hậu quả khác nhau đối với những sự lựa chọn khác nhau. Chúng
vẫn cần bắt buộc phục tùng với hậu quả xảy ra.
Ví dụ, có một tiêu chuẩn phát thải nào đó nằm trong một quy định điều
hành và kiểm sát. Quy định pháp lý yêu cầu người gây ô nhiễm phải đáp
ứng tiêu chuẩn phát thải. Nếu những người gây ô nhiễm không tuân thủ

như vậy họ đã phạm luật và buộc phải chịu phạt vi cảnh như phạt tù, đóng
của nhà máy… Ngược lại, một lệ phí phát thải cho phép người gây ô
nhiễm lựa chọn mức độ thải ra trong giới hạn mà các công cụ kinh tế đã
quy định và như thế vẫn không vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, họ có thể
cân nhắc lựa chọn xem nên trả nhiều tiền hơn hoặc ít hơn lệ phí. Khó có
thể biết được họ lựa chọn như thế nào: có trả hay không trả lệ phí. Chỉ có
sức mạnh của pháp luật mới có thể yêu cầu và bắt buộc họ trả tiền. Trong
mức độ cho phép sự lựa chọn của họ dao động trong phạm vi những giới
hạn đã được xác lập.
Từ những trình bày trên ta thấy:
Công cụ kinh tế là một trong những phương tiện chính sách được sử
dụng để đạt tới mục tiêu môi trường thành công.
Công cụ kinh tế không phải là phương tiện chính sách riêng biệt mà
chúng được sử dụng thường xuyên cùng với các phương tiện chính sách
khác như những quy định pháp lý về CAC.
1.2.2. Sự cần thiết của các công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi
trường
Nền kinh tế phát triển ngày càng cao, điều đó dẫn tới ô nhiễm, suy thoái
và những sự cố môi trường diễn ra ngày càng ở mức độ cao, đang đặt con
người trước sự trả thù ghê gớm của thiên nhiên. Đối với Việt Nam nói chung
và trên địa bàn Thái Nguyên nói riêng thì đây là vấn đề cấp bách cần giải
quyết và có những chính sách hữu hiệu cần thiết phải bảo vệ môi trường cũng
như các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người, sinh
vật và sự phát triển kinh tế văn hóa – xã hội của đất nước, của nhân loại. Bởi
vậy mà vấn đề BVMT ngày nay đã là một trong những chính sách quan trọng
của Đảng và Nhà nước ta. Bằng những biện pháp và chính sách khác nhau
Nhà nước ta đang can thiệp mạnh mẽ vào các hoạt động của cá nhân, tổ chức
trong xã hội nhằm bảo vệ các yếu tố của môi trường, ngăn chặn việc gây ô
nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Trong những biện pháp và chính sách

đó cũng như nhiều nước trên thế giới, nhà nước ta đã áp dụng các công cụ hữu
hiệu, trong đó công cụ kinh tế đóng vai trò quan trọng.
Xét cả về lý luận và thực tiễn, bất kỳ nền kinh tế nào cũng cần có vai
trò quản lý của nhà nước. Nền kinh tế thị trường với sự đa dạng về các chủ
thể, các quan hệ kinh tế nhất là từ khi nhà nước ta mở cửa nền kinh tế thì các
nhà đầu tư nước ngoài đã ồ ạt đầu tư và Việt Nam. Điều này đã làm cho sự đa
dạng về chủ thể cần quản lý cũng như bảo vệ và quản lý môi trường của nhà
nước đối với các chủ thể này. Sự đa dạng về phương thức kinh tế, hình thức
pháp lý… cùng với xu hướng tìm kiếm tối đa lợi nhuận đã ảnh hưởng không
nhỏ đến nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Để thực hiện được chức
năng của mình trong quản lý và bảo vệ môi trường, cũng như các lĩnh vực
khác Nhà nước không thể không sử dụng công cụ hữu hiệu nhất của mình đó
là pháp luật hay cụ thể hơn đó là pháp luật về môi trường. Với tư cách là một
hệ thống các quy phạm điều chỉnh hành vi xử sự của con người, pháp luật môi
trường đóng vai trò lớn trong việc quản lý và bảo vệ môi trường. Pháp luật
quy định các quy tắc xử sự và buộc mọi người phải tuân theo khi khai thác sử
dụng các thành phần môi trường. Ngoài ra pháp luật môi trường còn có những
quy định cấm tác động đến một số thành phần môi trường… Nó thể hiện quan
điểm của Nhà nước trong việc khuyến khích các chủ thể tham gia quản lý và
BVMT. Pháp luật môi trường cũng quy định những chức năng quyền hạn của
các cơ quan quản lý và bảo vệ môi trường. Pháp luật môi trường muốn thực
thi và đạt hiệu quả cao thì không thể thiếu các công cụ kinh tế tác động đến.
Bởi vì pháp luật môi trường đơn thuần là các “mệnh lệnh – kiểm tra” mà thôi.
Pháp luật quy định các quy tắc xử sự và buộc họ phải tuân theo, đồng thời nếu
đơn thuần chỉ dựa vào công cụ pháp luật thì cơ quan quản lý và BVMT cũng
chỉ đến mức kiểm tra và khi các tổ chức, cá nhân có hành vi sai phạm cũng chỉ
chịu trách nhiệm hành chính hoặc hình sự hoặc các hình thức khác. Như vậy
thì hậu quả môi trường đã xảy ra rồi, công cụ kinh tế chính là biện pháp phòng
ngừa việc gây ô nhiễm môi trường cũng như suy thoái môi trường. Hơn nữa
điều này nó buộc đối với các doanh nghiệp, các doanh nghiệp buộc phải tuân

theo các quy định đó. Nhưng khi áp dụng các công cụ kinh tế thì người gây ô
nhiễm được lựa chọn mức độ tác động đến môi trường, sự lựa chọn này phải
nằm trong giới hạn mà các công cụ kinh tế đã quy định.
Áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý và BVMT là tác động tới chi
phí và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp, đánh vào kinh tế - tài chính thì các
chủ thể mới tuân theo đúng tất cả các quy định của pháp luật về môi trường.
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, để đảm bảo tính khả thi của pháp
luật môi trường thì không thể không sử dụng các công cụ kinh tế.
1.3. Vai trò của công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường
Công cụ kinh tế là một trong những công cụ quan trọng để bảo vệ môi trường.
Nó đã và đang được áp dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới trong đó có Việt
nam. Qua thực tiễn kiểm nghiệm ở một số nước đã chứng tỏ công cụ kinh tế
có tác dụng sau:
- Điều chỉnh hành vi môi trường một cách tự động, do mức thải có
quan hệ một cách tự động đối với thuế (tức là cái giá của sự gây ô
nhiễm).
- Tính hiệu quả về chi phí khi với một mức thải nhất định thì thuế, phí
chất thải đảm bảo đạt được mục tiêu chi phí tối thiểu.
- Khuyến khích hành vi bảo vệ môi trường: Do công cụ kinh tế không
chỉ có tác dụng trực tiếp và lâu dài đối với hành vi gây ảnh hưởng
tới môi trường của doanh nghiệp mà còn có tác dụng sâu xa tới quá
trình nghiên cứu, triển khai, thay đổi kỹ thuật và công nghệ sản xuất
có lợi cho môi trường.
- Gia tăng nguồn thu nhập phục vụ trở lại cho bảo vệ môi trường và
đóng góp ngân sách cho nhà nước.
- Duy trì và chuyển giao hợp lý cho nguồn lực do định giá các nguồn
tài nguyên môi trường, là thành tố quan trọng cho phát triển bền
vững và góp phần tích cực cho việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực
cũng như chuyển giao chúng cho các thế hệ tương lai. Đối với các
nước đang phát triển như Việt Nam khi phát triển kinh tế chủ yếu

dựa và nguồn tài nguyên nhiên nhiên thì việc đánh giá các nguồn tài
nguyên môi trường là một công cụ chủ chốt cho phát triển bền vững.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vai trò của các công cụ kinh tế trong
quản lý và bảo vệ môi trường ở Việt Nam có khác nhau trong mỗi giai đoạn
phát triển nền kinh tế đất nước. Nhìn chung tác dụng của công cụ kinh tế được
thể hiện rõ rệt từ khi Việt Nam áp dụng nền kinh tế thị trường và trong quá
trình hội nhập nền kinh tế hiện nay.
1.4. Các nguyên tắc cơ bản trong việc sử dụng các công cụ kinh tế
Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường được áp dụng dựa trên hai
nguyên tắc cơ bản đã được quốc tế thừa nhận đó là: “Người gây ô nhiễm phải
trả tiền” và “người hưởng thụ phải trả tiền”.
1.4.1. Nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền - PPP”
Bắt nguồn từ các sáng kiến do Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
(OCED) đề xuất hợp tác vào năm 1972 và 1974. Nguyên tắc này xuất phát từ
những luận điểm của Pigon về nền kinh tế phúc lợi. Trong đó, nội dung quan
trọng nhất là một nền kinh tế lý tưởng là giá cả các loại hàng hóa và dịch vụ
có thể phản ánh đầy đủ các chi phí xã hội, kể cả chi phí môi trường (bao gồm
các chi phí chống ô nhiễm, khai thác tài nguyên cũng như dạng ảnh hưởng
khác tới môi trường). Giá cả phải “nói lên sự thật” về những chi phí sản xuất
và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Nếu không, sẽ dẫn đến việc sử dụng bừa bãi
các nguồn tài nguyên, làm cho ô nhiễm trở nên trầm trọng hơn so với mức tối
ưu đối với xã hội.
“Người gây ô nhiễm phải trả tiền” có nghĩa là buộc người gây ô nhiễm
(doanh nghiệp, cá nhân hay chính quyền) phải trả hoàn toàn các chi phí về sự
phá hoại môi trường do hoạt động của họ gây ra. Điều này sẽ khuyến khích
người ta giảm sự phá hoại đó, ít ra cũng ở mức mà chi phí biên của việc giảm
ô nhiễm bằng chi phí biên của sự tổn hại do ô nhiễm đó gây ra. Phương pháp
sử dụng các công cụ kinh tế nhấn mạnh lợi ích của các công cụ kinh tế được
dùng để thay đổi thái độ của con người thông qua cơ chế về giá cả.
Muốn vậy thì tổng chi phí ra một hàng hóa hay dịch vụ bao gồm chi phí

của tất cả tài nguyên được sử dụng phải được tính đủ vào giá của nó. Việc sử
dụng không khí, nước hay đất cho việc loại bỏ hay cất giữ chất thải cũng là sử
dụng các tài nguyên giống như các đầu vào của sản xuất. Tình trạng định giá
không tính đủ để chi phí sử dụng các tài nguyên môi trường và không xác
định rõ quyền sở hữu đối với tài nguyên môi trường dẫn đến việc khai thác và
sử dụng quá mức và có thể phá hủy hoàn toàn nguồn tài nguyên đó. Nguyên
tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” tìm cách sửa đổi “thất bại thị trường”
bằng cách buộc người gây ô nhiễm phải tính toán đầy đủ chi phí sản xuất (chi
phí sử dụng tài nguyên và làm ô nhiễm) thông qua các công cụ như thuế ô
nhiễm, lệ phí ô nhiễm, giấy phép ô nhiễm…
1.4.2. Nguyên tắc “Người hưởng thụ phải trả tiền – BPP”
Nguyên tắc này chủ trương tạo lập một cơ chế nhằm đạt được các mục
tiêu về môi trường, ngược lại với người gây ô nhiễm phải trả tiền, người
hưởng thụ môi trường đã được cải thiện cũng phải trả một khoản phí. Cụ thể
là tất cả những ai hưởng lợi do có được môi trường trong lành không bị nhiễm
thì đều phải nộp phí.
Xét về mặt kinh tế thì nguyên tắc BPP là nguyên tắc có tính phù hợp
cao, vì hiệu quả kinh tế chỉ có thể đạt được nếu các nguồn lợi được sử dụng ở
mức tối ưu. Do vậy hiệu quả kinh tế có thể đạt được nếu việc xác định mức
phí, lệ phí môi trường đưa ra ở mức tối ưu và khoản phí, lệ phí thu được chủ
yếu phục vụ cho các biện pháp cụ thể có liên quan đến bảo vệ môi trường.
- Vận dụng các phương tiện chính sách nhằm áp dụng các công cụ kinh tế.
Thực tiễn cho thấy các phương tiện chính sách có tác dụng làm thay đổi
hoặc chỉ ra những tín hiệu về giá để điều chỉnh các quyết định trong việc tìm
kiếm mục tiêu môi trường được gọi là công cụ kinh tế. Các công kinh tế cho
phép tạo ra một cơ sở để lựa chọn hành động trong tầm tay của các cá nhân, tổ
chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, chúng cho phép họ hoạt động
kinh tế tích cực và năng động hơn trong việc lựa chọn hành động để bảo vệ
môi trường.
- Các mô hình lý thuyết về áp dụng các công cụ kinh tế trong kiểm soát ô

nhiễm.
Mặc dù ngay từ đầu thập kỷ 30, nhà kinh tế học theo trường phái cổ
điển Pigon đã đề cập đến ý tưởng và các tác động ngoại ứng và ảnh hưởng lan
tỏa của các hoạt động kinh tế. Đến giữa thập kỷ 60, khi ô nhiễm môi trường
đã trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với đời sống phúc lợi của con người
thì ý tưởng này mới được các nhà kinh tế học đặc biệt chú ý nhằm nỗ lực tìm
kiếm các công cụ hữu hiệu để giảm bớt nạn ô nhiễm trong đó có công cụ kinh
tế.
Trên thế giới đã áp dụng thành công và có hiệu quả, Việt nam đã bắt
đầu áp dụng và dần được mở rộng đối với các loại công cụ kinh tế khác. Kinh
nghiệm cho thấy rằng một chính sách nếu không được xây dựng với sự cân
nhắc và tính toán đầy đủ sẽ có ít hiệu lực và không đem lại kết quả như mong
muốn. Nếu nóng vội muốn áp dụng ngay một hệ thống các công cụ kinh tế
hoàn chỉnh như một số nước trong khi bộ máy quản lý của của nước ta chưa
có đủ năng lực để điều tiết và kiểm soát thì rõ ràng là hệ thống công cụ kinh tế
này sẽ khó được thực hiện hết và có hiệu quả cao.
1.5. Thực trạng áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
trên thế giới và kinh nghiệm áp dụng thực tiễn ở Việt Nam
Công cụ kinh tế là phương tiện chính sách có tác dụng làm thay đổi chi phí và
lợi ích của những hoạt động kinh tế thường xuyên tác động tới môi trường
nhằm mục đích tăng cường ý thức trách nhiệm trước việc gây ra sự hủy hoại
môi trường.
*- Thuế, phí và lệ phí môi trường
- Thuế môi trường: Là khoản thu vào ngân sách nhà nước, nhằm điều tiết các
hoạt động môi trường Quốc gia, bù đắp các chi phí mà xã hội bỏ ra để giải
quyết các vấn đề như: chi phí phục hồi môi trường, chi phí xử lý và ngăn ngừa
ô nhiễm.
Nguyên tắc tính thuế môi trường:
- Người gây ô nhiễm phải trả tiền.
Phân loại thuế môi trường:

- Thuế gián thu: Đánh vào giá trị sản phẩm hàng hóa gây ra ô nhiễm môi
trường trong quá trình sản xuất.
- Thuế trực thu: Đánh vào lượng chất thải độc hại đối vứi môi trường do cơ sở
sản xuất gây ra.
Ví dụ: Thuế CO
2
, thuế môi trường của hoạt động khai thác khoáng sản.
Thuế áp dụng trên Thế giới và Việt nam.
+ Thế giới:
- Ý tưởng đầu tiên về thuế ô nhiễm do Pigon một kinh tế gia người Anh đưa ra
năm 1920.
- Mỗi quốc gia trên thế giới áp dụng luật thuế môi trường riêng, không có tính
đồng nhất trên diện rộng giữa các nước nên kéo theo hệ quả khó khăn thiếu
bình đẳng trong cạnh tranh.
+ Việt Nam:
Tại Việt nam, quan điểm về áp dụng “Công cụ kinh tế” trong quản lý
môi trường đã được đề cập trong chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ
chính trị về tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nghị quyết của Bộ chính trị số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004
và gần đây nhất là nghị quyết số 27/BCSĐ BTNMT ngày 2/12/2009 của Ban
cán sự đảng bộ TN$MT về việc tăng cường chủ trương kinh tế hóa ngành
TN$MT.
Hiện tại ở Việt nam, loại thuế/ phí đánh vào đơn vị ô nhiễm xả thải ra
môi trường đang được áp dụng dưới hình thức phí BVMT đối với nước thải,
đối với chất thải rắn và khai thác khoáng sản.
Phí BVMT đối với nước thải được quy định tại Nghị định 67/2003/NĐ-
CP ngày 13/6/2003. Tuy nhiên, sau hơn 6 năm thực hiện, phí BVMT đối với
nước thải vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập. Các cơ quan quản lý còn lúng túng
trong cách thu và tính phí. Các doanh nghiệp còn tìm cách trốn tránh và nợ
phí. Kết quả là tỷ lệ thu phí nước thải công nghiệp còn thấp.

Phí BVMT đối với chất thải rắn thông thường và chất thải rắn nguy hại
được quy định trong Nghị định 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007. Ngoài ra
phí vệ sinh được áp dụng năm 2003 theo quy định tại Thông tư số
71/2003/TT-BTC ngày 30/7/2003 của Bộ tài chính. Tuy nhiên khoản thu từ
các khoản phí này không bù đắp chi phí thu gom, xử lý chất thải rắn. Ngoài ra
các văn bản hiện tại không quy định rõ trách nhiệm thu phí của các đơn vị, tổ
chức nên việc thu phí ở các địa phương còn gặp nhiều khó khăn.
Phí BVMT đối với khai thác khoáng sản được thực hiện theo Nghị định
số 63/2008/NĐ-CP ngày 13/5/2008 của Chính phủ. Tuy nhiên, việc thu phí
còn gặp nhiều khó khăn do đối tượng phải nộp phí chưa tự giác thực hiện
nghĩa vụ này. Còn tình trạng doanh nghiệp kê khai sản lượng khai thác thấp
hơn thực tế để giảm số phí phải nộp.
*- Một số trường hợp đền bù về thiệt hại môi trường
Đền bù thiệt hại môi trường không được coi là một công cụ trong quản
lý môi trường, tuy nhiên tại Điều 7 Luật BVMT năm 2005 có quy đinh: “ tổ
chức, cá nhân gây tổn hại đến môi trường do hoạt động của mình phải bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật” và Nghị định 26/CP của Chính
phủ cũng quy định xử phạt hành chính các hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Dưới đây là một số ví dụ về đền bù thiệt hại môi trường ở nước ta trong
giai đoạn gần đây:
- Bồi thường thiệt hại ô nhiễm môi trường do sản xuất gạch: xã Việt
Thống- huyện Quế Võ – tỉnh Bắc Ninh, có gần 100 lò gạch công
suất từ 3 vạn đến 5 vạn ở khu vực bãi bồi sông Cầu, khói từ các lò
gạch làm ảnh hưởng đến gần 100 mẫu ruộng của thôn Trung Đông
dẫn đến làm giảm sản lượng lúa. Sau khi tiến hành điều tra UBND
tỉnh đã quyết định chủ các lò gạch phải đền bù cho người dân là chủ
các ruộng bị thiệt hại lúa là 1,6 tỷ đồng.
- Công ty VEDAN đền bù thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường sông
Thị Vải: công ty bột ngọt VEDAN do nước ngoài đầu tư xây dựng
từ năm 1995. Công ty có xây dựng hệ thống xử lý nước thải, tuy

nhiên trong quá trình sản xuất hệ thống này không hoạt động, toàn
bộ nước thải được đổ trực tiếp ra sông Thị Vải gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng, ảnh hưởng rất lớn đến người dân. Sau khi điều
tra và giám định chất lượng nước thải Bộ Tài Nguyên Môi Trường
đã xử phạt công ty số tiền phạt là 126 tỷ đồng, tuy nhiên công ty mới
chỉ đề bù 90 tỷ đồng.
- Khai thác than gây bồi lấp các hồ chứa nước ở Quảng Ninh, Tổng
công ty than Việt nam tiến hành khai thác than ở hai mỏ Tùng bạch
và Mạo Khê làm trôi đất đá gây bồi lấp lòng hồ, giảm dung tích
chứa nước từ 10-20%. Đồng tời nước hồ cũng bị axít hóa không đảm
bảo chất lượng để tưới tiêu cho nông nghiệp và sử dụng của người
dân. UBND tỉnh Quảng Ninh đã buộc Tổng công ty than ngừng
khai thác và đền bù thiệt hại, khắc phục môi trường khu vực 3 xã
thiệt hại số tiền là 4,35 tỷ đồng.
1.6. Các loại công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
1.6.1. Thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên là một loại thuế thực hiện điều tiết thu nhập về hoạt
động khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên của đất nước
Đối tượng nộp thuế: các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thuộc mọi
thành phần kinh tế quốc doanh, không phân biệt ngành nghề, hình thức khai
thác, hoạt động thường xuyên hay không thường xuyên, có địa điểm lưu động
hay cố định, có khai thác sử dụng tài nguyên lòng đất, mặt đất, mặt nước.
Thuế tài nguyên bao gồm một số sắc thuế chủ yếu như thuế sử dụng đất,
thuế sử dụng nước, thuế rừng, thuế tiêu thụ năng lượng, thuế khai thác tài
nguyên khoáng sản,…
Cơ cấu tính thuế tài nguyên phải được thay đổi phù hợp với khả năng công
nghệ của doanh nghiệp, phương thức quản lý của Nhà nước và điều kiện địa
chất kỹ thuật của khu vực khai thác tài nguyên để bảo đảm có sự phân biệt đối
với các doanh nghiệp hoặc hoạt động gây ra tổn thất tài nguyên và suy thoái
môi trường ở các mức độ khác nhau. Nguyên tắc chung của thuế tài nguyên

là: hoạt động càng gây nhiều tổn thất tài nguyên và suy thoái môi trường thì
càng phải chịu mức thuế cao hơn.
Trong thực tế, người ta thường phân biệt thuế tài nguyên theo mức độ xác
định trữ lượng:
- Tài nguyên đã xác định trữ lượng: thuế được tính dựa trên trữ lượng địa
chất (hoặc trữ lượng công nghiệp) của loại tài nguyên mà doanh nghiệp được
phép khai thác.
- Tài nguyên chưa xác định được trữ lượng hoặc xác định chưa chính xác:
có thể sử dụng sản lượng khai thác làm cơ sở tính thuế trong khi chờ có thăm
dò địa chất về trữ lượng bổ sung.
Đánh giá:
Ưu điểm: áp dụng thuế tài nguyên có tác dụng lớn trong việc bổ sung cho
nguồn Ngân sách quốc gia, đồng thời thông qua việc đóng thuế tài nguyên
Nhà nước theo dõi và giám sát được việc khai thác và sử dụng tài nguyên
trong thực tế.
Nhược điểm: đối với các tài nguyên không có khả năng tái tạo, cách tính
thuế theo giá bán sản phẩm chưa phù hợp, không khuyến khích được doanh
nghiệp giảm sản lượng tài nguyên khai thác. Đồng thời điều kiện địa chất
khác nhau ở mỗi vùng do đó hiệu quả khai thác khác nhau, nếu tính cùng một
mức thuế như nhau giữa các vùng là không công bằng đối với chủ khai thác.
1.6.2. Thuế môi trường
Thuế môi trường là khoản thu của ngân sách nhà nước, nhằm điều tiết các
hoạt động bảo vệ môi trường quốc gia, bù đắp chi phí mà xã hội bỏ ra để giải
quyết các vấn đề như: chi phí y tế, chi phí mất ngày công lao động, chi phí
phục hồi môi trường, chi phí phục hồi tài nguyên, chi phí xử lý và ngăn ngừa
ô nhiễm,…
Nguyên tắc tính thuế môi trường là thuế phải lớn hơn chi phí để giải quyết
phế thải và khắc phục ô nhiễm.
Thuế môi trường là công cụ kinh tế nhằm đưa chi phí môi trường vào giá
thành sản phẩm theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Thuế môi

trường nhằm khuyến khích người gây ô nhiễm giảm lượng chất ô nhiễm thải
ra môi trường và tăng nguồn thu cho ngân sách. Thuế môi trường buộc các
nhà sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu suất sử dụng nguyên, nhiên
liệu hoặc thay thế nguyên, nhiên liệu ít gây ô nhiễm hơn.
Có hai loại thuế môi trường là thuế trực thu và thuế gián thu:
• Thuế trực thu đánh vào lượng chất thải độc hại đối với môi trường do
cơ sở gây ra, ví dụ thuế CO
2
, SO
2
, thuế môi trường của hoạt động khai thác
khoáng sản.
• Thuế gián thu đánh vào giá trị sản phẩm hàng hóa gây ra ô nhiễm môi
trường trong quá trình sản xuất. Ở lĩnh vực mà thiệt hại môi trường rất khó
đo đếm thì thuế môi trường có thể được tính trên tổng doanh thu về sản
phẩm của hoạt động sản xuất.
Đánh giá:
Ưu điểm:
- Khuyến khích người gây ô nhiễm giảm lượng ô nhiễm thải ra môi
trường.
- Khuyến khích người sản xuất thay đổi công nghệ, sản phẩm, quy trình
sản xuất để giảm mức thuế phải đóng.
- Thuế dựa trên nguyên tắc càng gây ô nhiễm nhiều thì càng phải trả
nhiều tiền, do đó kích thích nhà sản xuất giảm ô nhiễm đến mức tối đa
để giảm số thuế phải nộp.
Nhược điểm:
- Làm tăng chi phí đầu vào, giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp.
- Ảnh hưởng tới phân phối thu nhập: nhóm đối tượng có thu nhập thấp sẽ
bị ảnh hưởng lớn hơn so với nhóm đối tượng có thu nhập cao.
- Đầu tư hệ thống thiết bị và hệ thống quản lý giám sát, kiểm soát việc

đánh thuế vào các hành vi gây ô nhiễm môi trường đòi hỏi chi phí lớn.
1.6.3. Phí và lệ phí

×