Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

kiểm soát quyết toán chi ngân sách địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.39 KB, 110 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyết toán ngân sách nhà nước (NSNN) là khâu cuối cùng của chu
trình ngân sách nhằm mục đích tổng kết, đánh giá lại việc thực hiện ngân
sách, đánh giá lại khâu lập ngân sách cũng như hoạch định chính sách về ngân
sách. Số liệu quyết toán chi ngân sách địa phương (NSĐP) là căn cứ quan
trọng để đánh giá tình hình điều hành, quản lý ngân sách của UBND thành
phố trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
địa phương, là cơ sở để phân tích ngân sách và chính sách tài khóa, hoạch
định chính sách trong những năm tiếp theo.
Trong những năm qua, công tác quyết toán chi NSĐP trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng đã được các cấp, các ngành quan tâm và hoàn thiện từng
bước. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cho thấy vẫn còn nhiều vấn đề bất
cập; công tác lập, tổng hợp quyết toán chi thực hiện chưa được đầy đủ, chính
xác, còn nặng tính hình thức; công tác kiểm soát quyết toán chi còn chưa
nghiêm túc, thiếu chặt chẽ; số liệu quyết toán chi còn chứa đựng nhiều sai sót,
mặc dù đã được HĐND thành phố phê chuẩn. Điều đó đòi hỏi phải nghiên
cứu một cách đầy đủ công tác lập, tổng hợp và kiểm soát quyết toán chi
NSĐP, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát quyết toán
chi NSĐP, đảm bảo tính chính xác, minh bạch của số liệu quyết toán.
Xuất phát từ tính thiết thực của vấn đề, tác giả chọn đề tài nghiên cứu
“Kiểm soát quyết toán chi ngân sách địa phương”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số vấn đề về lý luận cơ
bản cũng như thực trạng của công tác kiểm soát quyết toán chi NSĐP và các
1
nội dung có liên quan để từ đó đề ra một số biện pháp nâng cao chất lượng
công tác kiểm soát quyết toán chi NSĐP.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là toàn bộ các hoạt động có liên quan
đến công tác kiểm soát quyết toán chi NSĐP từ việc lập dự toán, chấp hành


dự toán, quyết toán ngân sách cũng như công tác kiểm soát của từng khâu.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung cho công tác kiểm soát
quyết toán chi NSĐP trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn năm 2001-
2005, tập trung chủ yếu tại cấp thành phố và thời kỳ Luật NSNN sửa đổi để
phù hợp với thực tiễn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật
lịch sử kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp đối chiếu,
so sánh trong quá trình nghiên cứu. Đề tài sử dụng phổ biến phương pháp
nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm thực tế để có giải pháp hoàn thiện phù hợp.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở phân tích những lý luận về NSNN, quyết toán chi NSNN,
các loại hình kiểm soát và kiểm soát quyết toán chi NSNN, luận văn đã xác
định được ý nghĩa tầm quan trọng của công tác kiểm soát quyết toán chi
NSĐP trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Tìm ra được những ưu điểm cũng như những yếu kém, bất cập của
công tác kiểm soát quyết toán chi NSĐP (giai đoạn 2001 – 2005) trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong để từ đó rút ra được những kinh nghiệm và nguyên
nhân.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm soát
quyết toán chi NSĐP trên địa bàn thành phố Đà Nẵng như: xây dựng các quy
trình và nội dung kiểm soát quyết toán chi NSĐP, xây dựng bộ phận kiểm
2
soát ngân sách chuyên trách tại Sở Tài chính, xây dựng danh mục mã nguồn
kinh phí ngân sách phục vụ cho công tác kiểm soát quyết toán chi NSĐP
với mục tiêu là nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN, đảm bảo cho quyết toán
chi NSĐP được phản ánh trung thực, chính xác và minh bạch.
6. Kết cấu của Luận văn
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quyết toán ngân sách nhà nước và
kiểm soát quyết toán chi ngân sách nhà nước

Chương 2: Thực trạng công tác kiểm soát quyết toán chi ngân sách địa
phương trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm soát
quyết toán chi ngân sách địa phương trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
3
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC VÀ KIỂM SOÁT QUYẾT TOÁN CHI
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái niệm về ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước ra đời và tồn tại gắn liền với sự ra đời và tồn tại
của nhà nước. Có nhiều định nghĩa khác nhau về NSNN, theo giáo trình Lý
thuyết tài chính, Trường Đại học Tài chính - Kế toán Hà Nội, Nhà xuất bản
Tài chính – 2000 thì “NSNN được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn
tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng Quỹ tiền tệ tập trung của nhà
nước nhằm thực hiện chức năng của nhà nước trên cơ sở luật định. Nó phản
ảnh mối quan hệ giữa nhà nước và các chủ thể trong xã hội phát sinh khi nhà
nước tham gia phân phối các nguồn lực tài chính quốc gia theo nguyên tắc
không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu”.
Theo Luật NSNN năm 2002 thì “NSNN là toàn bộ các khoản thu chi
của nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ
của nhà nước”.
Như vậy, ta có thể hiểu NSNN là các khoản thu, chi của Nhà nước do
cơ quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một thời gian nhất
định, thường là 1 năm. Nói cách khác, NSNN cụ thể hóa quyền lực của nhà
nước được thực hiện theo Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật
khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
1.1.2. Bản chất của ngân sách nhà nước

Như chúng ta đã biết, điều kiện tiền đề cho sự ra đời và tồn tại của
NSNN gắn liền với nền kinh tế hàng hóa và nhà nước. Cùng với sự phát triển
4
của kinh tế hàng hóa và mức độ phát triển của nhà nước, phạm trù NSNN
cũng phát triển theo. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về NSNN nhưng
tựu trung lại thì bản chất NSNN chính là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa
nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội, phát sinh trong quá trình phân
phối và phân phối lại giá trị của cải xã hội, nhằm tập trung một phần nguồn
lực tài chính vào tay nhà nước để đáp ứng cho các nhu cầu chi gắn với việc
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước theo nguyên tắc không bồi
hoàn trực tiếp là chủ yếu.
1.1.3. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước và hệ thống ngân sách nhà
nước
1.1.3.1. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước nhằm
đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Bộ máy nhà nước được thiết lập
theo nhiều hình thức khác nhau nên NSNN cũng được tổ chức cho phù hợp
với tổ chức nhà nước. Do vậy phân cấp quản lý NSNN chính là việc phân chia
trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý hoạt động của NSNN cho các cấp chính
quyền Nhà nước từ trung ương tới các địa phương trong quá trình tổ chức tạo
lập và sử dụng NSNN, nhằm làm cho hoạt động của NSNN lành mạnh và đạt
hiệu quả cao.
Đặc trưng chủ yếu của một cấp ngân sách:
- Được gắn với một cấp chính quyền nhất định trong thể chế của quốc
gia;
- Được phân quản lý một số nguồn thu nhất định trên địa bàn.
- Là một công cụ độc lập của một cấp chính quyền nhất định.
Nội dung phân cấp quản lý NSNN thể hiện cơ sở pháp lý quy định
thẩm quyền của các cơ quan nhà nước, các bộ phận từ trung ương đến địa
phương; thể hiện mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền, đó là sự

5
phân chia nguồn thu và nhiệm vụ chi cho từng cấp chính quyền từ trung ương
đến địa phương; thể hiện mối quan hệ giữa các cấp chính quyền nhà nước
trong chu trình NSNN bao gồm tất cả các khâu: chuẩn bị ngân sách, lập ngân
sách, duyệt, thông qua ngân sách, chấp hành, quyết toán ngân sách. Trong
mối quan hệ này, mức độ tham gia, điều hành và kiểm soát của các cơ quan
quyền lực, cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan chuyên môn đối với các
cấp ngân sách đến đâu chính là thể hiện tính chất phân cấp trong toàn bộ hệ
thống.
1.1.3.2. Hệ thống ngân sách nhà nước
Hệ thống NSNN là hệ quả tất yếu của phân cấp ngân sách. Hệ thống
NSNN được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ hữu cơ với
nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân sách.
Hệ thống NSNN ở nước ta hiện nay bao gồm ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương. NSĐP bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các
cấp có HĐND và UBND. Ngân sách trung ương chịu trách nhiệm quản lý thu,
chi theo các ngành kinh tế, luôn giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống NSNN.
NSĐP chịu trách nhiệm quản lý thu, chi NSNN phát sinh trên địa bàn địa
phương. HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân
sách cấp tỉnh) quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp
chính quyền địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, xã hội, quốc
phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn, đảm bảo thực
hiện cân đối ngân sách của cấp mình.
1.1.3.3. Chu trình ngân sách nhà nước
Chu trình ngân sách hay còn gọi là quá trình ngân sách là toàn bộ hoạt
động của một ngân sách từ lúc bắt đầu hình thành cho tới khi kết thúc để
chuyển sang một ngân sách mới. Chu trình ngân sách có nội dung rộng hơn
6
và thời gian dài hơn năm ngân sách. Chu trình ngân sách xét về nội dung bao
gồm 3 khâu:

- Lập dự toán ngân sách: thực chất là dự toán các khoản thu, chi của
NSNN trong một năm ngân sách. Việc dự toán đầy đủ các khoản thu, chi và
đảm bảo thứ tự ưu tiên của nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội sẽ có tác
dụng quan trọng đến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung và thực
hiện ngân sách nói riêng. Lập NSNN chỉ được coi là hoàn thành khi dự toán
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Thời gian lập dự toán
NSNN cho một chu trình ngân sách kế tiếp được tiến hành ngay trong thời
gian diễn ra chấp hành ngân sách của chu trình ngân sách hiện tại. Thông qua
dự toán NSNN các cấp ngân sách, các đơn vị thụ hưởng ngân sách tính toán
một mức nhất định lượng ngân sách trong năm hoàn hành những nhiệm vụ
được giao.
- Chấp hành NSNN: chính là thực hiện dự toán NSNN trên cơ sở dự
toán được chuẩn y. Thông qua chấp hành ngân sách, những hoạch định về
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã được thể hiện trong quá trình lập dự
toán NSNN được thực hiện. Sau khi NSNN được phê chuẩn và năm ngân
sách bắt đầu, việc thực hiện ngân sách được triển khai. Nội dung của quá trình
này là tổ chức thu NSNN và phân phối kinh phí NSNN cho các nhu cầu đã
được phê chuẩn. Việc chấp hành ngân sách thực hiện tốt sẽ có tác dụng tích
cực trong việc thực hiện khâu tiếp theo là quyết toán NSNN.
- Quyết toán NSNN: là khâu cuối cùng của một chu trình ngân sách.
Thông qua quyết toán NSNN, các cơ quan nhà nước biết được tình hình thu
chi NSNN trong một năm của mình. Quyết toán NSNN còn phản ánh toàn bộ
thực trạng về thực hiện chính sách tài khóa của từng chính quyền địa phương,
của Chính phủ trong một năm.
7
1.1.4. Mục lục ngân sách nhà nước
Mục lục NSNN là bảng phân loại các khoản thu, chi ngân sách theo
những tiêu thức và phương pháp nhất định nhằm phục vụ cho việc quản lý
điều hành (lập, chấp hành, quyết toán) cũng như việc kiểm soát và phân tích
hoạt động của NSNN một cách hiệu quả và tiện lợi.

Hệ thống mục lục NSNN hiện tại của nước ta được thiết kế dựa trên 3
cách phân loại: phân loại theo tổ chức thể hiện qua chương; theo chức năng
(ngành kinh tế quốc dân) thể hiện qua loại khoản và theo nội dung kinh tế thể
hiện qua nhóm, tiểu nhóm, mục, tiểu mục.
- Chương: được ký hiệu bằng 3 chữ số và được phân biệt theo các cấp
ngân sách.
- Loại: được ký hiệu 2 chữ số theo ngành kinh tế quốc dân cấp 1 và sử
dụng thống nhất cho cả thu và chi.
- Khoản được ký hiệu 2 chữ số theo ngành kinh tế quốc dân cấp 2, 3, 4
và sử dụng thống nhất cho cả thu và chi.
- Nhóm, tiểu nhóm: là hình thức phân loại theo nội dung kinh tế ở cấp
độ cao để phục vụ cho công tác lập và phân tích kinh tế, tài chính ở tầm vĩ
mô.
- Mục, tiểu mục: là hình thức phân loại theo nội dung kinh tế ở cấp độ
thấp hơn để phục vụ cho công tác lập và phân bổ dự toán ngân sách, cấp phát,
quản lý và kiểm soát các khoản thu, chi của ngân sách, kế toán và quyết toán
NSNN.
Mục lục NSNN đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý
NSNN, là công cụ đắc lực phục vụ cho việc xây dựng dự toán, quyết toán chi
ngân sách hàng năm, là căn cứ quan trọng để thực hiện kiểm soát thu, chi
ngân sách. Thông qua Mục lục NSNN các nhà quản lý kiểm tra, kiểm soát
8
quá trình chấp hành, quyết toán ngân sách có thực hiện đúng dự toán được lập
hay không.
1.2. CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ PHÂN LOẠI CÁC KHOẢN
CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.2.1. Chi ngân sách và bản chất chi ngân sách nhà nước
Chi NSNN là căn cứ vào nhu cầu nhiệm vụ thực hiện chức năng của
nhà nước, thông qua việc phân phối quỹ tài chính, thực hiện phân p hối lại
một cách có kế hoạch các nguồn lực tài chính tập trung được. Nói cách khác,

chi ngân sách là quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhằm thực
hiện các nhiệm vụ của nhà nước trong từng thời kỳ.
Bản chất chi NSNN là hệ thống những quan hệ phân phối lại các khoản
thu nhập phát sinh trong quá trình sử dụng có kế hoạch quỹ tiền tệ tập trung
của nhà nước nhằm thực hiện chức năng tăng trưởng kinh tế, mở mang các sự
nghiệp văn hóa, xã hội, duy trì hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước và bảo
đảm an ninh, quốc phòng.
1.2.2 Phân loại chi ngân sách nhà nước
Phân loại các khoản chi ngân sách có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối
với việc hoạch định và thực thi ngân sách nói chung mà là cơ sở quan trọng
trong việc hạch toán kế toán và quyết toán ngân sách. Phân loại ngân sách
một cách khoa học còn giúp cho việc phân tích tình hình tài chính ngân sách
một cách thuận lợi và chính xác.
Ở Việt Nam chi NSNN được phân loại như sau
- Phân theo ngành kinh tế quốc dân thì chi ngân sách được chia thành
chi nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy lợi, thủy sản, công nghiệp chế biến, xây
dựng, công nghiệp,…
- Phân theo nội dung kinh tế thì các khoản chi được chia thành chi đầu
tư phát triển, chi thường xuyên và chi khác. Trong chi đầu tư phát triển được
9
chia thành chi đầu tư XDCB, chi hỗ trợ vốn doanh nghiệp và các khoản chi
mang tính chất đầu tư phát triển khác…Trong chi thường xuyên được chia
thành chi cho các sự nghiệp kinh tế - xã hội như chi quản lý hành chính, chi
sự nghiệp y tế, chi sự nghiệp giáo dục, khoa học công nghệ, sự nghiệp kinh tế,
văn hóa thể thao, phát thanh truyền hình, đảm bảo xã hội, an ninh quốc
phòng, chi trợ giá, trợ cước, chi khác…. Thuộc loại chi thường xuyên gồm có
4 nhóm mục chi: chi thanh toán cá nhân, chi nghiệp vụ chuyên môn, chi mua
sắm, sửa chữa và chi khác. Các khoản chi khác là các khoản chi không xếp
vào hai nhóm chi trên bao gồm: chi trả gốc và lãi vay, chi viện trợ, chi cho
vay, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, chi bổ sung ngân sách cấp dưới, chi

chuyển nguồn.
Việc phân loại chi sẽ giúp cho việc hạch toán kế toán là công cụ quan
trọng hàng đầu phục vụ cho việc quyết toán NSNN.
1.3. QUYẾT TOÁN CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.3.1. Khái niệm và bản chất quyết toán chi ngân sách nhà nước
Quyết toán ngân sách là khâu cuối cùng của một chu trình ngân sách.
Nó là quá trình rà soát, tổng kết, đánh giá việc thực hiện ngân sách cũng như
các chính sách ngân sách của năm ngân sách đã qua.
Quyết toán chi NSNN là việc tổng kết lại quá trình thực hiện dự toán
chi ngân sách, sau khi năm ngân sách kết thúc nhằm đánh giá toàn bộ kết quả
hoạt động của một năm ngân sách, từ đó rút ra các ưu nhược điểm và bài học
kinh nghiệm cho những chu trình ngân sách tiếp theo.
Bản chất của quyết toán chi là tổng kết, đánh giá lại toàn bộ quá trình
hoạt động chi ngân sách trong năm ngân sách, cung cấp đầy đủ thông tin về
quản lý điều hành chi của năm ngân sách đã qua.
Công tác quyết toán ngân sách thực hiện tốt sẽ có ý nghĩa thiết thực
trong việc nhìn nhận lại quá trình chấp hành ngân sách qua một năm, rút ra
10
những bài học kinh nghiệm thiết thực bổ sung cho công tác lập ngân sách
cũng như chấp hành ngân sách những chu trình tiếp theo.
1.3.2. Đặc trưng của quyết toán chi ngân sách nhà nước
- Phải phản ánh được đầy đủ số liệu chi ngân sách.
- Thể hiện được tính tuân thủ các quy định của pháp luật cũng như đạt
được các yêu cầu đã đề ra khi quyết định ngân sách.
- Phải báo cáo được tính hiệu lực, hiệu quả của các khoản chi ngân
sách. Thông qua đó có thể đánh giá được tính hiệu lực, hiệu quả, có thể biết
được việc phân bổ ngân sách có hợp lý hay không, các chính sách có được
thực thi một cách tốt nhất hay không.
- Quyết toán NSNN được xác định trong một khoảng thời gian nhất
định, thường là một năm (12 tháng).

- Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn.
1.3.3. Nguyên tắc quyết toán chi ngân sách nhà nước
Nguyên tắc đầy đủ:
Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong công tác quản lý NSNN.
Theo nguyên tắc này, tất cả các khoản chi đều hạch toán và quyết toán đầy đủ
với NSNN, đảm bảo quyết toán ngân sách thể hiện đầy đủ các khía cạnh của
năm ngân sách đã qua, đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý, sử dụng
các nguồn lực của chính quyền các cấp, giải trình đầy đủ về tính tuân thủ, tính
kinh tế, hiệu lực, hiệu quả của NSNN, những tác động của chính sách tài khóa
trong năm đến nền kinh tế quốc dân.
Nguyên tắc thống nhất
Theo nguyên tắc này thì quyết toán NSNN phải đảm bảo thống nhất từ
cơ sở đến cơ quan quản lý tài chính ngân sách, thể hiện từ khâu hạch toán kế
toán cho đến khâu tổng hợp quyết toán. Thực hiện nguyên tắc này, đòi hỏi
phải có sự thống nhất về:
11
- Tổ chức hệ thống thông tin ngân sách mà quan trọng nhất là hệ thống
thông tin kế toán ngân sách.
- Tổ chức quyết toán ngân sách từ khâu hạch toán kế toán đến khâu lập
quyết toán của đơn vị cơ sở, xét duyệt, thẩm định quyết toán, kiểm toán quyết
toán, thẩm tra, phê chuẩn quyết toán NSNN.
- Các chỉ tiêu báo cáo quyết toán, nội dung báo cáo, hệ thống mẫu biểu
quyết toán.
- Nguyên tắc kế toán áp dụng trong kỳ hạch toán và giữa các kỳ hạch
toán, đảm bảo số liệu ngân sách có thể so sánh được với nhau giữa các kỳ.
- Chỉ tiêu quyết toán với các chỉ tiêu dự toán. Đây là điều kiện đảm bảo
sự so sánh giữa dự toán được giao với chỉ tiêu thực hiện trên cơ sở đó tìm
nguyên nhân chênh lệch so với mức ngân sách được quyết định. Điều này cực
kỳ quan trọng, nhất là việc đánh giá tính tuân thủ của các cơ quan sử dụng
ngân sách.

Nguyên tắc cân đối:
Theo nguyên tắc này yêu cầu các khoản chi ngân sách được quyết toán
phải cân đối với nguồn thu. Trường hợp bội chi phải có nguồn bù đắp và tuân
thủ các điều kiện vay trả theo quy định của Luật. Đây là nguyên tắc luôn luôn
phải quan tâm không chỉ ở khâu quyết toán mà còn phải quán triệt trong suốt
chu trình NSNN.
Nguyên tắc rõ ràng, trung thực và chính xác
Rõ ràng về phương pháp tính toán, xác định các khoản chi. Rõ ràng về
phương pháp tính toán xây dựng dự toán và quyết toán NSNN. Các số liệu
quyết toán phải phản ánh đúng thực trạng về kinh tế, xã hội;
Nguyên tắc thường niên (nguyên tắc theo niên độ ngân sách)
Theo nguyên tắc này các khoản chi ngân sách phải hạch toán, quyết
toán đúng niên độ ngân sách. Số quyết toán phải là số thực chi hoặc được
12
phép hạch toán trong niên độ đó. Không đưa các khoản chi của niên độ ngân
sách này vào quyết toán niên độ ngân sách khác. Báo cáo quyết toán NSNN
luôn được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định và thường xác định
là 1 năm (12 tháng).
Nguyên tắc công khai, minh bạch
Bản chất của NSNN là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa nhà nước và
các tổ chức cá nhân, do vậy mọi hoạt động của NSNN luôn là mối quan tâm
của toàn xã hội. Để mọi người có thể tham gia kiểm soát đối với hoạt động
của NSNN thì yêu cầu đặt ra là quyết toán ngân sách phải được công khai và
đảm bảo tính minh bạch.
Nguyên tắc lập và quyết toán từ cơ sở
Để thực hiện quyết toán NSNN theo số thực chi thì một nguyên tắc đặt
ra là quyết toán NSNN phải được lập từ cơ sở. Các đơn vị thụ hưởng ngân
sách chịu trách nhiệm lập báo cáo sử dụng ngân sách trong phạm vi đơn vị
mình gửi cơ quan cấp trên. Sau khi xem xét tính chính xác mức độ đầy đủ của
số liệu quyết toán của các đơn vị cơ sở, cơ quan cấp trên tổng hợp lập quyết

toán ngân sách của cơ quan mình. Cơ quan tài chính sau khi thẩm định số liệu
sẽ tổng hợp lập quyết toán ngân sách trong phạm vi mình phụ trách, báo cáo
UBND trình HĐND cùng cấp phê chuẩn. Bộ Tài chính có trách nhiệm tổng
hợp quyết toán của Chính quyền trung ương và địa phương để hình thành
NSNN.
Nguyên tắc hạn định (nguyên tắc thực thanh, thực chi)
Nguyên tắc hạn định được hiểu là chỉ đưa vào quyết toán ngân sách các
khoản thực chi. Đối với các khoản chưa dùng hoặc không dùng đến không
được quyết toán ngân sách.
13
1.3.4. Quy trình quyết toán ngân sách nhà nước
Quy trình quyết toán NSNN hay còn gọi là trình tự quyết toán NSNN là
các bước công việc để thực hiện quyết toán NSNN.
Quy trình quyết toán ngân sách gồm các bước công việc sau:
(1) Hạch toán kế toán là khâu diễn ra kể từ khi năm ngân sách bắt đầu
cho đến khi kết thúc, khóa sổ kế toán. Đây là khâu quan trọng của quá trình
ngân sách nói chung và quyết toán ngân sách nói riêng. Nếu khâu hạch toán
kế toán được thực hiện một cách kịp thời đầy đủ, rõ ràng chính xác sẽ tạo điều
kiện để thực hiện cho việc lập báo cáo quyết toán ở những khâu tiếp theo.
(2) Lập báo cáo quyết toán, kết thúc năm ngân sách, sau khi khóa sổ kế
toán cơ quan tài chính sẽ tiến hành lập báo cáo quyết toán ngân sách. Việc lập
báo cáo quyết toán dựa trên cơ sở số liệu hạch toán kế toán đã thực hiện của
năm ngân sách, phải thực hiện từ cơ sở và phải theo Mục lục NSNN để đảm
bảo tính thống nhất.
(3) Kiểm toán quyết toán NSNN: nhằm xác định tính trung thực của số
liệu, đồng thời đánh giá tính tuân thủ, tính kinh tế và tính hiệu lực, hiệu quả
đối với việc thực hiện ngân sách và các chính sách của năm tài khóa.
(4) Thẩm tra quyết toán: đây là công việc mà các cơ quan chức năng
của HĐND, Quốc hội thực hiện, trước khi trình HĐND, Quốc hội phê chuẩn.
(5) Phê chuẩn quyết toán NSNN

(6) Công khai quyết toán
1.3.5. Các cơ quan Nhà nước tham gia quyết toán ngân sách nhà nước
Như đã phân tích ở phần khái niệm quyết toán NSNN, công việc quyết
toán là một quá trình nên có rất nhiều cơ quan nhà nước tham gia vào quá
trình đó. Mỗi cơ quan nhà nước tham gia đảm nhận một công việc riêng, thực
hiện chức năng riêng trong mối liên hệ chung là thực hiện quyết toán NSNN.
14
- Đơn vị thụ hưởng NSNN: Các đơn vị thụ hưởng ngân sách có trách
nhiệm tổ chức kế toán các khoản chi kinh phí của NSNN. Kết thúc năm ngân
sách, chịu trách nhiệm lập báo cáo quyết toán kinh phí sử dụng để trình cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
- Cơ quan chủ quản của đơn vị sử dụng ngân sách: có trách nhiệm kiểm
tra, xét duyệt quyết toán của các đơn vị trực thuộc, lập quyết toán đơn vị
mình, tổng hợp quyết toán toàn ngành gởi cơ quan tài chính cùng cấp.
- Cơ quan quản lý quỹ ngân sách (KBNN): có trách nhiệm hạch toán
việc chi quỹ NSNN và kiểm soát chi ngân sách. Số liệu của cơ quan quản lý
quỹ ngân sách có giá trị quan trọng trong việc lập quyết toán NSNN, số liệu
phản ánh là số thực xuất khỏi quỹ ngân sách.
- Cơ quan tài chính: có trách nhiệm quản lý, điều hành NSNN, thực
hiện việc tổng hợp quyết toán chi NSĐP mình quản lý và giải trình toàn bộ
các vấn đề có liên quan.
- Cơ quan Kiểm toán Nhà nước: chịu trách nhiệm kiểm toán quyết toán
NSNN trước khi trình HĐND cấp tỉnh, Quốc hội phê chuẩn (xác nhận độ tin
cậy của các thông tin trên báo cáo quyết toán ngân sách, đánh giá tính tuân
thủ pháp luật, việc thực hiện ngân sách và chính sách ngân sách; đánh giá tính
kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng các nguồn lực NSNN).
- UBND các cấp/Chính phủ: có trách nhiệm xem xét đầy đủ các khía
cạnh của quyết toán trước khi trình HĐND đồng cấp/Quốc hội và đảm nhận
mọi trách nhiệm liên quan đến vấn đề quyết toán NSNN.
- Các cơ quan của HĐND các cấp/Quốc hội: có trách nhiệm tham mưu

cho HĐND/Quốc hội trong việc xem xét phê chuẩn quyết toán NSNN.
- HĐND các cấp/Quốc hội: HĐND phê chuẩn quyết toán NSĐP, Quốc
hội phê chuẩn quyết toán NSNN.
15
1.4. KIỂM SOÁT QUYẾT TOÁN CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.4.1. Kiểm soát trong quản lý và các loại hình kiểm soát:
1.4.1.1. Kiểm soát trong quản lý
Quá trình kiểm soát là cần thiết trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của
con người, bên trong tổ chức như toàn bộ xã hội. Kiểm soát là một chức năng
của quản lý, do vậy để hiểu được khái niệm về kiểm soát, chúng ta cần phải
tìm hiểu về quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng.
Quản lý là một quá trình công việc bao gồm hướng dẫn một nhóm, một
tổ chức hoàn thành một mục tiêu xác định. Quản lý không chỉ đảm bảo cho
mọi hoạt động của tổ chức được tiến hành với hiệu suất cao mà còn đảm bảo
cho các đối tượng đó theo hướng các mục tiêu đề ra, theo chức năng được quy
định và nhiệm vụ được giao. Như vậy, có thể hiểu quản lý là một quá trình
định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định trên cơ sở những nguồn
lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Theo tài liệu B. S Dhillon, Enginering management, Technomic
Publishing Company, Inc (1987) Kiểm soát là bao gồm các hoạt động giám
sát quá trình thực hiện, so sánh với các tiêu chuẩn và chọn ra cách thức đúng.
Bản chất cơ bản của kiểm soát còn được hiểu rõ hơn trong các giai đoạn chủ
yếu của toàn bộ quá trình quản lý. Quá trình quản lý từ việc lập kế hoạch và
xây dựng các mục tiêu có liên quan. Để đảm bảo các hoạt động, hành động
mong muốn và ngăn ngừa những hành động không mong muốn thì việc kiểm
soát là một chức năng không thể thiếu. Do vậy kiểm soát không thể tồn tại
nếu chúng ta không có các mục tiêu, chức năng kiểm soát tồn tại như một
“khâu” độc lập của quá trình quản lý nhưng đồng thời lại là một bộ phận chủ
yếu của quá trình đó, chức năng này được thể hiện khác nhau tùy thuộc vào
cơ chế kinh tế, cấp quản lý và loại hình cụ thể.

16
Kiểm soát có thể hiểu là cách thức để nắm lấy và điều hành đối tượng
hoặc khách thể quản lý. Với ý nghĩa đó, kiểm soát có thể hiểu theo nhiều
cách: cấp trên kiểm soát cấp dưới thông qua chính sách hoặc các biện pháp cụ
thể, đơn vị kiểm soát đơn vị khác thông qua chi phối đáng kể quyền sở hữu và
lợi ích tương ứng, nội bộ đơn vị kiểm soát lẫn nhau thông qua quy chế và các
thủ tục quản lý.
Quá trình kiểm soát:
- Triển khai các mục tiêu: xác định mục tiêu cần đạt được
- Đo lường các kết quả thực hiện theo những mục tiêu đã được xây
dựng để có cơ sở đúng đắn để so sánh và phân tích những gì đã thực hiện và
có hành động quản lý phù hợp.
- So sánh thành tích cụ thể với các mục tiêu
- Phân tích nguyên nhân chênh lệch để tính toán mức độ ảnh hưởng của
mỗi nhân tố. Cần phải xác định nguyên nhân trực tiếp và những nguyên nhân
cơ bản, xác định ảnh hưởng cụ thể của những nhân tố cá biệt quan trọng. Đây
là bước chủ yếu đã sử dụng những kết quả miêu tả trong 3 bước trước.
- Xác định hành động quản lý thích hợp.
- Triển khai và đảm bảo hành động được thực hiện như mong muốn.
- Tiếp tục đánh giá lại: là bước cuối cùng trong quá trình kiểm soát, đây
chính là kiểm tra tiếp sự đúng đắn của việc xác định hành động cần thiết trước
đây và cách thức tiến hành những hành động đó. Bước này làm rõ sự liên kết
giữa chu kỳ kiểm soát trước với chu kỳ kiểm soát sau, xác định hành động
quản lý tiếp đó. Việc đánh giá sau là một hành động tiếp tục phản ánh những
điều kiện thay đổi, để có thêm kinh nghiệm và biết rõ hơn tất cả các nhân tố.
Mối quan hệ giữa kiểm soát và quá trình quản lý tổng thể:
Như đã đề cập ở trên, chức năng kiểm soát chủ yếu là xem xét tính hiệu
quả của các hành động thực hiện mà nhờ đó các chiến lược được chuyển
17
thành hành động để đạt các mục tiêu và kết quả đã đặt ra. Hệ thống tiêu chuẩn

pháp lý và kỹ thuật của hoạt động kiểm soát, đó là những chuẩn mực mà
người ta dùng để đối chiếu, xem xét kết quả hay quá trình tác nghiệp. Để đánh
giá, đo lường mức độ thực hiện công việc, người ta thiết lập nhiều dạng tiêu
chuẩn khác nhau như căn cứ vào chất lượng và số lượng công việc, căn cứ
vào đánh giá của các chuyên gia hay của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, cho
phép phát hiện sớm những sai lệch trong quá trình tác nghiệp, từ đó có thể kịp
thời đưa ra những biện pháp chấn chỉnh thích hợp nhằm đạt được những mục
tiêu đã đề ra.
Dưới giác độ thông tin, kiểm soát là hệ thống phản hồi các thông tin
đánh giá kết quả của quá trình thực thi nhiệm vụ đã đề ra với những người
điều hành, để các nhà điều hành có các điều chỉnh cần thiết cho quá trình tác
nghiệp, tuân thủ theo ý chí của mình hay mục tiêu của hệ thống. Tuy nhiên
việc phản hồi này thực sự có hiệu quả hay không, nhiều khi còn phụ thuộc
vào thời gian mà các thông tin này tới được nhà quản lý và điều hành.
Trong hoạt động của một đơn vị nói riêng hay hoạt động của Nhà nước
nói chung, kiểm soát được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc, mọi cấp, mọi ngành,
mọi cá nhân. Mặc dù quy mô và kỹ thuật kiểm soát phụ thuộc vào từng hoạt
động, từng con người cụ thể, song các hoạt động này đều có quan hệ hữu cơ
và hỗ trợ lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau đạt được mục đích đề ra. Kiểm soát
trước hết là thông qua việc đối chiếu với hệ thống quy phạm tiêu chuẩn tác
nghiệp, tiến đến là quy trình tác nghiệp, đánh giá mức độ khả thi của tác vụ;
thứ hai là sự kiểm soát của các chức danh có nhiệm vụ kiểm soát trên một
công đoạn nào đó của dây chuyền tác nghiệp.
1.4.1.2. Các loại hình kiểm soát
Tùy theo các tiêu thức khác nhau mà chúng ta có thể phân loại các hoạt
động kiểm soát, cụ thể:
18
(1) Căn cứ theo nội dung của kiểm soát: kiểm soát hành chính và kiểm
soát kế toán:
- Kiểm soát hành chính: là tập trung vào các thể thức kiểm tra nhằm

đảm bảo cho việc điều hành công tác ở đơn vị có nề nếp, nghiêm minh và
hiệu quả. Các thao tác kiểm soát hành chính được thực hiện trên các lĩnh vực
tổ chức và hành chính ở mọi cấp độ như: tuyển chọn nhân viên, xây dựng tác
phong, quy trình làm việc, tổ chức thực hiện các công việc cùng với các thao
tác kiểm soát quá trình chấp hành và mệnh lệnh ở đơn vị.
- Kiểm soát kế toán: kiểm soát thực hiện mục tiêu bảo vệ tài sản và
đảm bảo độ tin cậy của sổ sách tài chính kế toán, kiểm soát phải đảm bảo:
+ Các nghiệp vụ được tiến hành theo sự chỉ đạo chung hoặc cụ thể của
quản lý.
+ Các nghiệp vụ được ghi sổ là cần thiết để giúp chuẩn bị các báo cáo
tài chính đúng theo quy định và duy trì khả năng hạch toán của tài sản.
+ Các hoạt động đều được ghi nhận vào các thời điểm thích hợp, giúp
cho việc thiết lập thông tin kinh tế tài chính phù hợp với các chuẩn mực kế
toán, thể hiện chính xác, toàn diện nguồn lực hiện có của đơn vị và phải có sự
điều chỉnh khi có những chênh lệch.
+ Cung cấp căn cứ đề ra quyết định xử lý sai lệch, rủi ro có thể gặp
phải.
Như vậy kiểm soát kế toán chỉ quan tâm đến hoạt động tài chính của
đơn vị được phản ánh trên các tài liệu kế toán. Trong khi đó kiểm soát quản lý
yêu cầu một phạm vi rộng hơn của các đối tượng kiểm soát theo mục tiêu
quản lý của toàn bộ tổ chức. Tuy nhiên kiểm soát kế toán lại có vai trò là cơ
sở cho kiểm soát quản lý. Các chứng từ kế toán không chỉ là sự thông tin mà
còn là minh chứng pháp lý cho sự hình thành các nghiệp vụ kinh tế. Từ đó
kiểm soát kế toán có thể hình thành phương pháp tự kiểm soát: đối ứng tài
19
khoản không chỉ là phương pháp phân loại, phản ánh sự vận động của tài sản
mà còn lại phương pháp kiểm tra những quan hệ cân đối cụ thể; tổng hợp –
cân đối kế toán không chỉ cung cấp những thông tin tổng hợp mà còn là
phương pháp kiểm tra kết quả cân đối tổng quát trong thông tin kế toán.
(2) Căn cứ vào mục tiêu của kiểm soát: kiểm soát ngăn ngừa, kiểm soát

phát hiện và kiểm soát điều chỉnh
- Kiểm soát ngăn ngừa là kiểm soát tập trung vào việc ngăn chặn các
sai phạm hoặc các điều kiện dẫn đến sai phạm. Kiểm soát này thường được
thực hiện trước khi nghiệp vụ xảy ra và thực hiện ngay trong công việc hàng
ngày của nhân viên theo chức năng: phân chia trách nhiệm, giám sát, kiểm tra
tính hợp lý, sự đầy đủ và chính xác.
- Kiểm soát phát hiện là kiểm soát tập trung vào việc phát hiện các gian
lận, sai sót, sai lầm và rủi ro trong quá trình tác nghiệp một cách nhanh chóng,
giúp các cấp lãnh đạo có những quyết định xử lý kịp thời, hạn chế tới mức
thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra. Kiểm soát phát hiện và kiểm soát
ngăn ngừa có quan hệ bổ sung cho nhau trong việc thực hiện các mục tiêu
kiểm soát, do kiểm soát phát hiện thường được thực hiện sau khi quá trình tác
nghiệp đã xảy ra giúp cho việc phát hiện các sai phạm “lọt lưới” kiểm soát
phòng ngừa. Một ý nghĩa quan trọng của kiểm soát phát hiện là sự "răn đe"
làm tăng trách nhiệm của nhân viên trong quá trình thực hiện kiểm soát phòng
ngừa.
- Kiểm soát điều chỉnh hướng tới việc cung cấp những thông tin cần
thiết cho việc ra quyết định điều chỉnh các sai sót được phát hiện.
(3) Căn cứ vào thời điểm thực hiện trong quá trình tác nghiệp: kiểm
soát trước, kiểm soát hiện hành và kiểm soát sau.
- Kiểm
soát trước hay còn gọi là kiểm soát lường trước, kiểm soát hướng về tương
20
lai. Mục đích của kiểm soát này là nhằm khắc phục độ trễ thời gian trong
kiểm soát thực hiện, nó tiên liệu những diễn biến có thể xảy ra trong quá trình
tác nghiệp, đề phòng những rủi ro và các khó khăn tiềm ẩn. Hoạt động kiểm
soát này đặc biệt quan trọng, tuy nhiên nó chưa phổ biến về mặt kỹ thuật và
còn rất hạn chế do yêu cầu về con người thực hiện kiểm soát phải là những
người thực sự có trình độ và có nhiều kinh nghiệm thực tế để có thể tiên liệu
trước những rủi ro có thể xảy ra, mặt khác chi phí cho hoạt động này khá lớn.

- Kiểm soát hiện hành hay còn gọi là kiểm soát tác nghiệp là hoạt động
kiểm soát được tiến hành ngay trong quá trình tác nghiệp nhằm ngăn ngừa,
phát hiện kịp thời những sai lầm có thể xảy ra trong quá trình thực hiện các
thao tác tác nghiệp. Do vậy nếu làm tốt công tác kiểm soát tác nghiệp thì mức
độ rủi ro trong quá trình tác nghiệp sẽ giảm đi, đảm bảo được hiệu quả công
việc ở mức tốt nhất.
- Kiểm soát sau khi tác nghiệp hay còn gọi là kiểm soát thông tin
phản hồi (còn gọi là kiểm soát thông tin trở về trước) là hoạt động kiểm soát
thông dụng nhất hiện nay. Mặc dù bị độ trễ thời gian song bù lại kiểm soát
sau khi tác nghiệp lại có đầy đủ căn cứ đề đánh giá, đo lường kết quả tác
nghiệp.
(4) Kiểm soát nội bộ:
Kiểm soát nội bộ là một hệ thống gồm các chính sách, thủ tục
được thiết lập tại đơn vị nhằm đảm bảo cho các nhà quản lý đạt được các mục
đích: bảo vệ tài sản, bảo đảm tin cậy của hệ thống thông tin, duy trì và kiểm
tra tuân thủ các chính sách liên quan đến hoạt động của đơn vị, đảm bảo hiệu
quả hoạt động và hiệu năng quản lý.
Kiểm soát nội bộ là một chức năng quản lý, trong phạm vi một
đơn vị cơ sở. Kiểm soát nội bộ là việc tự kiểm tra và giám sát mọi hoạt động
trong tất cả các khâu của quá trình quản lý nhằm đảm bảo các hoạt động đúng
21
pháp luật và đạt được các kế hoạch, mục tiêu đề ra với hiệu quả kinh tế cao
nhất và đảm bảo sự tin cậy của báo cáo tài chính.
1.4.2. Kiểm soát quyết toán chi ngân sách nhà nước và các nhân tố ảnh
hưởng
1.4.2.1. Khái niệm kiểm soát quyết toán chi ngân sách nhà nước
Như chúng ta đã biết, nguồn vốn NSNN là có hạn, đặc biệt là trong
điều kiện hiện nay của nước ta, khả năng dự đoán diễn biến về kinh tế - xã hội
chưa cao nên chắc chắn giữa dự toán và thực tế chấp hành chi ngân sách sẽ có
những khoảng cách nhất định, quyền tự chủ về tài chính của các đơn vị, địa

phương đã và đang phát huy thì quyền điều phối của Chủ tịch UBND các cấp,
thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách là rất lớn, vì vậy việc Nhà nước thiết lập
cơ chế kiểm tra, kiểm soát quyết toán ngân sách là vô cùng cần thiết.
Kiểm soát quyết toán chi NSNN là hoạt động kiểm soát sau cùng của
một chu trình ngân sách, nó có mối quan hệ mật thiết với quá trình quản lý
NSNN cũng như các đơn vị sử dụng ngân sách, chức năng của kiểm soát bắt
đầu từ việc xác định các mục tiêu và kết thúc khi đạt được các mục tiêu đó.
Do vậy muốn quản lý NSNN đạt hiệu quả cao và tránh những tổn thất lãng
phí thì phải làm tốt tất cả các khâu của quá trình quản lý NSNN trong đó có
kiểm soát quyết toán chi NSNN.
1.4.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng công tác kiểm soát quyết toán chi ngân
sách nhà nước
(1) Mức độ phân cấp quản lý ngân sách: Hệ thống các cấp NSNN luôn
gắn liền với hệ thống chính quyền nhà nước, quyền và nghĩa vụ của mỗi cấp
ngân sách được thực hiện thông qua cơ chế phân cấp quản lý ngân sách. Mỗi
cấp ngân sách được phân định một số nguồn thu và nhiệm vụ chi nhất định.
Cơ chế phân cấp ảnh hưởng trực tiếp và quyết định tới công tác kiểm soát
quyết toán chi NSNN. Tương ứng với mỗi hệ thống phân cấp quản lý ngân
22
sách sẽ có phương thức hạch toán kế toán ngân sách riêng vì vậy cách thức
kiểm soát quyết toán riêng. Kiểm soát quyết toán chi NSNN là một chức năng
của công tác quản lý chi NSNN. Trong phạm vi một đơn vị thì đó là hoạt
động tự kiểm tra hay giám sát, trong phạm vi chính quyền địa phương thì đó
là hoạt động kiểm tra, giám sát của cơ quan tài chính đối với các đơn vị thụ
hưởng ngân sách, của cơ quan tài chính cấp trên đối với cơ quan tài chính cấp
dưới nhằm đảm bảo việc thực hiện chi ngân sách, báo cáo quyết toán chi ngân
sách được thực hiện đúng pháp luật, phản ánh đúng kế hoạch và mục tiêu đề
ra với hiệu quả cao nhất.
(2) Đặc điểm chính trị, kinh tế - xã hội; trình độ, năng lực, nhận thức
của nhà quản lý (môi trường kiểm soát):

Ở một nền kinh tế phát triển, trình độ dân trí, trình độ quản lý, môi
trường pháp luật ở mức phát triển thì quyết toán NSNN được thiết kế rõ ràng,
minh bạch hơn. Ngược lại, trong điều kiện một nền kinh tế phát triển thấp, ý
thức chấp hành pháp luật chưa cao, trình độ quản lý yếu kém, môi trường
pháp luật chưa phát triển thì việc kiểm soát quyết toán là rất cần thiết, tập
trung chủ yếu đến các vấn đề về số liệu quyết toán cũng như tính tuân thủ các
tiêu chuẩn, chính sách, chế độ, định mức chi của từng đơn vị, địa phương.
Môi trường kiểm soát thể hiện ở thái độ, khả năng, sự nhận biết của nhà
quản lý về các chính sách, các thủ tục kiểm soát chi NSNN và các hoạt động
kiểm soát của họ trong công tác quản lý chi, quyết toán chi NSNN. Ngoài ra,
tính trung thực, giá trị đạo đức, trình độ năng lực của cán bộ, nhân viên, cơ
cấu tổ chức, sự phân công trách nhiệm, sự phân chia quyền lực, chính sách về
nhân sự trong đơn vị cũng là những yếu tố không nhỏ ảnh hưởng tới công tác
kiểm soát chi NSNN.
(3) Hệ thống kế toán:
23
Kế toán là công cụ quan trọng phục vụ cho việc quản lý tài chính ngân
sách nói chung và NSNN nói riêng. Hệ thống kế toán quốc gia phát triển là
điều kiện để cung cấp thông tin về ngân sách một cách tốt nhất. Hệ thống kế
toán đồng bộ, rõ ràng, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được ghi chép phản ảnh
kịp thời là điều kiện để quyết toán ngân sách được tốt hơn.
Hệ thống thông tin kế toán phản ánh thực tế tình hình chi tiêu NSNN
theo những khoản mục quy định của từng cấp ngân sách nói chung, từng đơn
vị thụ hưởng ngân sách nói riêng. Hệ thống thông tin kế toán thực hiện
nghiêm túc sẽ là điều kiện phát huy tác dụng tự kiểm tra, kiểm soát tại đơn vị,
đảm bảo số liệu quyết toán trung thực, đầy đủ, chính xác và đúng chế độ quy
định.
(4) Hệ thống thông tin tài chính và sự phát triển của công nghệ thông
tin: Hệ thống thông tin tài chính được hiểu là tổng thể các thông tin tài chính
quốc gia được tập hợp và cung cấp cho các cơ quan nhà nước trong việc quản

lý tài chính ngân sách quốc gia.
Nếu hệ thống thông tin tài chính được tổ chức thống nhất giữa các cơ
quan quản lý ngân sách, giữa các cấp ngân sách, các đơn vị sử dụng ngân sách
thì việc tập hợp số liệu quyết toán sẽ nhanh chóng tiện lợi, kiểm soát quyết
toán được dễ dàng và chặt chẽ hơn. Các chỉ tiêu kế toán ngân sách phù hợp
với các chỉ tiêu hạch toán các cấp ngân sách của hệ thống KBNN, cơ quan tài
chính sẽ là cơ sở quan trọng để lập, kiểm soát quyết toán. Nếu hệ thống thông
tin không phù hợp sẽ làm cho công tác lập và kiểm soát quyết toán ngân sách
gặp nhiều phức tạp và khó khăn.
Bên cạnh đó, để hệ thống thông tin tài chính ngân sách được cung cấp
một cách đầy đủ, kịp thời, nhanh chóng thì sự phát triển của công nghệ thông
tin để đáp ứng yêu cầu là việc không thể thiếu. Trong điều kiện công nghệ
thông tin kém phát triển, hoạt động kế toán ngân sách được thực hiện chủ yếu
24
bằng phương pháp thủ công, hệ thống thông tin tài chính sẽ chậm và thiếu độ
chính xác, công tác kiểm soát quyết toán khó khăn làm ảnh hưởng đến tiến độ
và chất lượng quyết toán ngân sách.
(5) Mức độ phát triển của hệ thống kiểm toán quốc gia: Việc kiểm toán
quyết toán là một phần công việc của quyết toán ngân sách nên sự chi phối
của hoạt động kiểm toán đến quyết toán NSNN mang tính trực tiếp. Một quốc
gia có hệ thống kiểm toán phát triển mạnh, tính tin cậy của quyết toán ngân
sách được đề cao thì việc kiểm soát quyết toán cũng sẽ được chú trọng và
tăng cường hơn nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sự sai sót trong quá trình
chấp hành ngân sách.
(6) Các thủ tục kiểm soát: trên cơ sở Luật NSNN, mục lục NSNN, các
chế độ quy định chi tiêu ngân sách, các thể thức kiểm tra, kiểm soát đối với
công tác quyết toán chi NSNN được xây dựng, đảm bảo những hoạt động cần
thiết sẽ được thiết lập và thực hiện nhằm đạt được các kế hoạch và mục tiêu
đề ra.
1.4.3. Nội dung kiểm soát quyết toán chi ngân sách địa phương

Kiểm soát quyết toán chi NSNN là hoạt động kiểm soát sau cùng của
một chu trình ngân sách, nó có mối quan hệ mật thiết với quá trình quản lý
NSNN cũng như các đơn vị sử dụng ngân sách, trong đó khâu lập và chấp
hành dự toán có một vai trò vô cùng quan trọng, quyết định đến chất lượng
kiểm soát quyết toán chi ngân sách. Vì vậy, để nghiên cứu đầy đủ về công tác
kiểm soát quyết toán chi NSĐP, chúng ta hãy tìm hiểu sơ lược về nội dung
của công tác kiểm soát lập, chấp hành dự toán, nghiên cứu cụ thể về nội dung
và quy trình kiểm soát quyết toán chi NSĐP.
25

×