Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

BÁO cáo môi TRƯỜNG QUỐC GIA 2006 CHƯƠNG IV TÌNH HÌNH QUẢN lý CHẤT LƯỢNG nước tại 3 lưu vực SÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474 KB, 14 trang )

BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2006
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC 3 LƯU VỰC SÔNG: CẦU, NHUỆ - ĐÁY, HỆ THỐNG SÔNG ĐỒNG NAI

Chương IV.
TÌNH HÌNH QUẢN LÝ
CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG
4.1. BAN HÀNH CHÍNH SÁCH, PHÁP
LUẬT LIÊN QUAN
Bảo vệ môi trường nước các lưu vực
sông là một trong những nội dung cơ
bản của quy hoạch khai thác, sử dụng
và quản lý tài nguyên nước trong lưu
vực sông. Tuy nhiên, vấn đề này hiện
nay lại do nhiều hệ thống pháp luật
cùng điều chỉnh và do nhiều Bộ, ngành
cùng quản lý. Vì vậy, công tác quản lý
các lưu vực sông đã bộc lộ nhiều bất cập
như việc khó phân định trách nhiệm,
thẩm quyền rõ ràng giữa các Bộ, ngành;
việc quản lý các lưu vực sông theo ranh
giới hành chính; việc chưa có cơ chế huy
động nguồn lực từ các tổ chức tư nhân,
phi chính phủ, các tổ chức quốc tế, cộng
đồng tham gia chủ động vào việc phát
triển và bảo vệ tài nguyên nước...
Trong thời gian qua nhiều văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan được
ban hành đã góp phần luật hoá công tác
quản lý môi trường và bảo vệ nguồn
nước các lưu vực sông. Trong đó có thể
kể ra các văn bản quy phạm pháp luật


quan trọng như: Luật Bảo vệ môi trường
(2005), Luật Tài nguyên nước (1998),
Luật Đất đai (2003), hệ thống Tiêu
chuẩn Việt Nam - Các tiêu chuẩn chất
lượng nước sông, hồ (ban hành năm
1995, sửa đổi năm 2001 và 2005), và
hàng loạt các văn bản dưới luật khác.
Liên quan đến quản lý và bảo vệ môi
trường LVS, Luật Bảo vệ môi trường 2005
đã đưa ra các điều khoản quy định việc
quản lý chất lượng nước và bảo vệ môi
trường nước sông (Khung 4.1 và 4.2).

Khung 4.1. Nội dung về bảo vệ môi trường
nước sông theo Luật BVMT 2005
Mục 2, Chương VII gồm các Điều 59, 60, 61,
62 về Bảo vệ môi trường nước sông, cụ thể là:
- Điều 59 quy định các nguyên tắc bảo vệ môi
trường nước sông.
- Điều 60 quy định về kiểm soát, xử lý ô
nhiễm, suy thoái môi trường nước trong lưu
vực sông.
- Điều 61 quy định về trách nhiệm của UBND
cấp tỉnh đối với bảo vệ môi trường nước trong
lưu vực sông.
- Điều 62 quy định về tổ chức bảo vệ môi
trường nước của LVS.

Khung 4.2. Luật Bảo vệ môi trường, Điều 59:
Nguyên tắc bảo vệ môi trường nước sông

1. Bảo vệ môi trường nước sông là một trong
những nội dung cơ bản của quy hoạch khai
thác, sử dụng và quản lý tài nguyên nước
trong lưu vực sông.
2. Các địa phương trên lưu vực sông phải
cùng chịu trách nhiệm bảo vệ môi trường
nước trong lưu vực sông; chủ động hợp tác
khai thác nguồn lợi do tài nguyên nước trong
lưu vực sông mang lại và bảo đảm lợi ích cho
cộng đồng dân cư.

Các tiêu chuẩn Việt Nam về môi
trường liên quan đến bảo vệ môi trường
nước sông, hồ cho các mục đích sử dụng
nước được ban hành lần đầu tiên vào
năm 1995, sửa đổi năm 2001 và 2005.
Năm 2005, Bộ Khoa học và Công nghệ
đã ký quyết định ban hành một số tiêu
chuẩn liên quan đến tiêu chuẩn thải đối
với nước thải và khí thải. Tuy nhiên, các
tiêu chuẩn liên quan đến trầm tích đáy
và bùn thải vẫn chưa được xây dựng và
ban hành.

Chương 4: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG

61


BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2006

HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC 3 LƯU VỰC SÔNG: CẦU, NHUỆ - ĐÁY, HỆ THỐNG SÔNG ĐỒNG NAI

Luật Tài nguyên Nước (1998) có các
quy định liên quan đến nước mặt, nước
mưa, nước dưới đất và nước biển. Luật
nghiêm cấm thải các chất thải độc hại,
nước thải chưa qua xử lý hoặc nước thải
đã qua xử lý nhưng chưa đạt tiêu chuẩn
môi trường cho phép vào nguồn nước.
Việc cấp phép xả thải phải căn cứ vào
khả năng chịu tải của nguồn tiếp nhận.
Nước thải phải được xử lý đạt các tiêu
chuẩn cho phép trước khi xả thải.
Song, việc áp dụng và thực thi Luật
Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên
nước và Hệ thống Tiêu chuẩn Việt Nam
về môi trường nhằm mục tiêu kiểm soát
ô nhiễm và quản lý chất lượng nước vẫn
còn nhiều hạn chế, bất cập.
4.2. TỔ CHỨC QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
LƯU VỰC SÔNG
4.2.1. Cấp quốc gia
Tháng 8/2002, Quốc hội đã quyết
định thành lập Bộ TN&MT và ngày
11/11/2002, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 91/2002/NĐ-CP quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Bộ TN&MT. Theo đó,
Bộ có chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà
nước đối với tài nguyên và môi trường

trong 6 lónh vực: tài nguyên đất, tài
nguyên nước, tài nguyên khoáng sản,
môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc
và bản đồ. Việc giao chức năng quản lý
tài nguyên nước từ Bộ NN&PTNT sang
Bộ TN&MT đã tách quản lý Nhà nước
về tài nguyên nước ra khỏi quản lý theo
mục đích sử dụng.
Trong thời gian qua, Bộ TN&MT đã
đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện thể
chế về quản lý tài nguyên nước, trình
Chính phủ ban hành nhiều Nghị định
hướng dẫn thi hành Luật Tài nguyên
nước trình Thủ tướng Chính phủ quyết

62

định phê duyệt Chiến lược Tài nguyên
nước quốc gia đến năm 2020; xúc tiến
xây dựng quy hoạch một số lưu vực
sông qua đó tăng cường đáng kể công
tác quản lý tài nguyên nước. Tuy nhiên,
việc quy định quản lý lưu vực sông còn
có sự chồng chéo, thể hiện ở chỗ Nghị
định 91/2003/NĐ-CP giao Bộ TN&MT
quản lý nhà nước tài nguyên nước còn
Nghị định 86/2004/NĐ-CP lại giao Bộ
NN&PTNT quản lý vật thể chứa nước
(lưu vực sông), gây khó khăn cho việc
quản lý thống nhất tài nguyên nước.

Tuy nhiên, các quyết định gần đây
của Thủ tướng Chính phủ đã phân định
rõ vai trò của các cơ quan liên quan
trong một số công việc cụ thể. Chẳng
hạn
như
tại
Quyết
định
số
123/2006/QĐ-TTg ngày 03/6/2006, Thủ
tướng Chính phủ đã giao Bộ TN&MT
chức năng lập quy hoạch về sử dụng,
quản lý tổng hợp và bảo vệ tài nguyên
nước ở các lưu vực sông chính và giao Bộ
NN&PTNT thực hiện chức năng rà soát,
sửa đổi, bổ sung quy hoạch phát triển hệ
thống tưới tiêu, rừng và nông nghiệp đặc
biệt là cho các mục đích sử dụng nước
trong tưới tiêu, cấp nước, phát triển thủy
điện và nuôi trồng thủy sản.
Trên cơ sở Luật Tài nguyên nước, Hội
đồng Quốc gia về tài nguyên nước đã
được thành lập theo quyết định số
67/2000/QĐ-TTg ngày 15/6/2000. Theo
chức năng của mình và với các uỷ viên
là đại diện các Bộ ngành liên quan, Hội
đồng sẽ giúp tiến tới quản lý tài nguyên
nước một các tổng hợp. Đồng thời Hội
đồng sẽ tư vấn cho Chính phủ về các

vấn đề chính sách, chiến lược và thông
qua quy hoạch lưu vực sông và các dự
án lớn về phát triển nguồn nước, giải
quyết tranh chấp về nước và các khía
cạnh Quốc tế về phát triển và quản lý
tài nguyên nước.

Chương 4: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG


BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2006
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC 3 LƯU VỰC SÔNG: CẦU, NHUỆ - ĐÁY, HỆ THỐNG SÔNG ĐỒNG NAI

Khung 4.3. Trách nhiệm có liên quan đến tài nguyên nước của một số Bộ
Bộ TN&MT

Quản lý tài nguyên nước, chất lượng nước
Lập quy hoạch về sử dụng, quản lý tổng hợp và bảo vệ tài nguyên nước ở
các lưu vực sông chính

Bộ NN&PTNT

Tưới tiêu, phòng chống lụt bão, cấp nước sinh hoạt nông thôn , quản lý các công
trình thủy lợi và đê điều

Bộ KHĐT

Hướng dẫn và kiểm tra các Bộ ngành về việc lập và thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế -xã hội


Bộ Công nghiệp

Phát triển thủy điện thông qua Tổng Công ty điện lực Việt Nam

Bộ KH&CN

Thẩm định dự thảo và công bố các tiêu chuẩn chất lượng nước do Bộ
TN&MT xây dựng

Bộ Xây dựng

Quản lý các công trình công cộng đô thị; Thiết kế và xây dựng các công trình
cấp thoát nước đô thị

Bộ Giao thông
vận tải

Quản lý và phát triển giao thông đường thủy; Quản lý công trình thủy và hệ
thống cảng

Bộ Thủy sản

Quản lý nước dùng cho nuôi trồng và chế biến thủy sản

Bộ Y tế

Quản lý chất lượng nước uống; Chịu trách nhiệm thiết lập và giám sát các
tiêu chuẩn chất lượng nước

Bộ Tài chính


Xây dựng các chính sách về thuế và phí đối với tài nguyên nước

4.2.2. Cấp liên vùng và địa phương
Ở cấp độ liên vùng, một số tổ
chức/Ủy ban LVS đã được thành lập. Bộ
NN&PTNT đã có các quyết định thành
lập Ban quản lý quy hoạch các lưu vực
sông: Cửu Long, Đồng Nai và HồngThái Bình. Dưới sự chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ và Bộ TN&MT, Ban chỉ
đạo lâm thời khai thác và bảo vệ LVS
Cầu đã được thành lập theo thỏa thuận
của 6 tỉnh trong lưu vực và Ủy ban bảo
vệ môi trường LVHTS Đồng Nai được
thành lập theo thỏa thuận của 11 tỉnh,
thành phố trong lưu vực.

Tuy nhiên, trên thực tế, các Tổ
chức/Ủy ban đã được thành lập này
hoặc đến nay không còn hoạt động hoặc
hoạt động chưa thực sự hiệu quả.
Ở các địa phương, từ năm 2003 (sau
khi thành lập Bộ TN&MT), các cơ quan
quản lý tài nguyên và môi trường đã
được thành lập. Các Sở TN&MT đều có
Phòng quản lý môi trường (Tp. Hồ Chí
Minh có Chi Cục BVMT). Một số tỉnh cũng
đã thành lập các Trung tâm Quan trắc.
Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên
nước ở các địa phương bước đầu được

quan tâm.

Chương 4: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG

63


BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2006
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC 3 LƯU VỰC SÔNG: CẦU, NHUỆ - ĐÁY, HỆ THỐNG SÔNG ĐỒNG NAI

Khung 4.4. Mô hình hoạt động phối hợp
bảo vệ môi trường ở LVHTS Đồng Nai
- Tháng 11 năm 2001, đại diện của 11 UBND
các tỉnh, thành phố trong lưu vực đã thoả
thuận và thành lập Uỷ ban bảo vệ môi trường
lưu vực sông Đồng Nai.
- Ngày 28/12/2001, tại Tp. Hồ Chí Minh đã tổ
chức Hội nghị Chủ tịch UBND các tỉnh/thành
phố trên lưu vực để thảo luận về hợp tác giữa
các địa phương trong việc quản lý nguồn nước
toàn LVS.
- Ngày 21/3/2002, Chính phủ có công văn số
291/CP-KG về việc xây dựng Đề án tổng thể
về bảo vệ môi trường nước LVS. Trong đó,
Chính phủ giao UBND Tp. Hồ Chí Minh chủ trì,
phối hợp với UBND các tỉnh trong lưu vực xây
dựng Đề án. Hiện, Đề án bảo vệ môi trường
LVS Đồng Nai-Sài Gòn đã xây dựng xong và
đang trình Chính phủ xem xét.
- Tháng 5/2004, Bộ TN&MT đã phối hợp với

các địa phương thuộc lưu vực và các cơ quan
khoa học họp bàn triển khai Chương trình
BVMT lưu vực sông Đồng Nai-Sài Gòn.
- Ngày 31/5/2005, Bộ TN&MT và UBND
Tp.Hồ Chí Minh đã phối hợp với các địa
phương thuộc lưu vực tổ chức Hội nghị bàn
tròn đánh giá tình hình thực hiện cam kết hợp
tác bảo vệ môi trường lưu vực sông Đồng NaiSài Gòn.
- Ngày 25/12/2005, Bộ TN&MT cùng các tỉnh
trong lưu vực đã đồng thuận cam kết gồm 8
điểm về các biện pháp xử lý ô nhiễm môi
trường trên lưu vực sông.

Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các cơ
quan Bộ, ngành và địa phương để giải
quyết các vấn đề về LVS còn yếu. Giữa
các địa phương trong cùng lưu vực chưa
tìm được tiếng nói chung, chưa thống
nhất và hợp tác chặt chẽ trong công tác
quản lý môi trường lưu vực. Quan niệm
về trách nhiệm của địa phương, các
ngành về bảo vệ môi trường LVS là chưa
đầy đủ. Nhiều địa phương quan niệm
không đúng về mục đích bảo vệ môi
trường LVS, về vai trò và trách nhiệm
của địa phương trong tổ chức bảo vệ
môi trường LVS.

64


Khung 4.5. Mô hình hoạt động phối hợp
bảo vệ môi trường ở LVS Nhuệ-Đáy
- Ngày 07/8/2003, tại thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà
Nam, Lãnh đạo UBND 6 tỉnh/thành thuộc LVS
Nhuệ - Đáy ký cam kết bảo vệ môi trường LVS.
- Thủ tướng Chính phủ đã giao UBND thành
phố Hà Nội chủ trì, phối hợp với các
tỉnh/thành trong lưu vực xây dựng Đề án bảo
vệ môi trường LVS. Tuy nhiên, đến nay Đề án
vẫn chưa được trình Chính phủ do UBND
thành phố Hà Nội có công văn về việc từ chối,
không nhận làm đầu mối chủ trì thực hiện
nhiệm vụ này.
Khung 4.6. Mô hình hoạt động phối hợp
bảo vệ môi trường ở LVS Cầu
Chủ tịch UBND 6 tỉnh thuộc LVS Cầu đã
nhóm họp nhiều lần, đã ký Thỏa ước về hợp
tác bảo vệ và khai thác bền vững LVS Cầu,
phấn đấu đến năm 2010, môi trường sinh thái,
cảnh quan sông Cầu và lưu vực đảm bảo đầy
đủ các yếu tố về kinh tế, văn hóa và môi
trường.
Đề án Tổng thể bảo vệ và phát triển bền vững
môi trường sinh thái, cảnh quan LVS Cầu đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo
Quyết định số 174/2006/QĐ-TTg, ngày
28/7/2006. Đây là quyết định quan trọng
nhằm từng bước xử lý ô nhiễm, cải thiện và
nâng cao chất lượng môi trường nước của
dòng sông này, phục vụ mục tiêu phát triển

kinh tế xã hội từ nay đến năm 2020.
Ngày 8/11/2006, Bộ TN&MT phối hợp với Uỷ
ban nhân dân tỉnh Thái nguyên tổ chức Hội
nghị triển khai Đề án tổng thể bảo vệ và phát
triển bền vững môi trường sinh thái, cảnh
quan LVS Cầu. Hội nghị đã thống nhất kết
luận gồm 5 điểm để sớm triển khai thành
công Đề án này.

Hội nghị triển khai đề án tổng thể phát triển bền vững
môi trường sinh thái, cảnh quan lưu vực sông Cầu

Chương 4: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG


BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2006
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC 3 LƯU VỰC SÔNG: CẦU, NHUỆ - ĐÁY, HỆ THỐNG SÔNG ĐỒNG NAI

4.3. THỰC HIỆN CÔNG TÁC ĐÁNH
GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG VÀ
CẤP PHÉP XẢ NƯỚC THẢI
Tình hình thực hiện công tác ĐTM
Trong những năm qua, công tác
ĐTM ở Việt Nam đã được triển khai
một cách có hệ thống từ Trung ương
đến địa phương, đều khắp ở mọi
ngành trong cả nước và ngày càng
mạnh mẽ. Tổng số báo cáo ĐTM và
bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi
trường được phê duyệt và thẩm định

trong 10 năm qua ngày càng tăng ở cả
cấp Trung ương và địa phương. Tuy
nhiên, công tác này vẫn còn một số
hạn chế như: tỷ lệ báo cáo ĐTM và
bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi
trường được thẩm định và phê duyệt
trên tổng số các dự án và cơ sở thuộc
diện phải lập báo cáo ĐTM còn thấp;
số báo cáo ĐTM và bản đăng ký đạt
tiêu chuẩn môi trường được phê duyệt
giữa các tỉnh/thành cũng không đồng
đều; hoạt động sau thẩm định báo cáo
ĐTM còn rất yếu; nhiều dự án được
phê duyệt nhưng sau đó không xây
dựng các công trình xử lý nước thải
hoặc có xây dựng nhưng không vận
hành đúng quy cách thiết kế... Tại các
tỉnh, thành phố thuộc 3 LVS, tình hình
lập và thẩm định báo cáo ĐTM cũng
tương tự như vừa nêu. Song, cần phải
nói rằng nỗ lực thực hiện công tác
ĐTM của các tỉnh/thành phố trong các
LVS thời gian qua là rất đáng khích lệ,
góp phần không nhỏ để bảo vệ môi
trường các LVS.

Khung 4.7. Tình hình thẩm định báo cáo
ĐTM tại một số tỉnh thuộc 3 lưu vực sông
- Tại Bắc Ninh: trong 10 năm qua, Hội đồng
thẩm định báo cáo ĐTM tỉnh Bắc Ninh đã

thẩm định và cấp quyết định phê chuẩn cho
132 cơ sở hoạt động và các dự án đầu tư trên
434 tổ chức, cá nhân được cấp đất (chiếm
30,4%) nằm trong và ngoài KCN trên địa bàn
toàn tỉnh.
- Tại Vónh Phúc: đến nay, trên địa bàn tỉnh đã
có 48 doanh nghiệp lập báo cáo ĐTM và 143
doanh nghiệp thực hiện việc đăng ký đạt tiêu
chuẩn môi trường, chiếm khoảng 56,8%.
- Tại Bình Dương: Tính đến tháng 10/2004,
toàn tỉnh đã có 1.785 doanh nghiệp lập và
thẩm định báo cáo ĐTM hoặc bản đăng ký đạt
tiêu chuẩn môi trường (kể cả 71 báo cáo ĐTM
do Bộ TN&MT thẩm định). Tất cả các khu
công nghiệp đều lập báo cáo ĐTM, đã được
Bộ TN&MT thẩm định và phê chuẩn theo
phân cấp.
- Tại Đồng Nai: Theo phân cấp, đến năm
2004, Sở TN&MT tỉnh Đồng Nai đã tổ chức
thẩm định 373 báo cáo ĐTM và 770 bản đăng
ký đạt tiêu chuẩn môi trường. Đối với các cơ
sở thuộc diện phải kê khai về môi trường, Sở
đã cấp phiếu xác nhận kê khai về môi trường
cho 820 cơ sở
Nguồn: Kỷ yếu tổng kết 10 năm công tác
đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam,
tháng 12/2004

cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài
nguyên nước, xả nước thải vào nguồn

nước và Bộ TN&MT cũng đã ban hành
Thông tư số 02/2005/TT-BTNMT ngày
24-6-2005 hướng dẫn việc thực hiện Nghị
định này.

Tình hình cấp phép xả nước thải ở 3
lưu vực sông
Việc xin và cấp phép xả nước thải vào
nguồn nước đã được quy định tại Điều
18, Luật Tài nguyên nước. Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 149/2004/NĐ-CP
ngày 27/7/2004 quy định cụ thể về việc

Sông Nhuệ - đoạn chảy qua xã Tả Thanh Oai Thanh Trì, Hà Nội
Nguồn: Ảnh tư liệu

Chương 4: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG

65


BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2006
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC 3 LƯU VỰC SÔNG: CẦU, NHUỆ - ĐÁY, HỆ THỐNG SÔNG ĐỒNG NAI

Theo báo cáo của các địa phương,
nhiều nơi đã thực hiện việc thống kê các
cơ sở xả thải thuộc diện phải xin cấp
phép, nhưng cho đến nay trên cả 3 lưu
vực sông, số lượng giấy phép xả nước
thải vào nguồn nước cấp được còn rất ít

so với số lượng các đối tượng phải xin
cấp phép. Tính đến cuối tháng 6 năm
2006, mới có rất ít giấy phép được cấp
trong tổng số khoảng hàng trăm các cơ
sở sản xuất kinh doanh thuộc diện
phải xin cấp phép xả nước thải, cho
thấy công tác này mới chỉ được bắt
đầu và cần triển khai mạnh mẽ trong
thời gian tới.
4.4. ÁP DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ
Công cụ kinh tế như phí, thuế, quỹ…
đóng vai trò quan trọng trong quản lý
môi trường LVS. Công cụ kinh tế sử
dụng lợi ích vật chất và sức mạnh của
thị trường khiến cho các tổ chức và cá
nhân lựa chọn cách ứng xử hiệu quả
trong khai thác, sử dụng và bảo tồn
thiên nhiên, mà cụ thể là trong thủy
nông, cấp thoát nước đô thị và khắc
phục ô nhiễm nguồn nước, bao gồm:
định giá dịch vụ nước, tự chủ tài chính
của doanh nghiệp, thuế tài nguyên nước
và các thuế khác, chính sách huy động
vốn đầu tư phát triển, thu phí bảo vệ
môi trường đối với các hộ dân, cơ sở sản
xuất kinh doanh… trên LVS.

ưu đãi trong đó có 6 dự án về xây dựng
các trạm xử lý nước thải ở các khu công
nghiệp và nhà máy, chiếm hơn 41% số dự

án được quyết định cho vay vốn. Trong
đó có 3 dự án xây dựng trạm xử lý nước
thải của các công ty hoạt động trên địa
bàn 3 LVS là: Công ty Dệt Vónh Phú (Vónh
Phúc), Công ty Cổ phần giấy xuất khẩu
Thái Nguyên (Thái Nguyên) và Công ty
Dệt kim Đông Xuân (Hà Nội). Mặc dù số
dự án lập hồ sơ vay vốn và số dự án được
chấp thuận cho vay vốn tại các tỉnh, thành
phố thuộc 3 LVS là rất ít song đây là dấu
hiệu rất đáng mừng, tạo đà cho việc phát
triển và áp dụng các công cụ kinh tế khác
trong bảo vệ môi trường lưu vực sông.
Tình hình thực hiện Nghị định số
67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003 về
phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải
Tiếp theo việc bắt buộc ký quỹ bồi
hoàn môi trường trong khai thác khoáng
sản, Chính phủ đã ban hành Nghị định
67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003 về phí
bảo vệ môi trường đối với nước thải.
Đến nay, theo báo cáo của các Sở
TN&MT thuộc 3 LVS, trong năm 2005
các tỉnh/thành này đã thu được hơn
132,1 tỷ đồng; trong đó, phí nước thải
công nghiệp là hơn 13,4 tỷ đồng (chiếm

Tình hình hoạt động của Quỹ Bảo vệ
môi trường Việt Nam

Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam là tổ
chức tài chính nhà nước thực hiện chức
năng tài trợ tài chính trong lónh vực Bảo
vệ môi trường trên phạm vi cả nước mà
không vì mục đích lợi nhuận. Trong giai
đoạn từ năm 2004 đến nay, qua thực tế
xét duyệt dựa trên quy chế cho vay và
tiêu chí lựa chọn của Quỹ, đã có 13 dự án
được quyết định cho vay vốn với lãi suất

66

Hình 4.1. Tình hình thực hiện thu phí bảo vệ
môi trường đối với nước thải công nghiệp và
sinh hoạt năm 2005 tại 3 lưu vực sông
Nguồn: Bộ TN&MT tổng hợp, 2006

Chương 4: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG


BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2006
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC 3 LƯU VỰC SÔNG: CẦU, NHUỆ - ĐÁY, HỆ THỐNG SÔNG ĐỒNG NAI

khoảng 10,2%) và phí nước thải sinh hoạt
đạt hơn 118,7 tỷ đồng (chiếm khoảng
89,8%). Tỷ lệ phần trăm số tiền thu được
so với dự kiến tính toán là rất thấp, song
điều quan trọng là phần lớn các tỉnh,
thành phố trong lưu vực đều đã thu
được phí (trừ Hải Dương, Bắc Kạn, Hà

Tây và Ninh Bình). Trong đó có 12 tỉnh,
thành phố đã thu được đồng thời cả hai
loại phí nước thải sinh hoạt và nước thải
công nghiệp, tạo đà quan trọng cho việc
mở rộng áp dụng các công cụ kinh tế
trong bảo vệ môi trường nước LVS.
4.5. THỰC HIỆN KIỂM TRA, THANH TRA
Kiểm tra, thanh tra (định kỳ và đột
xuất) về hoạt động bảo vệ môi trường
của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ và KCN có nước thải công nghiệp
gây nguy cơ ô nhiễm nước sông là việc
làm hết sức cấp thiết nhằm bảo vệ môi
trường các lưu vực sông.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ về việc xử lý ô nhiễm
môi trường sông Thị Vải thuộc địa bàn
các tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và Đồng Nai,
Bộ TN&MT đã phối hợp với UBND hai
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Đồng Nai tổ
chức kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh
doanh và khu công nghiệp đang hoạt
động trên sông Thị Vải. Qua kết quả
kiểm tra tại chỗ và kết quả phân tích các
chỉ tiêu ô nhiễm trong nước thải của 77
cơ sở và KCN cho thấy hầu hết các cơ sở
sau khi được thẩm định Báo cáo ĐTM
hoặc Bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi
trường đã không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng các nội dung đã được

phê duyệt hoặc xác nhận; có 49/77 cơ sở
đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước
thải nhưng chỉ có 12 cơ sở xử lý đạt
TCVN (chiếm 15,6%); 28/77 cơ sở sản
xuất và KCN đã vi phạm các quy định
về xả nước thải vượt TCVN gây ô nhiễm

môi trường sông Thị Vải, một số cơ sở
và KCN có tải lượng các chất ô nhiễm
trong nước thải lớn; 8/12 KCN chưa xây
dựng trạm xử lý nước thải tập trung đáp
ứng yêu cầu xử lý nước thải của các dự
án trong KCN, nước thải có nhiều chỉ
tiêu ô nhiễm vượt TCVN.
Trong năm 2006, Bộ TN&MT cũng
phối hợp với các Sở TN&MT trên lưu vực
sông Nhuệ - Đáy và các cơ quan có liên
quan thành lập các Đoàn thanh tra, kiểm
tra các cơ sở, KCN và làng nghề đang
hoạt động trên lưu vực. Mục tiêu của đợt
thanh tra, kiểm tra này nhằm xác định
các nguồn thải gây ô nhiễm môi trường,
các cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng và các cơ sở thân thiện với
môi trường. Đối tượng kiểm tra, thanh tra
là các cơ sở có lưu lượng nước thải lớn, ô
nhiễm môi trường cao, đang xả nước thải
vào LVS Nhuệ - Đáy. Qua kiểm tra, thanh
tra về bảo vệ môi trường của 141 cơ sở,
KCN, cụm công nghiệp có nguy cơ gây ô

nhiễm môi trường cao trên lưu vực sông
Nhuệ - Đáy với tổng khối lượng nước
thải là 28.500m3/ngày đêm, chiếm 96,6%
lượng nước thải công nghiệp (theo thống
kê là 29.450 m3/ngày đêm, chưa bao gồm
các cơ sở nhỏ và hàng ngàn m3/ngày
đêm nước làm mát thiết bị), cho thấy: có
119 cơ sở thải nước ra sông Nhuệ - Đáy,
chiếm tỷ lệ 84,4%; có 75 cơ sở đã xử lý
nước thải (13.700 m3/ngày), chiếm tỷ lệ
48%, nhưng chỉ có 11 cơ sở xử lý đạt
TCVN (3.185 m3/ngày), chiếm tỷ lệ 10%
tổng lượng nước thải ra lưu vực. Qua kết
quả kiểm tra, thanh tra đã xử lý 40 cơ sở
vi phạm nghiêm trọng Luật Bảo vệ môi
trường với số tiền phạt là 249,2 triệu
đồng và phân loại, lập danh sách các cơ
sở theo mức độ vi phạm và hình thức xử
lý quy định tại Nghị định số
81/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 và Điều
49 Luật Bảo vệ môi trường.

Chương 4: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG

67


BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2006
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC 3 LƯU VỰC SÔNG: CẦU, NHUỆ - ĐÁY, HỆ THỐNG SÔNG ĐỒNG NAI


Mặc dù số lượng các cơ sở sản xuất,
kinh doanh, KCN và làng nghề đã tiến
hành kiểm tra là chưa đầy đủ so với tổng
số các cơ sở và KCN đang hoạt động
trên các lưu vực sông nói trên, nhưng
qua đó thể hiện sự nỗ lực vượt bậc và
quyết tâm cao của các cơ quan quản lý
nhằm bảo vệ môi trường lưu vực sông
trong khi nguồn lực cán bộ và tài chính
cho hoạt động này còn hạn chế.
4.6. THỰC HIỆN QUY HOẠCH LƯU
VỰC SÔNG
Quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông
Trong các hoạt động quy họach và
quản lý lưu vực sông, trước hết cần phải
kể đến quy hoạch tài nguyên nước lưu
vực sông. Trên phạm vi của các lưu vực
sông và các vùng lãnh thổ lớn, công tác
quy hoạch tài nguyên nước đến nay mới
đầu triển khai ở giai đoạn đầu. Ngày
13/02/1006, Bộ TN&MT đã có các
Quyết định phê duyệt đề cương và tổng
dự toán dự án Quy hoạch tài nguyên
nước lưu vực sông Đồng Nai, Vùng cực
Nam Trung Bộ và Vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ.
Các dự án quy hoạch đó đều có cùng
các mục tiêu là:
1. Xây dựng khuôn khổ chung cho
công tác bảo vệ, khai thác, phát triển và

sử dụng tài nguyên nước; phòng chống,
giảm thiểu tác hại do nước gây ra và bảo
vệ môi trường có liên quan đến tài nguyên
nước lưu vực sông (vùng lãnh thổ), bao
gồm xác định các mục tiêu, các vấn đề ưu
tiên và giải pháp tổng thể cho việc thực
hiện các mục tiêu đạt ra của quy hoạch;
2. Xác định các quy tắc, các họat động
cần thực hiện để quản lý sử dụng tổng
hợp và bền vững tài nguyên nước lưu
vực sông, bao gồm: Chia sẻ, khai thác,
sử dụng và phát triển tài nguyên nước;
Bảo vệ tài nguyên nước và các hệ sinh

68

thái dưới nước; Phòng, chống và giảm
thiểu tác hại do nước gây ra.
Phân vùng khai thác, sử dụng tài
nguyên nước và xả nước thải
Việc quy hoạch phân vùng khai thác,
sử dụng tài nguyên nước và xả nước
thải vào nguồn nước là hết sức quan
trọng. Khi chưa có các quy hoạch này,
sẽ xảy ra tình trạng trên một đoạn sông
phía trên thì nước thải được xả vào
sông, nhưng phía dưới lại lấy nước
dùng cho sinh họat. Vì vậy, tuy chưa có
quy hoạch đầy đủ về khai thác, sử dụng
và bảo vệ tài nguyên nước, nhưng một

số địa phương đã có quy định về phân
vùng khai thác, sử dụng tài nguyên
nước và xả nước thải vào nguồn nước,
đó là các tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng
Tàu. Đây là căn cứ tốt cho việc cấp
phép xả nước thải vào nguồn nước.
Tuy nhiên, để thực hiện tốt việc quản
lý tổng hợp lưu vực sông nhằm tránh
những xung đột, mâu thuẫn giữa các địa
phương, giữa các vùng thượng, trung và
hạ lưu các con sông, việc phân vùng
khai thác sử dụng tài nguyên nước và xả
nước thải vào nguồn nước cần được thực
hiện cho toàn lưu vực sông.
Quy hoạch của các ngành khai thác
sử dụng nước
Trong các quy hoạch của ngành khai
thác, sử dụng nước, quy hoạch thủy lợi
và quy hoạch thủy điện là hai ngành có
tác động lớn và trực tiếp làm thay đổi
nguồn nước. Các hồ, đập, công trình
thủy lợi, thủy điện đã điều tiết lại dòng
nước. Cho đến nay, đã có khá nhiều quy
hoạch thủy lợi và thủy điện trên 3 lưu
vực sông, đó là: Quy hoạch thủy lợi lưu
vực sông Cầu; Quy hoạch thủy lợi lưu
vực sông Đáy; Quy hoạch thủy lợi lưu
vực sông Đồng Nai; Quy hoạch lũ sông
Đồng Nai; Quy hoạch bậc thang thủy
điện trên hệ thống sông Đồng Nai.


Chương 4: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG


BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2006
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC 3 LƯU VỰC SÔNG: CẦU, NHUỆ - ĐÁY, HỆ THỐNG SÔNG ĐỒNG NAI

Quản lý quy hoạch và quản lý lưu
vực sông
Cho đến nay, ở nước ta chưa thực sự
có các tổ chức hay cơ quan quản lý lưu
vực sông, nhưng đã có hình thức của cơ
quan quản lý quy hoạch lưu vực sông.
Ngày 09/4/2001, Bộ trưởng Bộ
NN&PTNT đã ký các Quyết định số 38 và
39/2001/QĐ/BNN-TCCB về thành lập
các Ban quản lý quy hoạch các lưu vực
sông Đồng Nai, Hồng-Thái Bình. Đây là
các cơ quan sự nghiệp trực thuộc Bộ
NN&PTNT. Đây là các tổ chức “quản lý
quy hoạch” với thành phần chủ yếu là đại
diện các Sở NN&PTNT của các tỉnh thuộc
lưu vực sông. Trong thời gian qua, do
nhiều nguyên nhân về cơ cấu tổ chức và
tính đại diện nên họat động của các Ban
quản lý quy hoạch đó cũng chưa thực sự
hiệu quả.
Ngày 28/7/2006, Thủ tướng Chính
phủ đã có Quyết định số 174/2006/QĐTTg phê duyệt Đề án Tổng thể bảo vệ
môi trường sinh thái cảnh quan lưu vực

sông Cầu. Trong đó, Thủ tướng Chính
phủ đã giao Bộ TN&MT chuẩn bị và
kiến nghị với Thủ tướng việc thành lập
Ủy ban Bảo vệ môi trường lưu vực sông
Cầu với các thành viên là UBND các tỉnh
trong lưu vực và các đại diện có thẩm
quyền của các Bộ, ngành liên quan để
phối hợp tổ chức thực hiện Đề án.
4.7. XÂY DỰNG NGUỒN LỰC
4.7.1. Đội ngũ cán bộ
Đội ngũ cán bộ hoạt động trong lónh
vực bảo vệ môi trường LVS bao gồm:
cán bộ quản lý (quản lý môi trường LVS,
kiểm soát ô nhiễm LVS, quản lý tài
nguyên nước mặt, thanh tra môi trường)
và cán bộ quan trắc môi trường (nước
mặt lục địa, nước biển ven bờ).

Khung 4.8. Đề án Tổng thể bảo vệ và phát
triển bền vững môi trường sinh thái, cảnh
quan lưu vực sông Cầu
- Quan điểm chỉ đạo:
+ Là nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên, cần có
quyết tâm cao, đòi hỏi tập trung các nguồn
lực đầu tư của chính quyền và nhân dân địa
phương trên lưu vực, có sự hỗ trợ của ngân
sách trung ương.
+ Phải được giải quyết tổng thể: theo toàn lưu
vực kết hợp với theo địa giới hành chính; giữ
gìn chất lượng nước đi đôi với việc bảo đảm

đủ khối lượng nước.
+ Khắc phục tình trạng khai thác cát sỏi trong
sông không theo quy hoạch, bảo vệ mặt cắt
ổn định tự nhiên của dòng sông.
+ Tăng cường bồi phụ, bảo đảm rừng có chất
lượng theo tiêu chuẩn quy định nhằm khắc
phục tình trạng thiếu nước các tháng mùa
khô; gìn giữ, tái tạo và phát triển môi trường
tự nhiên trong sạch, bảo tồn đa dạng sinh
học trên toàn lưu vực.
+ Hình thành và từng bước hoàn chỉnh mô hình
tổ chức quản lý môi trường lưu vực; xây dựng
cơ chế, chính sách cần thiết nhằm tạo điều
kiện thuận lợi tăng cường quản lý nhà nước,
thúc đẩy xã hội hóa bảo vệ môi trường lưu vực.
- Các nhiệm vụ chủ yếu:
+ Đánh giá đầy đủ hiện trạng, ngăn chặn cơ
bản mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường lưu
vực sông Cầu.
+ Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước trên toàn lưu vực.
+ Đa dạng hóa nguồn lực đầu tư để thu hút tối
đa, sử dụng hiệu quả các nguồn lực với cơ
chế khuyến khích hợp lý, nhằm khắc phục, xử
lý ô nhiễm, phục vụ bảo vệ, tái tạo và phát
triển tài nguyên môi trường lưu vực sông Cầu.
+ Đẩy mạnh hợp tác quốc tế dưới các hình
thức hợp tác đa phương, song phương với
các nước, với các tổ chức quốc tế và tổ chức
phi chính phủ để tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ

về kinh nghiệm, công nghệ tiên tiến, khuyến
khích và tạo điều kiện để các Bộ, ngành, địa
phương vận động các nguồn tài trợ quốc tế
và vốn ODA của các nước và các tổ chức
quốc tế khác nhằm đẩy nhanh việc thực hiện
Đề án tổng thể này.
Nguồn: Trích Quyết định số 174/2006/QĐTTg ngày 28/7/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt Đề án Tổng thể
bảo vệ và phát triển bền vững môi trường
sinh thái, cảnh quan lưu vực sông Cầu

Chương 4: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG

69


BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2006
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC 3 LƯU VỰC SÔNG: CẦU, NHUỆ - ĐÁY, HỆ THỐNG SÔNG ĐỒNG NAI

Lực lượng cán bộ đang rất thiếu hụt
về số lượng
Bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường nói chung và bảo vệ môi trường
LVS nói riêng tuy đã được tăng cường một
bước, nhưng còn thiếu về số lượng (đặc
biệt ở cấp địa phương) và hạn chế về năng
lực. Theo tính toán sơ bộ, trong tổng số
khoảng 1.200 cán bộ quản lý môi trường ở
Việt Nam thì chỉ có gần 150 cán bộ quản lý
môi trường LVS. Chỉ số năng lực ước tính

theo số lượng nhân sự cho thấy các chỉ số
năng lực về bảo vệ môi trường LVS của
Việt Nam rất thấp, chỉ đạt khoảng 1,8 cán
bộ/ 1 triệu dân. Trong ba LVS, thì tại LVS
Nhuệ - Đáy, chỉ số này đạt thấp nhất
(khoảng 1,2 cán bộ/1 triệu dân) và LVS
Cầu cao nhất (1,8 cán bộ/1 triệu dân).
Tại Cục Bảo vệ môi trường đã có một
đơn vị chuyên trách về bảo vệ môi
trường LVS (Phòng Quản lý tổng hợp
Đới bờ, Biển và Lưu vực sông). Tuy
nhiên ở các địa phương không có cán bộ
chuyên trách, chỉ có các cán bộ kiêm
nhiệm, do đó quỹ thời gian dành cho
vấn đề môi trường lưu vực sông là rất
ít, không đáp ứng được yêu cầu rất đa
dạng của lónh vực này.
Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý
môi trường nói chung và quản lý môi
trường lưu vực sông nói riêng giữa các
tỉnh cũng không đồng đều.

trong lónh vực đa ngành và tổng hợp
như bảo vệ môi trường LVS.
4.7.2. Đầu tư tài chính
Nguồn chi cho quản lý và bảo vệ môi
trường lưu vực sông từ ngân sách nhà
nước không được phân bổ thành mục
chi riêng. Như đã mô tả trong Mục 4.2,
chức năng quản lý và bảo vệ môi trường

lưu vực sông có liên quan đến nhiều Bộ,
ngành khác nhau, do đó các khoản chi
cũng được phân bổ theo chức năng
tương ứng của các bộ. Tuy nhiên khoản
chi này chủ yếu nằm trong ngân sách
của Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT (đối với
cấp Trung ương) và Sở TN&MT, Sở
NN&PTNT (đối với cấp địa phương).
- Tổng kinh phí đầu tư cho bảo vệ môi
trường nói chung không ngừng tăng
(thực hiện các chủ trương và chỉ đạo của
Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính
trị, Bộ TN&MT đã, đang phối hợp Bộ Tài
chính, Bộ KHĐT lập đề án, tổ chức và
triển khai chi 1% ngân sách hàng năm
cho sự nghiệp môi trường). Tuy nhiên,
cho đến nay đầu tư cho hoạt động bảo vệ
môi trường lưu vực sông còn ít, chưa đáp
ứng yêu cầu. Các số liệu thống kê về tỷ
lệ tổng vốn đầu tư cho hoạt động tại 3
LVS trên diện tích lưu vực từ năm 2000
đến 2005 cũng không đồng đều. Tỷ lệ
này ước tính đạt cao nhất tại LVS Nhuệ Đáy và thấp nhất tại LVS Cầu (Hình 4.2).

Đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế
về năng lực
Các cán bộ hiện tại đang làm việc
trong lónh vực bảo vệ môi trường sông
phần lớn đều không được đào tạo
chuyên ngành về môi trường và tài

nguyên nước, lại phải kiêm nhiệm nhiều
lónh vực nên kiến thức về bảo vệ môi
trường LVS thường không sâu.
Những kỹ năng truyền thống cũng
như trình độ hiện tại của đội ngũ cán bộ
hiện nay đã bắt đầu bộc lộ việc không
phù hợp với điều kiện mới, đặc biệt

70

Hình 4.2. Tỷ lệ ước tính về tổng đầu tư
cho hoạt động bảo vệ môi trường lưu vực sông
trên tổng diện tích lưu vực tại 3 LVS
Nguồn: Viện Nghiên cứu Chiến lược
và Chính sách, Bộ KH&ĐT, 2006

Chương 4: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG


BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2006
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC 3 LƯU VỰC SÔNG: CẦU, NHUỆ - ĐÁY, HỆ THỐNG SÔNG ĐỒNG NAI

- Nguồn vốn: Trong thời gian qua,
nguồn vốn cho công tác quản lý và
BVMT lưu vực sông đã từng bước được
đa dạng hoá: ngân sách nhà nước, tài trợ
quốc tế, đầu tư từ cộng đồng và khu vực
tư nhân. Mặc dù vậy, hiện nay, đầu tư
cho bảo vệ môi trường lưu vực sông chủ
yếu là từ ngân sách nhà nước, các nguồn

khác còn chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
- Hiệu quả đầu tư: Tác dụng và hiệu
quả sử dụng vốn còn hạn chế; Chưa xác
định được các ưu tiên để đầu tư tập trung
có trọng điểm, đầu tư còn trùng lặp.
4.7.3. Quan trắc và thông tin môi trường
Trong những năm gần đây, nhiều
chương trình quan trắc chất lượng nước
mặt phục vụ cho các mục tiêu khác
nhau đã được thực hiện, việc quan trắc
chất lượng nước mặt ngày càng được tổ
chức một cách hệ thống hơn, thu được
nhiều số liệu quan trọng theo không
gian và thời gian đối với từng lưu vực.
Các địa phương trong lưu vực mặc dù
còn hạn chế về kinh phí cũng như kinh
nghiệm trong hoạt động quan trắc
nhưng đã rất nỗ lực đầu tư mua sắm các
thiết bị, kể cả xây dựng các phòng thí
nghiệm quan trắc và phân tích chất
lượng nước. Tuy nhiên, những việc làm
được như vừa kể trên chưa tương xứng
với nhu cầu cần thiết.
a. Mạng lưới quan trắc
Hoạt động quan trắc môi trường nước
các lưu vực sông ở cấp trung ương hiện
nay chủ yếu do một số đơn vị trong Bộ
TN&MT và một số bộ/ngành khác tham
gia. Trong đó quan trọng nhất là Hệ
thống quan trắc môi trường Quốc gia do

Cục Bảo vệ môi trường quản lý.
Từ năm 2005, Chương trình quan trắc
tổng thể 3 lưu vực sông: Cầu, Nhuệ Đáy, hệ thống sông Đồng Nai đã được

Khung 4.9. Hệ thống quan trắc môi trường
thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Tp. Hồ
Chí Minh
Sở Khoa học, Công nghệ, Môi trường (cũ) và
Ủy Ban Môi trường TP. Hồ Chí Minh từ năm
1992 đã đầu tư nghiên cứu, xây dựng hệ
thống quan trắc môi trường, hiện nay đã quan
trắc liên tục 10 điểm quan trắc nước theo tần
suất hàng tháng với hầu hết các thông số
hóa, lý, thủy văn cơ bản.
Nguồn: Chi cục Bảo vệ môi trường
TP. Hồ Chí Minh, 2006

Cục Bảo vệ môi trường phê duyệt và
hoạt động quan trắc trong các lưu vực
sông này cũng đã bắt đầu được tiến
hành. Tuy nhiên, do giới hạn về kinh
phí, hoạt động quan trắc chưa được tiến
hành với đầy đủ số điểm quan trắc và
tần suất như thiết kế trong Chương trình.
Trong Bộ TN&MT còn có mạng lưới
quan trắc thủy văn và môi trường nước
thuộc Trung tâm Khí tượng thuỷ văn Quốc
gia; mạng lưới quan trắc nước dưới đất do
Cục Địa chất và Khoáng sản quản lý.
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành khác cũng

tiến hành quan trắc nước mặt lưu vực
sông, phục vụ các yêu cầu của Bộ,
ngành mình. Chẳng hạn Bộ Thuỷ sản
quan trắc chất lượng nước nuôi trồng
thuỷ sản, Bộ Y tế giám sát chất lượng
nước đảm bảo điều kiện vệ sinh, Bộ
NN&PTNT quan trắc môi trường nước
phục vụ nông nghiệp.
Ngoài các trạm quan trắc môi trường
quốc gia, nhiều tỉnh/thành trong các lưu
vực sông cũng đã thành lập Trung tâm
Quan trắc nhằm theo dõi, giám sát diễn
biết chất lượng môi trường nói chung,
phục vụ công tác quản lý bảo vệ môi
trường của địa phương (như: Tp. Hồ
Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương...
thuộc LVHTS Đồng Nai; Thái Nguyên,
Bắc Ninh và Vónh Phúc... thuộc LVS
Cầu; và Hà Nội, Nam Định... thuộc LVS

Chương 4: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG

71


BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2006
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC 3 LƯU VỰC SÔNG: CẦU, NHUỆ - ĐÁY, HỆ THỐNG SÔNG ĐỒNG NAI

Nhuệ - Đáy). Hoạt động quan trắc môi
trường nước lưu vực sông của các địa

phương cũng ngày càng được tăng
cường, số điểm quan trắc, tần suất và
thông số quan trắc cũng ngày càng tăng.
Hoạt động quan trắc chất lượng nước mặt
ở 3 lưu vực sông còn nhiều hạn chế như:
- Kinh phí đầu tư và nguồn lực cán bộ
cho công tác quan trắc môi trường nước
còn hạn chế do đó tần suất quan trắc
còn thưa, thông số quan trắc còn hạn
chế và số lượng điểm quan trắc còn ít so
với yêu cầu thực tế.
- Chưa có các hoạt động quan trắc
chất lượng nước liên tục. Do đó khó
phát hiện và cảnh báo kịp thời các vấn
đề ô nhiễm khi mới xuất hiện hoặc đang
tiềm tàng.
- Một số địa phương đã trang bị được
các thiết bị quan trắc và phân tích môi
trường, tuy nhiên chưa chú trọng đến
phát triển dài hạn cũng như vấn đề đào
tạo nguồn nhân lực.
- Hoạt động bảo đảm chất lượng và
kiểm soát chất lượng (QA/QC) trong
hoạt động quan trắc môi trường còn yếu
làm ảnh hưởng đến chất lượng và tính
thống nhất của số liệu.
b. Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu
Hiện tại, chưa có hệ thống thông tin
môi trường lưu vực sông cả ở mức quốc
gia cũng như ở mức lưu vực, cũng như

chưa có chuẩn thống nhất cho hệ thống
thông tin và cơ chế cập nhật thông tin
môi trường các LVS trong cả nước
Trong năm 2006, Cục Bảo vệ môi
trường phối hợp với các tỉnh trong lưu
vực tiến hành xây dựng và cập nhật
thông tin cho trang thông tin điện tử về
môi trường 3 lưu vực sông.

72

Khung 4.10. Chương trình quan trắc tổng
thể môi trường nước 3 LVS: Cầu, Nhuệ Đáy, hệ thống sông Đồng Nai
Năm 2005, Cục trưởng Cục Bảo vệ môi
trường đã phê duyệt Chương trình quan trắc
tổng thể môi trường nước các LVS Cầu,
Nhuệ-Đáy, Đồng Nai-Sài Gòn. Theo chương
trình này, hoạt động quan trắc cấp quốc gia
đối với môi trường nước tại 3 lưu vực sông sẽ
được thực hiện với tần suất 6 lần/năm, và số
điểm quan trắc phủ trùm toàn bộ lưu vực. Kinh
phí thực hiện Chương trình quan trắc tổng thể
này từ 1,2 - 2,5 tỷ/năm/lưu vực.
Nguồn: Cục Bảo vệ môi trường, 2006

Một số địa phương trên các LVS đã
tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu môi
trường tại địa phương mình. Tuy nhiên,
chưa có các cơ sở dữ liệu ở cấp lưu vực
hoặc tiểu lưu vực. Việc trao đổi, chia sẻ

số liệu, thông tin môi trường giữa các
tỉnh trong lưu vực và giữa các lưu vực
với nhau cũng còn nhiều hạn chế.
Nghị định số 162/2003/NĐ-CP ngày
19/12/2003 của Chính phủ về việc Ban
hành Quy chế thu thập, quản lý, khai thác,
sử dụng dữ liệu, thông tin về tài nguyên
nước, là văn bản cung cấp cơ sở pháp lý
cho việc phát triển các mô hình quản lý
dữ liệu về tài nguyên nước cùng với
việc xác định rõ vai trò, trách nhiệm
của các cơ quan có liên quan trong việc
quản lý số liệu. Tuy nhiên, đến nay Quy
chế vẫn chưa được thực thi một cách
hiệu quả.
4.7.4. Hoạt động nghiên cứu
Nghiên cứu về lưu vực sông ở Việt
Nam đã được thực hiện khá sớm, đặc
biệt những nghiên cứu chuyên sâu về
các lónh vực: khí tượng - thuỷ văn, địa
hình - địa mạo... tạo nền tảng cho các
định hướng phát triển kinh tế xã hội
trong lưu vực sông. Các nghiên cứu về
diễn biến và chất lượng môi trường

Chương 4: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG


BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2006
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC 3 LƯU VỰC SÔNG: CẦU, NHUỆ - ĐÁY, HỆ THỐNG SÔNG ĐỒNG NAI


nước trong lưu vực sông gần đây được
phát triển mạnh hơn.

Khung 4.11. Tăng cường vai trò của cộng
đồng trong bảo vệ môi trường

Các công trình nghiên cứu đã đề xuất
một số giải pháp thiết thực, có những
đóng góp tích cực trong công tác bảo vệ
môi trường lưu vực sông và cung cấp
các số liệu quý giá cho các nghiên cứu
tiếp theo.

“Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghóa vụ
của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi
người, là biểu hiện của nếp sống văn hoá,
đạo đức, là tiêu chí quan trọng của xã hội
văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu
thiên nhiên, sống hài hoà với tự nhiên của
cha ông ta”.

Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu
vẫn còn một số hạn chế như: phân tán,
không tập trung, mới dừng ở mức khái
quát, chưa có nghiên cứu chuyên sâu
về chất lượng nước, phương pháp luận
trong qui hoạch, công cụ kinh tế, công
cụ thông tin, quản lý xung đột trong
lưu vực sông. Một số nghiên cứu không

có tính thực tế, hiệu quả ứng dụng
không cao.

Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15/11/2004 của Bộ
Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

4.8. SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG
Thực tế những năm qua cho thấy,
thành công của các hoạt động bảo vệ
môi trường phụ thuộc rất nhiều vào sự
tham gia của cộng đồng.
Tuy nhiên, sự tham gia của cộng đồng
trong công tác bảo vệ môi trường lưu
vực sông hiện vẫn còn nhiều hạn chế:

- Tiềm năng của cộng đồng vẫn chưa
được phát huy đầy đủ, sự tham gia của
cộng đồng vào các quá trình ra quyết
định, hoạch định chính sách và các hoạt
động quản lý môi trường vẫn còn nhiều
hạn chế.
- Trách nhiệm bảo vệ môi trường lưu vực
sông và tuân thủ pháp luật của các doanh
nghiệp cũng như cộng đồng chưa cao.
- Nhận thức của cộng đồng dân cư
với công tác bảo vệ môi trường lưu vực
sông còn là vấn đề cần được quan tâm.
Vấn đề này sẽ còn tồn tại cho đến khi
chuyển biến được tư tưởng cố hữu vốn

không quen coi việc bảo vệ môi trường
là trách nhiệm của bản thân.

Chương 4: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG

73


BÁO CÁO MÔI TRƯỜNG QUỐC GIA 2006
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC 3 LƯU VỰC SÔNG: CẦU, NHUỆ - ĐÁY, HỆ THỐNG SÔNG ĐỒNG NAI

74

Chương 4: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯNG NƯỚC TẠI 3 LƯU VỰC SÔNG



×