PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Nông nghiệp chiếm một vị trí rất quan trọng trong cơ cấu các nghành kinh
tế của Việt nam. Trong những năm trở lại đây Chính Phủ đã ban hành nhiều
chương trình, chính sách để thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp, nổi bật nhất
hiện nay là chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng nông thôn mới và
phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của nông dân luôn là 2 nhiệm vụ song
hành. Nói cách khác, phát triển sản xuất vừa là động lực, vừa là mục tiêu trong
xây dựng nông thôn mới. Một trong những yếu tố quan trọng để thúc đẩy sản
xuất là ứng dụng tiến bộ khoa học, trong đó hệ thống thông tin kiến thức nông
nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Trình độ sản xuất trong nông nghiệp vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế,
trong khi đó với trình độ dân trí không đồng đều, người nông dân có một tâm lý
chung là ngại thay đổi tập quán để tiếp cận với những kỹ thuật sản xuất mới,
giống mới và phương pháp mới. Trong bối cảnh đó hệ thống thông tin kiến thức
nông được xem là yếu tố quan trọng trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp
nông thôn. Thông qua việc tiếp nhận các kiến thức thông tin nông nghiệp được
cung cấp, trình độ sản xuất của người nông dân được tăng lên, giúp họ có khả
năng tiếp cận với những cái mới, nắm vững và xử lý thông tin một cách khách
quan, hệ thống để có những quyết định đúng đắn trong sản xuất kinh doanh và
đời sống gia đình. Tuy nhiên, thực trạng cho thấy hiệu quả sản xuất nông nghiệp
vẫn còn thấp chưa tương xứng với các tiềm năng sẵn có, điều này là do người
dân tiếp nhận thông tin chưa tốt và thông tin chưa đầy đủ và rời rạc [11].
Quảng Phú là xã đồng bằng thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên
Huế cũng giống như những xã khác trong huyện ngành nông nghiệp vẫn đóng
vai trò chủ yếu trong thu nhập của các hộ nông dân. Cây trồng phổ biến và mang
lại hiệu quả cao cho người dân trên địa bàn bên cạnh cây lúa là mía. Tuy nhiên
để đáp ứng được nhu cầu sản xuất hàng hóa thì việc tiếp cận với các nguồn
thông tin kiến thức nông nghiệp hỗ trợ phát triển sản xuất của hộ nông dân là rất
quan trọng. Vì vậy việc thực hiện đề tài: “Tìm hiểu hệ thống thông tin kiến
thức nông nghiệp hỗ trợ phát triển cây mía ở xã Quảng Phú, huyện Quảng
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế” là rất cần thiết.
1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Các mục tiêu nghiên cứu cụ thể của đề tài gồm:
- Tìm hiểu thực trạng phát triển cây mía tại xã Quảng Phú
- Tìm hiểu các nguồn thông tin và liên kết giữa các kênh thông tin kiến
thức hỗ trợ phát triển cây mía của xã Quảng Phú.
- Đánh giá hiệu quả hoạt động của các kênh thông tin trong hệ thống
thông tin kiến thức hỗ trợ phát triển cây mía ở địa bàn nghiên cứu.
2
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm về hệ thống
Trong các hoạt động của con người, các thuật ngữ như hệ thống triết học,
hệ thống pháp luật, hệ thống kinh tế, hệ thống thông tin đã trở nên quen thuộc.
Hệ thống là khái niệm được xuất phát từ rất lâu trong tự nhiên như hệ mặt trời,
hệ ngân hà, trong sinh học cơ thể người cũng là một hệ thống, trong vật lý hệ
thống máy móc, trong hoạt động trao đổi như hệ thống thông tin. Một cách tổng
quát hệ thống là tập hợp các thành phần liên kết với nhau, thể hiện qua một
phạm vi, xác định các hoạt động kết hợp với nhau nhằm đạt đến những mục đích
xác định [4, 7].
Một cách đơn giản và vắn tắt, ta có thể hiểu: Hệ thống là một tập hợp vật
chất và phi vật chất như người, máy móc, thông tin, dữ liệu, các phương pháp xử
lý, các qui tắc, quy trình xử lý, gọi là các phần tử của hệ thống. Trong hệ thống, các
phần tử tương tác với nhau và cùng hoạt động để hướng tới mục đích chung [4, 7].
2.1.2. Khái niệm thông tin, nguồn thông tin, kênh tin và nguồn nhận thông tin
* Thông tin (Information)
Là những ý tưởng, những kiến thức, những sự kiện con người có thể hiểu
biết về nó nhờ có sự trao đổi với nhau hoặc do con người nhận biết bằng các
giác quan. Thông tin là điều kiện tất yếu tạo thành tri thức của con người [3, 14].
Thông tin là phương tiện con người dùng để giao tiếp và phát triển cộng
đồng. Thông tin thúc đẩy sự phát triển xã hội, xã hội càng phát triển nhu cầu
thông tin càng cao. Việc tận dụng các nguồn thông tin sẳn có để áp dụng vào sản
xuất, vào đời sống giúp con người rút ngắn thời gian tìm hiểu, nghiên cứu và
thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh hơn [3, 15].
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam đòi
hỏi tăng cường thông tin chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới đến
nông dân để nông dân áp dụng vào sản xuất nâng cao dân trí và đời sống.
Tầm quan trọng của thông tin
Theo truyền thống, những bức thông điệp của Khuyến nông thường dựa
vào kinh nghiệm của nông dân hoặc những kết quả của công tác nghiên cứu
khoa học nông nghiệp. Ở nhiều nước, chính sách của nhà nước là rất quan trọng
3
đối với việc đưa ra các quyết định của nông dân, ví dụ những chính sách về
thuế, chính sách về giá cả
Mô hình của một quá trình truyền thông tin
Khái niệm thông tin thường đi kèm với khái niệm truyền thông tin. Vì vậy
chúng ta thường khảo sát thông tin trong một hệ thống truyền tin hơn là trong
các trường hợp khác. Trong một hệ thống truyền tin, mô hình tổng quát nhất bao
gồm ba thành phần sau: (1) nơi phát hay còn gọi là nguồn phát hay nguồn tin
(source of information, information source) ; (2) môi trường truyền hay lưu trữ
còn được gọi là kênh tin (transmission media, storagemedia, channel); và (3) nơi
nhận tin hay còn được gọi là nguồn nhận hay nguồn thu (destination, sink) [7].
Mô hình 1: Mô hình truyền tin cơ bản
(Nguồn: Hồ Văn Quân, năm 200)
* Nguồn thông tin
Là yếu tố khởi xướng việc thực hiện quá trình truyền thông tin, yếu tố đó
có thể là một cá nhân, một nhóm người hay một tổ chức. Khi sử dụng thông tin
cần quan tâm đến độ tin cậy, sự tín nhiệm và tính chính xác, mới mẻ, hấp dẫn
của thông tin [3, 15].
Nguồn thông tin là những người hay những nơi tạo ra và truyền đi các
thông tin. Quá trình chuyển giao một ý tưởng, một thông tin: Ý tưởng chuyển
thành một bức thông điệp tạo ra những yếu tố vật chất (từ ngữ, hình ảnh) với
một ý nghĩa tượng trưng (ý tưởng được mã hoá thành những cái tượng trưng để
gán ý nghĩa của nó vào). Nguồn hay người chuyển giao gửi thông điệp này
thông qua kênh nào đó đến với người nhận. Người nhận giải mã những thông
điệp như vậy và tạo ra các ý tưởng trong đầu mình, nó có thể được sử dụng hay
không được sử dụng (hiệu ứng của thông tin). Nguồn sẽ quan sát hiệu ứng này
và sử dụng nó để đánh giá tác động của thông điệp [8, 63].
Quá trình này có thể được cụ thể thông qua mô hình 2:
Nguồn mã hoá thông điệp kênh người nhận giải mã hiệu ứng
Mô hình 2: Mô hình MCRE (Source, Masage, Channel, Receiver, Effect)
(Nguồn: AW.Van den ban và H.S.hawkin, 1999)
4
Nguồn phát Kênh truyền Nguồn nhận
Người nông dân sử dụng nhiều nguồn khác nhau để thu thập thông tin và
kiến thức cho việc sản xuất của họ. Những nguồn này bao gồm:
Ở những người nông dân khác
Những tổ chức Khuyến nông của nhà nước
Những tư nhân buôn bán vật tư, cung cấp tín dụng và thu mua nông sản
Những công ty của nhà nước, văn phòng tiếp thị và nhà làm chính sách
Những tổ chức của nông dân và các thành viên của nó
Các tạp chí nông nghiệp, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, và các
phương tiện thông tin đại chúng khác
Chỉ một ít nông dân có thể liên hệ trực tiếp với các nhà nghiên cứu, nhất
là ở các nước đang phát triển, nơi mà số nhà nghiên cứu tính trên số nông dân
còn ít, giao thông khó khăn và có một khoảng cách xã hội giữa họ. Nghiên cứu
chỉ thực sự có tác động đến sản xuất nông nghiệp khi có những người làm công
tác thông tin giữa các nhà nghiên cứu với nông dân. Việc thông tin những vấn
đề, những kinh nghiệm và tình hình thực tế của nông dân cho các nhà nghiên
cứu cũng là điều quan trọng để nắm được những kết quả nghiên cứu có thực sự
thích hợp và quan trọng cho sự phát triển của nông nghiệp hay không. Sự phát
triển của những kỹ thuật có ích trong một hoàn cảnh nào đó sẽ yêu cầu một sự
tổng hợp những kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau. Sự tổng hợp này thường
phó mặc cho nông dân, mặc dù các nhà nghiên cứu và Khuyến nông đóng một
vai trò quan trọng trong quá trình đó. Việc tổng hợp là một phần quan trọng
trong công việc của những người làm nghiên cứu hệ thống nông nghiệp (FSR),
những người đang cố gắng kết hợp những thông tin trong nghiên cứu của các
chuyên ngành khác nhau với những thông tin về tiến triển thị trường và các chính
sách của nhà nước. Những nhà nghiên cứu chuyên ngành thường không muốn các
thông tin của họ kết hợp với các thông tin từ những nguồn khác trước khi nó trở
nên có giá trị đối với việc giúp đỡ nông dân đưa ra quyết định [7, 28 - 29].
* Nơi nhận tin
Là nơi tiếp nhận thông tin từ kênh truyền và cố gắng khôi phục lại thành
thông tin ban đầu như ở bên phát đã phát đi. Tin đến được nơi nhận thường
không giống như tin ban đầu được phát vì có sự tác động của nhiễu lên nó trong
quá trình truyền [4, 9].
5
2.1.3. Kiến thức
* Kiến thức của nông dân
Rất nhiều kiến thức nông nghiệp được phát triển từ những thí nghiệm đơn
giản mà người nông dân thực hiện, ví dụ khi trồng một cây trồng mới ở địa
phương họ, hoặc khi họ thay đổi lịch bón phân. Họ cũng đã cố gắng điều chỉnh
những khuyến cáo của Khuyến nông phù hợp với tình hình nông hộ của họ. Các
nhà nghiên cứu và Khuyến nông có thể hợp tác với nhau bằng việc giúp cho
người nông dân làm tốt các thí nghiệm này và bằng việc giúp họ rút ra những
kết luận chính xác từ những kết quả thu được. Sự hợp tác này sẽ làm tăng chất
lượng của các thông tin và làm giảm đi xác suất nông dân từ chối làm theo một
khuyến cáo nào đó. Họ cũng có thể học được ngay từ những thí nghiệm của
mình rằng một quan điểm hay một kỹ thuật nào đó không có tác dụng vì họ đã
mắc sai lầm trong khi thí nghiệm. Những thí nghiệm do nông dân làm thường
nảy sinh các thông tin về sự cần thiết của lao động và tiền vốn của các mùa vụ
khác nhau cho các kỹ thuật mới, và khả năng đáp ứng nhu cầu về nguồn lực này.
Những thông tin như vậy là cực kỳ quan trọng cho việc phát triển các kỹ thuật
thích hợp [7, 31].
Những kiến thức có giá trị mà nông dân có được, hay còn gọi là những
kiến thức cổ truyền, thường bị các nhà nghiên cứu lãng quên, mặc dù những
thông tin đó có thể khá quan trọng cho những khuyến cáo của một vùng nào đó
và cũng rất quan trọng cho việc phát triển một hệ thống nông nghiệp bền vững.
2.1.4. Khái niệm hệ thống thông tin và kiến thức nông nghiệp AKIS
2.1.4.1. Khái niệm
Hệ thống thông tin: Hệ thống thông tin (information system) là một hệ
thống mà mục tiêu tồn tại của nó là cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động
của con người trong một tổ chức nào đó. Ta có thể hiểu hệ thống thông tin là hệ
thống mà mối liên hệ giữa các thành phần của nó cũng như mối liên hệ giữa nó
với các hệ thống khác là sự trao đổi thông tin.
Hệ thống thông tin và kiến thức nông nghiệp AKIS: Theo AW. Van den ban
và H.S.hawkin (1999), Hệ thống thông tin và kiến thức nông nghiệp (AKIS) được
định nghĩa: “Các cá nhân, các mạng lưới hoạt động, các cơ quan và những mối
tương tác, liên kết giữa họ thu hút hay quản lý việc nảy sinh, chuyển đổi, chuyển
giao, lưu trữ, hồi phục, tổng hợp, truyền bá và sử dụng những kiến thức và thông
tin, và cùng phối hợp hành động để cải thiện đáng kể sự phù hợp giữa kiến thức,
môi trường và kỹ thuật được sử dụng trong nông nghiệp” [8, 27].
6
Bản chất của AKIS là sự kết hợp giữa ba hệ thống kiến thức, chúng được
xem như là một phần của hệ thống kiến thức nông nghiệp tổng hợp (sơ đồ 3) [6].
Mô hình 3: Bản chất của AKIS
(Nguồn: Bunting (1986) and Röling (1987))
AKIS được mở rộng dựa trên cơ sở của các tổ chức bao gồm các tổ chức
cung cấp nguồn kiến thức nông nghiệp và tất cả các bên liên quan trong việc sản
sinh và phổ biến kiến thức nông nghiệp. Cơ sở của AKIS được dựa trên các khái
niệm về hệ thống kiến thức nông nghiệp. AKIS được mong đợi có thể xúc tiến,
đẩy mạnh mối liên kết giữa các tổ chức nông nghiệp trong một vùng và giữa các
vùng với nhau, đồng thời nó thúc đẩy mối liên kết giữa các khâu, mắt xích trong
hệ thống. AKIS là một sự đổi mới phương pháp trong quá trình tiếp cận các tổ
chức xã hội. Nó gắn kết các tổ chức, những người liên quan trong mối liên kết
nông nghiệp bao gồm những mối liên kết bà con thân thuộc và sự tương tác gữa
họ; những nảy sinh trong quá trình hình thành, biến đổi, lưu trữ, phục hồi, tổng
hợp, phổ biến và sử dụng thông tin và kiến thức [8].
2.1.4.2. Vai trò và sự phân tích AKIS
Quan điểm của AKIS là người nông dân sử dụng rất nhiều nguồn khác
nhau để thu thập kiến thức và thông tin mà họ cần cho sản xuất nông nghiệp và
quản lý nông hộ của hộ. Những kiến thức mới không chỉ do cơ quan khoa học
tạo ra, mà còn do nhiều tác nhân khác tạo ra và phát triển lên. Điều này rất có
ích khi phân tích xem tất cả những nguồn này bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau như
thế nào, hoặc giữa chúng có mâu thuẫn gì hay không. Nông dân sử dụng những
nguồn nào để thu thập kiến thức và thông tin, và làm thế nào để những nguồn đó
có được thông tin và kiến thức ấy. AKIS cũng phân tích những luồng thông tin
từ người dân này tới các người dân khác, tới các nhà nghiên cứu, người làm
chính sách và các nhà doanh nghiệp khác.
Nhà nghiên
cứu
Nông dân
Khuyến nông
7
* Sự phân tích AKIS
Phân tích AKIS cho một vùng hay một lĩnh vực nào đó của nông nghiệp
là rất quan trọng để phát hiện ra những lỗ hổng đang kìm hãm sự phát triển của
nông nghiệp, cũng như những sự chồng chéo đang làm lãng phí nguồn lực và có
thể gây ra những mâu thuẫn không đáng có. Phân tích AKIS có thể là trách
nhiệm của dịch vụ Khuyến nông. Các tổ chức của nông dân cũng đóng một vai
trò có giá trị trong tiến trình này bằng việc làm rõ các thông tin cần thiết của các
thành viên và khuyến khích các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức Khuyến nông
và các tác nhân khác cung cấp những thông tin đó.
Thông tin nông nghiệp có thể được kết hợp trong những sản phẩm kỹ
thuật như thuốc trừ sâu, máy móc hoặc hạt giống và những bước đệm cho việc
sử dụng chúng. Những cái đó được Bennett (1990) gọi là những kỹ thuật.
Những thông tin và kỹ năng khác thường không được kết hợp trong một sản
phẩm, như việc dự tính dự báo sâu bệnh, thời vụ làm cỏ hay thời vụ luân canh
cây trồng, Những việc này gọi là những thao tác (kỹ thuật canh tác). Các công
ty thương mại có thể thu được lợi nhuận từ việc bán và cung cấp những thông
tin về công nghệ, nhưng những thông tin về kỹ thuật canh tác thì chỉ được các
dịch vụ Khuyến nông cung cấp với nguồn tài chính lấy từ thuế hoặc do nông dân
đóng góp [7, 31 - 32].
Tiến hành phân tích AKIS như vậy trước khi bắt đầu một dự án mới là rất
cần thiết và cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên những nhà đầu tư cho các dự án
thường không tăng cường hệ thống đang có sẵn mà tìm cách phát triển một hệ
thống, một tổ chức mới, trùng lặp với các yếu tố của hệ thống này và có xu
hướng thất bại hoàn toàn ngay sau khi hết nguồn đầu tư.
* Vai trò của AKIS
Sự phân tích AKIS thường chỉ ra rằng vai trò truyền thống của các tổ
chức Khuyến nông là chuyển giao kỹ thuật được tạo ra ở các cơ quan nghiên
cứu đến với nông dân. Tuy nhiên ở hầu khắp các nước phát triển vai trò chính
của họ là học hỏi kinh nghiệm của các nông dân tiên tiến nhất để dạy lại cho
những nông dân khác cách cải thiện việc quản lý nông trại của họ. Ngoài ra
sự phân tích AKIS còn chỉ ra rằng vai trò của các tổ chức Khuyến nông còn
có thể là để:
- Giúp nông dân thí nghiệm các kỹ thuật mới hay hệ thống canh tác mới.
8
- Thu được những thông tin thích hợp từ các nguồn thông tin khác nhau.
- Đánh giá và giải thích những thông tin này trong các tình huống của họ.
- Học hỏi những kinh ngiệm của họ.
McDermott đã chỉ ra rằng sử dụng AKIS một cách khoa học và hiệu quả
giúp việc sử dụng thông tin một cách hiệu quả, tạo ra những kỹ thuật tốt nhất
cho một tình hình cụ thể nào đó thông qua việc tổng hợp thông tin từ các nhà
nghiên cứu, Khuyến nông và nông dân khác. Tuy nhiên quá trình tổng hợp này
thường không được chú ý đúng mức. AKIS giúp xóa mờ sự phân định giữa các
nhà nghiên cứu, Khuyến nông và nông dân vì họ đã tham gia vào một quá trình
học hỏi để phát hiện ra những cách để cải tiến những hoạt động nông nghiệp.
Trong tiến trình đó, mỗi nhóm đều có thể học hỏi được từ những người tham
dự kia [7, 33].
AKIS tạo ra một mạnh lưới thông tin gồm nhiều tác nhân khác nhau và
cần thiết, trong đó thông tin của mỗi nhóm đều có thể được tổng hợp lại. Vai trò
của mạng lưới hoạt động này có thể được thực hiện với những thông tin về kỹ
thuật sản xuất, cũng như đối với việc phát triển các mối quan hệ hiệu quả hơn
với thế giới bên ngoài, đặc biệt là thị trường.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Hệ thống thông tin và kiến thức nông nghiệp tại Việt Nam
Cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về AKIS. Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam phối hợp với đại sứ quán Canada
vừa tiến hành dự án Thông tin thị trường nông nghiệp Việt Nam (VAMIP).
Theo VAMIP, có trên 80% hộ sản xuất bán hàng trực tiếp cho thương lái, dưới
10% hộ tiêu thụ thông qua hợp tác xã, 8% hộ mang sản phẩm bán trực tiếp tại
các chợ địa phương. Lý do là nông dân sản xuất tin tưởng vào thương lái hơn
các thông tin từ ti vi, đài báo,… hầu hết hộ sản xuất các sản phẩm nông nghiệp
đều ở nông thôn nên không được tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin, nếu có
nguồn thông tin nào đó thì cũng không có ích với họ [10].
Đa phần nông dân của chúng ta hiện vẫn đang canh tác theo cách thức
truyền thống, dù nhiều năm nay chúng ta đã áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ
thuật trong canh tác nông nghiệp. Tuy nhiên, hiệu quả của việc này vẫn chưa
phát huy hết và đem lại lợi ích cho nông dân. Lý do lớn nhất của việc này là
nông dân đang bị thiếu thông tin. Vì vậy, việc thiết lập hệ thống thông tin đến
với nông thôn là yêu cầu cần thiết và cấp bách trong bối cảnh này.
9
Hệ thống thông tin nông nghiệp của Việt Nam chủ yếu được chuyển tải
qua các kênh truyền hình quốc gia và địa phương. Tuy nhiên, thực tế thông tin
vẫn còn dàn trải và không tập trung vào lợi ích thiết thực của nông dân. Ông
Bửu nhận xét, một ông chuyên gia nông nghiệp trên đài truyền hình không thể
nói tất cả về mọi lĩnh vực trong nông nghiệp. “Điều này vừa không chuyên
nghiệp và thiếu thuyết phục. Chưa kể một phần quan trọng mà nhà đài không để
ý đến là việc nông dân ba miền Bắc, Trung, Nam không thể nghe và hiểu được
cùng một giọng nói mà phát thanh viên chuyên về nông nghiệp nói…”. Ngoài ra
thông tin cần phải đồng bộ, chuyên đề – nông thôn gắn với kinh tế thị trường.
Hệ thống Khuyến nông Việt Nam ra đời từ năm 1993 vốn sớm có những
trợ giúp thông tin cho sản xuất của người nông dân. Tuy nhiên, cho tới nay, lực
lượng làm công tác này vẫn còn quá mỏng so với nhu cầu.
Theo ông Bùi Chí Bửu, Viện trưởng Viện KHKT nông nghiệp miền Nam
thì một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả khuyến nông còn hạn chế là
do đầu tư còn thấp: “Đầu tư cho khuyến nông của mình một năm có nửa đô la
Mỹ một nông hộ thôi. Trong khi đó, Thái Lan cách đây mười mấy năm họ đầu tư
trên 40 đô la Mỹ trên một nông hộ” [9].
Những buổi khuyến nông mới chỉ dừng lại ở việc tổ chức các buổi tập
huấn tập trung, ngắn hạn và thông tin một chiều. Thực tế là hàm lượng thông tin
liên quan tới nông nghiệp – nông dân – nông thôn còn chưa nhiều. Trong khi
khả năng để nông dân có thể tiếp nhận tri thức và thay đổi thói quen sản xuất từ
các chương trình này còn là một thách thức.
Điều tra Xã hội học của Viện Lúa ĐBSCL tiến hành cho thấy: chỉ 10 –
15% số nông dân theo dõi và làm theo các chương trình khuyến nông từ truyền
thông là thành công. Trong khi đó, chưa kể việc truyền thông còn khiến nông
dân bị rối thông tin. TS Bùi Chí Bửu, Viện trưởng Viện KHKT nông nghiệp
miền Nam đưa ra một ví dụ: Một mặt rất là tích cực, đó là có những chương
trình khuyến nông khuyên bà con nông dân là giảm bớt dùng hóa chất trên đồng
ruộng nhưng mà sau chương trình khuyến nông đó rồi thì hàng loạt cái quảng
cáo, không biết bao nhiêu cái quảng cáo tuyên truyền về thuốc về phân. Thì nó
rất là trái chiều với nhau.”[9].
Quyết định 119 tháng 1/2011 phê duyệt đề án phát triển thông tin, truyền
thông nông thôn giai đoạn 2011 – 2015 với tổng vốn đầu tư gần 25 nghìn tỷ đồng
đặt ra mục tiêu tạo động lực cho phát triển nông nghiệp sẽ được tiếp cận thông tin
10
bằng nhiều nguồn đa dạng hơn nữa như hệ thống các điểm bưu điện – văn hóa xã,
các điểm truy cập Internet cộng đồng, phát triển truyền thông đại chúng.
Một thực tế đang diễn ra là lực lượng trực tiếp tham gia sản xuất trong
nông nghiệp phần lớn đều lớn tuổi và đang có xu hướng già đi do dòng chuyển
cư thành thị kiếm việc làm của một bộ phận giới trẻ. Theo thống kê, tuổi trung
vị ở khu vực nông thôn hiện nay là 27,4 và chỉ số già hóa là 34,8%. Đó sẽ là trở
ngại với việc đưa nông dân tiếp cận với thông tin mới [12].
Nông dân thời hội nhập còn gặp khó khăn trong câu chuyện làm giàu từ
những tiềm lực vốn có. Mà nguyên nhân là do sự hạn chế trong tiếp cận thông
tin, dẫn tới bị chậm chân so với nhu cầu thực tế, nhất là trong hội nhập quốc tế.
Chiến lược thông tin về nông thôn tới đây cần phải tìm ra những cách làm mới
mới có thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Hiện nay cũng đã có nhiều mô
hình đưa thông tin về với người nông dân giúp họ tiếp cận được nhiều hơn với
thông tin về nông nghiệp điển hình như mô hình “cafe khuyến nông”, mô hình
giao tiếp truyền đạt qua thanh- thiếu niên do Nhật Bản tài trợ, chương trình
"Nông dân điện tử"…
Cà phê khuyến nông ở xã An Bình (Thoại Sơn, An Giang) mục đích thành
lập quán cà phê này nhằm chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, cung cấp
thông tin về sản xuất nông nghiệp, giá cả thị trường nông sản, chủ trương chính
sách, pháp luật đến nông dân. Sở dĩ chọn An Giang là tỉnh đầu tiên cả nước lập
quán "cà phê khuyến nông" vì An Giang là một trong những tỉnh sản xuất lúa
gạo đứng đầu khu vực ĐBSCL với diện tích trên 530.000ha, sản lượng
3.200.000 tấn/năm. Quán hội tụ nhiều nông dân với đủ cả trình độ. Nhà nông
nên ai cũng thật lòng, có bao nhiêu kinh nghiệm cứ nói hết ruột gan. Cũng có vài
người không biết chữ, nhiệt tình hỏi về kỹ thuật ghi trong các tờ bướm. Thế là
nhà nông xúm xít trả lời, ai biết thêm mớ nào chỉ thêm mớ đó. Thành ra kẻ hỏi
có lợi mà người trả lời cũng có lời vì thu thập được các thông tin cần thiết khác.
Quán có đủ loại sách báo về nông nghiệp với hơn hàng ngàn tờ bướm nói về kỹ
thuật trồng trọt [12].
Theo thống kê, 60% nông dân sản xuất giỏi ở địa phương này đều tham
gia mô hình café khuyến nông. Đến thời điểm này, Trung tâm khuyến nông An
Giang đã triển khai thí điểm trong tỉnh gần 20 quán “cà phê khuyến nông”. “Cà
phê khuyến nông là địa điểm tập hợp những kinh nghiệm hay, cách làm mới và
sáng tạo của bà con nông dân”. Trao đổi về việc thực hiện mô hình “cà phê
khuyến nông” trong thời gian tới, thạc sĩ Huỳnh Hiệp Thành, Giám đốc Trung
11
tâm Khuyến nông An Giang, cho biết sẽ kết hợp với chính quyền địa phương
các huyện để từng bước nhân mô hình này trên toàn tỉnh [12].
Mô hình giao tiếp truyền đạt qua thanh- thiếu niên do Nhật Bản tài trợ:
Mô hình giao tiếp truyền đạt qua thanh- thiếu niên được Chính phủ Nhật
Bản hỗ trợ tại Việt Nam là mô hình đưa ra giải pháp khắc phục khó khăn cho
những người lớn tuổi làm nông nghiệp ở Việt Nam. Cách làm mới của mô hình
là thanh thiếu niên ở địa phương sẽ được tham gia lớp học “Mô hình giao tiếp
truyền đạt qua thanh- thiếu niên” được Chính phủ Nhật Bản hỗ trợ tại Việt
Nam. Sau khi tham gia lớp học các thanh thiếu niên sẻ trở thành cầu nối giữa
cha mẹ - những nông dân trực tiếp sản xuất với các chuyên gia. Sự nhanh nhạy
trong tiếp cận với thông tin mới từ những người trẻ, vì thế mà được phát huy.
Ở Nhật Bản, hơn 90% các vùng nông thôn có Internet. Nông dân có thể
dễ dàng tiếp cận tin tức từ web, facebook, blog và ứng dụng vào thực tế. Còn ở
Việt Nam, mới chỉ có 5,4% số hộ ở nông thôn có máy tính và trong đó chỉ
khoảng 15% nối mạng Internet. Tuy nhiên, từ cách làm của các chuyên gia
Nhật Bản, điều có thể học hỏi là cách thu hút giới trẻ tham gia vào công việc
nhà nông [12].
Nhằm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin kiến thức nông
nghiệp mà đặc biệt là thông tin về thị trường và giá cả nông sản cho mọi đối
tượng mà tập trung chủ yếu vào nông dân, Trung tâm Tin học Bộ NN&PTNT đã
triển khai dự án xây dựng mạng lưới thông tin thị trường nông nghiệp, một trong
những mục tiêu quan trọng của dự án là giúp hoạt động sản xuất gắn với thị
trường, hàng hóa làm ra phải phù hợp với tín hiệu của thị trường. Điều này sẽ
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế
giới, đồng thời mở rộng chủng loại hàng hóa xuất khẩu.
Bước đầu tiên, dự án lựa đã chọn 3 tỉnh để thực hiện thí điểm trong năm
2004, gồm Vĩnh Long, ĐăkLăk và Lào Cai; sau đó, mở rộng phạm vi lên 10 tỉnh
trong năm 2005 và 20 tỉnh năm 2006. Những tỉnh này phải đảm bảo các tiêu chí
như: lãnh đạo địa phương phải hiểu được giá trị của thông tin thị trường và tích
cực ủng hộ; sẵn sàng xây dựng chương trình và đóng góp một phần tài chính,
nhân lực và tạo thuận lợi cho việc thu thập, xử lý cũng như cung cấp, phổ biến
thông tin đến người dân [5].
Tuy nhiên, đã nảy sinh nhiều vướng mắc khi triển khai thực hiện thu thập
thông tin. Đó là khả năng phân tích hạn chế nên dự báo thông tin về giá cả thị
trường chưa tốt. Hầu hết thông tin thu thập được mới đơn thuần là tin giá cả,
12
chưa được tổng hợp, đánh giá, xử lý để có những dự báo chính xác, tránh thiệt
thòi cho nông dân. Mạng lưới cộng tác viên cung cấp thông tin còn mỏng [14].
Hệ thống đang rất thiếu những địa chỉ cung ứng về giống, đại lý thu mua, cơ sở
chế biến Hay nông dân cũng đói thông tin về thời điểm thu hoạch của các loại
nông sản trong nước cũng như nước ngoài để lựa chọn thời gian trồng, thu hái
thích hợp, tránh rớt giá Việc triển khai hệ thống thông tin nông nghiệp không
đơn giản chỉ là cung cấp thông tin về giá cả hàng hóa, mà còn là kênh quan
trọng giúp họ nâng cao hiểu biết kỹ thuật, từ đó sản xuất sản phẩm có giá thành
hạ, cạnh tranh. Không những thế, đây còn là một trong những điều kiện thuận
lợi để thực hiện xúc tiến thương mại [2].
13
PHẦN 3
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng của nghiên cứu
Đối tượng của nghiên cứu này bao gồm:
- Các hộ nông dân tham gia trồng mía tại xã Quảng Phú
- Cán bộ xã, cán bộ huyện, người am hiểu
- Các ban ngành quản lý, hiệp hội có liên quan đến việc cung cấp thông
tin kiến thức nông nghiệp liên quan đến cây mía.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa
Thiên Huế.
- Phạm vi thời gian: Tìm hiểu thông tin từ tháng 9/1/2012 đến tháng 12/5/ 2012.
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Tìm hiểu thực trạng phát triển cây mía tại xã Quảng Phú
- Đặc điểm của địa bàn nghiên cứu
+ Điều kiện tự nhiên
+ Điều kiện kinh tế - xã hội
+ Khó khăn thuận lợi của xã
- Tình hình sản xuất mía của địa phương và nhóm hộ điều tra
+ Tình hình sản xuất mía của địa phương
+ Tình hình sản xuất mía của huyện
+ Tình hình sản xuất mía của xã
+ Cơ cấu cây trồng của xã qua các năm
+ Tình hình sản xuất mía của các hộ điều tra
+ Tình hình chung của hộ
+ Cơ cấu thu nhập của hộ
+ Tình hình sản xuất mía của hộ
3.3.2. Tìm hiểu các nguồn thông tin và liên kết giữa các kênh thông tin kiến
thức hỗ trợ phát triển cây mía của xã Quảng Phú
- Hệ thống thông tin kiến thức trên địa bàn nghiên cứu
+ Các cơ quan, tổ chức và cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp
ở địa phương (ở ba thôn khảo sát)
+ Mô tả nguồn thông tin nông nghiệp cho sản xuất mía mà người dân tiếp
cận được.
14
+ Đánh giá nhu cầu thông tin, hiệu quả thông tin
+ Kênh thông tin và các phương pháp truyền thông thông tin
+ Mối liên kết giữa các nguồn thông tin
Các mối liên kết
Mức độ liên kết
3.3.3. Đánh giá hiệu quả hoạt động của các kênh thông tin trong hệ thống
thông tin kiến thức hỗ trợ phát triển cây mía ở địa bàn nghiên cứu
- Hiệu quả của các kênh thông tin
+ Chia sẻ thông tin
+ Những vấn đề của dòng thông tin
+ Thuận lợi – khó khăn của hộ trong quá trình tiếp nhận thông tin
- Những giải pháp mà chính quyền địa phương và người dân đưa ra cho
việc phát triển AKIS tại địa phương.
+ Giải pháp do chính quyền đưa ra
+ Giải pháp do người dân đưa ra
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Chọn điểm và chọn mẫu nghiên cứu
- Chọn điểm nghiên cứu: Đề tài được thực hiện tại xã Quảng Phú –
Quảng Điền – TT. Huế
- Chọn mẫu nghiên cứu: Hộ điều tra được chọn ngẫu nhiên có phân loại
60 được chọn phỏng vấn gồm 20 hộ nghèo, 20 hộ cận nghèo và 20 hộ trên
nghèo có tham gia sản xuất mía sản, dựa theo danh sách hộ trồng mía của xã và
thôn.
3.4.2. Phương pháp thu thập thông tin
* Thu thập thông tin thứ cấp
- Tài liệu về điều kiện tự nhiên – kinh tế - xã hội của xã
- Các báo cáo của huyện, xã và thôn,các tài liệu sách, báo, internet.
* Thu thập thông tin sơ cấp:
- Phỏng vấn sâu:
+ Đối tượng: những người cung cấp thông tin nòng cốt. Gồm phó chủ
tịch xã; cán bộ nông nghiệp các cấp, người am hiểu của cộng đồng.
+ Loại thông tin:
Các thông tin về xã
15
Thực trạng cung cấp các thông tin, nguồn thông tin, các loại thông tin
kiến thức nông nghiệp liên quan đến hoạt động trồng mía trên địa bàn xã.
- Phỏng vấn hộ:
+ Phương pháp phỏng vấn: Sử dụng phiếu khảo sát với bảng hỏi bán cấu
trúc để phỏng vấn 60 hộ dân, kết hợp quan sát thực tế.
3.4.3. Phương pháp phân tích xử lý số liệu
- Thống kê, mô tả để phân tích các thông tin bằng định lượng
- Sử dụng phương pháp so sánh/kết quả qua từng thời kì
- Phân tích định tính: Nghe, nhìn, dự đoán, dựa vào các báo cáo đã thu
thập từ số liệu thứ cấp, số liệu ghi chép ở hiện trường
- Số liệu thu thập được xử lý bằng cách phân tích định tính và phần mềm
Excel, SPSS.
16
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Đặc Điểm Của Địa Bàn Nghiên Cứu
4.1.1 Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý
Theo báo cáo kinh tế xã hội xã Quảng Phú năm 2011, Quảng Phú là xã
đồng bằng thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh TT. Huế. Diện tích tự nhiên: 1.190 ha,
ranh giới hành chính được xác định như sau:
Bản đồ xã Quãng Phú
(Nguồn: www.3.thuathienhue.org.vn)
+ Phía Bắc giáp xã Quảng Vinh.
+ Phía Tây giáp huyện Phong Điền.
+ Phía Đông giáp xã Quảng Thọ.
+ Phía Nam giáp huyện Hương Trà.
Toàn xã có 13 thôn: Phú Lễ, Hà Cảng, Hạ Lang, Vạn Hạ Lang, Bao La 1,
Bao La 2, Bác Vọng Đông, Bác Vọng Tây, Xuân Tùy, Nghĩa Lộ, Đức Nhuận,
Nam Phù, Nho lâm. Thôn Vạn Hạ Lang sinh sống chủ yếu bằng ngư nghiệp và
khai thác cát sạn. Dân số giữa các thôn không đồng đều có 02 thôn dân số trên
17
2.500 khẩu, có 06 thôn dân số từ 700-1.100 khẩu còn lại 06 thôn dân số từ 150
đến dưới 600 khẩu.
b. Đặc điểm địa hình, khí hậu
+ Về địa hình: Quảng Phú là xã có địa hình tương đối thấp và bằng
phẳng, nhìn chung có thuận lợi cho việc canh tác, sản xuất lúa nước và cây công
nghiệp ngắn ngày. Tuy nhiên hàng năm có một số vùng thấp thường xuyên phải
chịu ngập úng vào mùa mưa, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông
nghiệp, xói lỡ làm hư hỏng một số tuyến đường giao thông, nhất là ở khu vực
HTX Phú Hòa.
+ Về khí hậu: Quảng Phú nằm trong vùng đồng bằng ven biển miền
Trung nên thời tiết tương đối khắc nghiệt, khí hậu phân thành hai mùa rõ rệt:
Mùa khô nắng nóng bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8 và mùa mưa từ tháng 9
đến tháng 02 năm sau.
+ Nhiệt độ: Mùa mưa chịu ảnh hưởng của các đợt gió mùa Đông bắc, trời
nhiều mưa và lạnh kèm theo các đợt lụt. Mùa nắng chịu ảnh hưởng của gió Lào
khô và oi bức do vậy đã tác động không nhỏ vào thời vụ sản xuất lúa.
+ Mật độ nắng bình quân trên địa bàn xã Quảng Phú khoảng 1.952
giờ/năm. Tuy nhiên có sự chênh lệch giữa hai mùa khoảng 100 - 120 giờ chiếu
sáng. Số giờ chiếu sáng bình quân mùa nắng cao hơn mùa mưa từ 3-4 giờ.
+ Lượng mưa trung bình trên địa bàn xã hàng năm khoảng 2.955 mm,
năm cao nhất lên tới 4.927mm, năm thấp nhất khoảng 1.850 mm. Số ngày mưa
bình quân/năm khoảng 160 ngày, chiếm 43% số ngày trong năm. Mưa tập trung
nhiều vào đầu tháng 9 đến tháng 12 hàng năm và thường xảy ra lũ lụt do lượng
mưa những tháng này thường chiếm từ 70-75% lượng mưa của cả năm.
c. Đất đai, thổ nhưỡng
Xã Quảng Phú là xã thuộc vùng thứ 3 của huyện Quảng Điền, vùng có
đất đai màu mỡ, bằng phẳng, là một trong những vùng trọng điểm lúa của
huyện. Là vùng đồng bằng ven sông, thành phần cơ giới chủ yếu cát pha, đất
thịt nhẹ và đất thịt trung bình vì vậy nó rất thích ứng với nhiều loại cây trồng
khác nhau như lúa, lạc, mía, nưa, khoai, sắn, ngô. Và tạo cho xã một lợi thế
so sánh về mía.
18
Bảng 4.1: Tình hình sử dụng đất đai của xã qua các năm 2009 - 2011
Chỉ tiêu
Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
SL
Cơ
cấu
(%)
SL
Cơ
cấu
(%)
SL
Cơ
cấu
(%)
Tổng diện tích
Đất nông nghiệp
Đất trồng lúa, hoa màu
Đất trồng cây hằng năm
Đất vườn
Đất nuôi trồng thủy sản
Đất chuyên dùng
Đất thổ cư
Đất chưa sử dụng
Đất bằng chưa sử dụng
Đất mặt nước chưa sử dụng
Đất chưa sử dụng khác
1190
617,58
462,05
139,25
10,78
5,5
385,11
169,86
17,45
2,76
3,5
11,19
100
51,90
74,82
22,55
1,75
0,88
32,36
14,27
1,47
15,81
20,06
64,13
1190
606,95
459,91
130,76
10,78
5,5
386,0
6
175,54
17,45
2,76
3,5
11,19
100
50,99
75,77
21,54
1,78
0,91
32,79
14,75
1,47
15,81
20,06
64,13
1190
595,92
453,09
126,55
10,78
5,5
389,88
186,75
17,45
2,76
3,5
11,19
100
50,07
76,03
21,24
1,81
0,92
32,76
15,70
1,47
15,81
20,06
64,13
(Nguồn: UBND xã Quảng Phú, 2012)
Qua bảng 2 ta thấy tổng diện tích đất tự nhiên qua 3 năm là không đổi với
1190 ha. Tuy nhiên, diện tích đất nông nghiệp có xu hướng giảm dần, đất
chuyên dùng, đất thổ cư ngày càng tăng. Đây cũng là xu hướng phổ biến ở các
vùng nông thôn khi mà dân số ngày càng tăng.
Năm 2009, tổng diện tích sử dụng vào sản xuất nông nghiệp là 595,92 ha chiếm
50,07% diện tích đất tự nhiên, diện tích này vào năm 2008 là 606,95 ha và năm
2007 là 617,58 ha. Trung bình mỗi năm diện tích đất nông nghiệp giảm 0,9 ha,
chủ yếu là giảm về diện tích trồng lúa, hoa màu và cây hàng năm.
Qua bảng số liệu ta thấy sự tăng lên của đất thổ cư. Với tốc độ tăng dân số
của xã qua các năm làm cho diện tích đất thổ cư tăng lên một cách đáng kể.
Vào năm 2009, diện tích đất thổ cư là 169,86 ha chiếm 14,27% diện tích đất
tự nhiên, năm 2010 diện tích này là 175,54 ha chiếm 14,75% và đến năm
2011 thì diện tích này tăng lên là 186,75 ha chiếm 15,7%. Như vậy, từ năm
2009 đến 2011 diện tích đất thổ cư đã tăng 16,89 ha. Xã hội ngày càng phát
triển, dân số ngày càng gia tăng, nhu cầu sử dụng đất đai của con người để
làm nhà, đất cho các công trình, đất sản xuất kinh doanh, phi nông nghiệp
19
ngày càng gia tăng. Do đó, diện tích đất nông nghiệp một phần cũng bị thu hẹp,
một phần lấy từ quỹ đất chưa sử dụng của địa phương.
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
a. Dân số, lao động
Xã Quảng Phú gồm có 13 thôn, tình hình dân số và lao động ít biến động
qua các năm. Tình hình dân số và lao động được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4.2: Tình hình dân số và lao động của xã năm 2011
Chỉ tiêu ĐVT SL %
1. Tổng số hộ Hộ 2725
2. Tổng nhân khẩu Người 12415 100
3. Tỷ lệ tăng dân số % 0,56
5. Số hộ nghèo Hộ 274 100
5. Tổng lao động Lao động 6782 100
Lao động nông nghiệp Lao động 3920 57,8
Lao động phi nông nghiệp Lao động 2862 42,2
5. Các chỉ tiêu bình quân
* Nhân khẩu/ hộ Người 4.56
* Nhân khẩu/lao động Lao động 1,83
* Lao động/hộ Lao động 2,5
(Nguồn: Số liệu của UBND xã Quảng Phú, 2012)
Qua bảng cho thấy năm 2011 dân số xã Quảng Phú là 12.415 người với
2725 hộ. Quy mô gia đình bình quân trên xã khá lớn với gần 5 khẩu trong mỗi
gia đình. Quảng Phú có thế mạnh là một xã ven đô, nếp sống người dân có đặc
thù. Hạ tầng cơ sở tương đối đồng bộ, phát triển nhiều ngành nghề trong nông
thôn, các loại hình dịch vụ phát triển nhờ vậy nên tỷ lệ lao động tham gia vào
nông nghiệp so với lao động phi nông nghiệp chênh lệch không quá lớn. Năm
2011 toàn xã có 6782 lao động thì có khoảng 3920 lao động nông nghiệp chiếm
57.8%. Tỷ lệ này có xu hướng giảm dần chuyển sang các nghành nghề phụ có
thu nhập cao hơn. Đặc điểm lao động của địa phương tương đối trẻ, lực lượng
này phần lớn có trình độ và có khoảng 50% đã qua đào tạo nghề. Tuy nhiên, đa
số lực lượng này đã đi làm ăn ở ngoại tỉnh, số lao động trẻ trong nông nghiệp
còn lại rất ít.
Nếu so sánh giữa nhân khẩu và lao động thì bình quân nhân khẩu trên lao
động là 1,83 người và bình quân lao động trên hộ là 2,5 người. Tỷ lệ này cũng
khá cao gây khó khăn trong việc trích lũy đầu tư sản xuất. Đây là gánh nặng cho
những lao động phải bởi tỷ lệ người phụ thuộc trong gia đình cao.
20
b. Cơ sở hạ tầng
- Giao thông
Xã Quảng Phú có cả hệ thống giao thông đường thủy lẫn giao thông đường
bộ. Giao thông đường thủy được hình thành do sự ngăn cách giữa con sông Bồ
với thị trấn Tứ Hạ. Giao thông đường bộ gồm có: Tuyến đường tỉnh lộ 11A chạy
qua với chiều dài khoảng 2,2 km nối xã Quảng Phú với thị trấn Sịa và quốc lộ 1A.
Tuyến đường liên xã dài 7 km, rộng là 19,5 m chạy dọc nối các thôn trong xã.
Ngoài ra xã còn có hệ thống đường liên thôn chằng chịt đã được bê tông hóa gần
100%. Với hiện trạng giao thông như thế này sẽ tạo điều kiện cho người dân xã
phát huy lợi thế của mình trong sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Điện và thủy lợi
Về hệ thống điện: Hiện nay, toàn xã có 24 tuyến, 12 trạm biến áp với tổng
công suất 780 KVA. Hệ thống dây điện hạ thế 14,4 km; trong đó có 13,2 km đạt
chuẩn còn 1,2 km dự án Điện REII đã nghiệm thu đưa vào sử dụng. Hiện nay
thực hiện chủ trương chung HTX dịch vụ tiêu thụ điện đang tiến hành bàn giao
cho Công ty điện lực quản lý và tiếp tục nâng cấp đảm bảo đúng chuẩn theo quy
định. Số hộ dùng điện trên địa bàn toàn xã đạt 100%, hệ thống điện luôn được
đầu tư nâng cấp, sữa chữa đảm bảo phục vụ nhu cầu về điện của nhân dân cả
điện sinh hoạt, sản xuất và phát triển dịch vụ.
Về thủy lợi: Toàn xã có 13 trạm bơm cơ bản đáp ứng được nhu cầu sản
xuất, tổng chiều dài hệ thống kênh mương, thủy lợi của xã là 50,952 km.
Trong đó số km kênh mương do xã quản lý là 19,9 km, số km được đầu tư
xây dựng kiên cố từ nguồn vốn hỗ trợ của nhà nước và nhân dân đóng góp là
16,6 km còn lại 3 km cần được kiên cố hoá đồng thời cần xây dựng thêm một
số tuyến kênh mương phục vụ cho cây màu. Nhìn chung, nhờ có lợi thế của
sông Bồ nên xã đảm bảo, chủ động nhu cầu về tưới tiêu, phục vụ sản xuất,
trên địa bàn xã không có các hồ đập cấp nước.
- Thông tin liên lạc
Xã có 01 điểm Bưu điện văn hoá được bố trí nơi thuận lợi để phục vụ
nhân dân, bên cạnh đó hệ thống máy điện thoại bàn của nhân dân tương đối
nhiều, bình quân khoảng 12 máy/100 dân và Mạng Internet đã được nối về
địa bàn xã ở các thôn thuộc HTX Phú Thuận nhằm phục vụ cho nhu cầu nắm
bắt, cập nhật thông tin của nhân dân. Điều này góp phần giúp người dân trong
xã tiếp cận được với thông tin khoa học kỹ thuật và những chính sách chủ
trương của nhà nước một cách kịp thời.
21
c. Cơ cấu kinh tế
Xã Quảng Phú là một xã nông nghiệp kiêm nghành nghề, dịch vụ. Tổng
giá trị sản xuất của xã năm 2011 là 220.874,25 triệu đồng, trong đó thu nhập từ
nông nghiệp là 80.882,1 triệu đồng chiếm khoảng 36,62%. Năm 2011 giá trị sản
xuất của ngành chăn nuôi 24.083,6 triệu đồng chiếm 29,77% giá trị nông nghiệp
và giá trị nuôi trồng thủy sản là 930 triệu đồng chiếm 1,16% giá trị sản xuất
nông nghiệp. Tổng giá trị ngành tiểu thủ công nghiêp - xây dựng ước đạt 84,990
triệu đồng chiếm 38,48% .
Về ngành nghề - dịch vụ: nhiều ngành nghề, dịch vụ phát triển đáp ứng nhu
cầu đời sống và phát triển sản xuất trên địa bàn. Nhiều mô hình sản xuất trên địa bàn
đang mang lại hiệu quả kinh tế cao như khai thác cát, chằm nón, đúc bờ lô.
Bảng 4.3: Cơ cấu giá trị sản xuất của xã năm 201
Chỉ tiêu Giá trị (triệu đồng) Cơ cấu (%)
Tổng giá trị sản xuất 220.874,25 100
1. Nông nghiệp 80.8821 36,62
1.1 Trồng trọt 55.868,5 69,07
Lúa 33.390,5 59,76
Lạc 11.028 19,73
Mía 6.352 11,37
Sắn 3.900 7
Cây ngắn ngày khác 1.198 2,14
1.2 Chăn nuôi 24.083,6 29,77
1.3 Nuôi trồng thủy sản(NTTS) 930 1,16
2. Công nghiệp, xây dựng 84.990 38,48
3 Dịch vụ 55.002,15 24,9
(Nguồn: Số liệu của UBND xã Quảng Phú,2012)
4.1.3. Một số thuận lợi và khó khăn của xã trong phát triển kinh tế xã hội
Một số thuận lợi và khó khăn chính của vùng nghiên cứu:
+ Thuận lợi
Quảng Phú là xã thuộc vùng thứ 3 của huyện Quảng Điền có nhiều điều
kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Với vị trí địa lý nằm ven sông Bồ đất
đai màu mỡ, hàng năm được bồi đắp một lượng phù sa rất lớn, thành phần cơ
giới của đất chủ yếu là đất cát pha và đất thịt nhẹ. Đây là một điều kiện thuận lợi
trong việc nâng cao năng suất cây trồng. Ngoài ra do xã thực hiện thành công
công tác dồn điền đổi thửa năm 2003 và quy hoạch đất đai thuộc chương trình
nông thôn mới đầu năm 2011 nên xóa được trình trạng đất manh mún. Đất đai
22
tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đầu tư thâm canh nâng cao năng
suất, tiết kiệm chi phí đầu vào.
Về điều kiện tưới tiêu như đã nói ở trên, lợi thế của xã là có dòng sông Bồ
chảy qua với lưu lượng nước rất lớn đảm bảo cung cấp nước đầy đủ cho tất cả
diện tích gieo trồng của xã. Đồng thời, để xây dựng nông thôn mới những năm
gần đây xã đã kiên cố hóa hệ thống kênh mương, trạm bơm góp phần đáp ứng
nước chủ động cho cây mía góp phần nâng cao năng suất.
Bên cạnh đó, trên địa bàn xã có rất nhiều các dịch vụ nông nghiệp như:
phân bón, bảo vệ thực vật, tưới tiêu, làm đất do HTX cung cấp. Do vậy, người
sản xuất có những yếu tố đầu vào đầy đủ và đúng thời điểm, phát hiện và phòng
ngừa sâu bệnh phá hoại kịp thời. Hơn thế nữa những năm gần đây huyện, tỉnh đã
có một số chương trình, chính sách trong việc xây dựng các mô hình sản xuất có
hiệu quả, các chính sách ưu đãi đến với người dân.
+ Khó khăn
Trước hết đây là vùng có địa hình thấp trũng thường xuyên xảy ra ngập
úng vào mùa mưa lũ gây thiệt hại lớn trong sản xuất nông nghiệp, gây khó khăn
trong việc bố trí thời vụ cây trồng. Thời tiết ảnh hưởng rất lớn không chỉ gây
dịch bệnh mà còn ảnh hưởng đến thu hoạch mía. Mía thường thu hoạch vào cuối
mùa đông, nếu đông kéo dài mía sẽ không bán được làm ảnh hưởng chất lượng
mía và thời gian gieo trồng vụ sau.
Tình hình sâu bệnh thường xuyên xảy ra làm ảnh hưởng đến sản xuất. Ở
mía các loại sâu đục thân, đục gốc thường xuyên diễn ra trên diện rộng rất khó
phát hiện và phòng trừ. Điều này đòi hỏi sự quan tâm chăm sóc của bà con nông
dân và quá trình nghiên cứu của các nhà kỹ thuật để tìm ra biện pháp giải quyết
kịp thời.
Cơ sở hạ tầng mặc dù được đầu tư xây dựng nhưng vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu về phát triển kinh tế xã hội, lưu thông, trao đổi hàng hoá của địa
phương.
Điều kiện kinh tế của nhân dân không đồng đều, địa bàn rộng, ý thức của
một bộ phận người dân trong việc chấp hành, thực hiện một số nhiệm vụ của địa
phương còn hạn chế. Vấn đề giá cả không ổn định, tình hình thời tiết, thiên tai,
dịch bệnh phức tạp đã làm ảnh hưởng đến việc đầu tư phát triển kinh tế của nhân
dân trong xã.
Dân số ngày càng tăng trong khi quỹ đất nông nghiệp không tăng làm cho
tình trạng thiếu đất canh tác ngày một nhiều.
23
Mặc dù nguồn lực lao động nhiều nhưng số đông đã đi làm ăn xa, tỷ lệ lao
động có trình độ và đã qua đào tạo còn thấp.
Tuy nhiên, những khó khăn này chỉ là tạm thời. Việc xây dựng nông thôn
mới đang tạo đà và là nền móng cho Quảng phú phát triển phù hợp với tiềm năng
và thế mạnh vốn có của xã.
4.2. Tình hình sản xuất mía của địa phương và nhóm hộ điều tra
4.2.1. Tình hình sản xuất mía của địa phương
4.2.1.1. Tình hình sản xuất mía của huyện
Quảng Điền là huyện nằm ở phía Bắc của tỉnh TT. Huế, là vùng trũng
thấp của tỉnh, đất đai bằng phẳng, màu mỡ. Địa hình được chia làm 3 vùng rõ
rệt: vùng 1 bị tách khỏi huyện bởi phá tam Giang, vùng 2 chủ yếu là đồi đất cát
(80%), vùng 3 là vùng có đất đai màu mỡ rất thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp đặc biệt là cây lúa và cây công nghiệp ngắn ngày. Trọng điểm của vùng
là trồng lúa, ngoài ra lạc và mía cũng đóng một vai trò khá quan trọng góp phần
xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập của người dân.
Theo số liệu thống kê của huyện Quảng Điền, diện tích mía của huyện
hầu như không giảm qua các năm (bảng 4.4). Diện tích mía năm 2011 là 51 ha
không thay đổi so với năm 2010 và tăng 24,3% so với năm 2009. Diện tích trồng
mía tập trung ở 3 vùng chính là thị trấn Sịa, xã Quảng Vinh và Quảng Phú với
98,43% diện tích toàn huyện. Trong đó xã có quy mô lớn nhất về diện tích là xã
Quảng Phú – có thể xem đây là vùng trọng điểm về trồng mía của huyện. Các xã
còn lại những năm trước cũng có trồng mía. Tuy nhiên, một vài năm trở lại đây
do trồng không có hiệu quả nên đã chuyển đổi sang trồng các loại cây công
nghiệp ngắn ngày khác.
Xét về năng suất, sản lượng năm 2011: năng suất mía toàn huyện là 400
tạ/ha, sản lượng toàn huyện đạt được là 2040 tấn. Hầu hết các xã trồng mía trong
năm 2011 đều đạt chung một mức năng suất là 400 tạ/ha. Tuy nhiên, về sản
lượng thì có sự chênh lệch theo diện tích trồng ít hay trồng nhiều. Riêng Quảng
Phú là vùng đã phát triển trồng mía lâu đời, đồng thời điều kiện đất đai rất phù
hợp cho mía sinh trưởng, phát triển, điều kiện tưới tiêu chủ động do đó sản
lượng cao nhất huyện đạt 1828 tấn chiếm 89,6%.
24
Bảng 4.4: Tình hình sản xuất mía của huyện Quảng Điền trong các năm 2009 - 2011
Chỉ tiêu
2009 2010 2011
SL % SL % SL %
I. Diện tích (ha)
* Toàn huyện
1. Thị trấn Sịa
2. Xã Quảng Phước
3. Xã Quảng Vinh
4. Xã Quảng Phú
38,6
6,0
0
1,1
31,5
100
15,54
0
2,85
80,31
51,0
0,1
0.8
2,5
47,6
100
0,196
1,57
4,9
93,33
51,0
2
0,8
2.5
45.7
100
3.92
1,57
4,9
89,6
II. Năng suất( tạ/ha)
* Toàn huyện
1. Thị trấn Sịa
2. Xã Quảng Phước
3. Xã Quảng Vinh
4. Xã Quảng Phú
400
400
0
400
400
100
33,33
0
33,33
33,33
420,0
420,0
420,0
420,0
420,0
100
25
25
25
25
400
400
400
400
400
100
25
25
25
25
III. Sản lượng (tấn)
* Toàn huyện
1. Thị trấn Sịa
2. Xã Quảng Phước
3. Xã Quảng Vinh
4. Xã Quảng Phú
2312,0
320,0
0
480,0
1512,0
100
13,84
0
20,76
65,40
1621,2
4,2
33,6
105,0
1478,4
100
0,26
2,073
6.48
91,2
2040
80
32
100
1828
100
3,92
1,56
4.9
89,6
(Nguồn: Chi cục thống kê huyện Quảng Điền, 2012)
2
5
25