Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ ở xã hương toàn, huyện hương trà, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.25 KB, 47 trang )

Phần 1:
MỞ ĐẦU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài:
Chăn nuôi lợn là một nghề truyền thống có từ lâu đời ở nước ta. Trong
thời gian qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành trồng trọt, đặc biệt
là sự tăng trưởng nhanh về sản xuất lương thực, nghề chăn nuôi lợn ở nước
ta đã phát triển khá tốt, số lượng tổng đàn và chất lượng đàn lợn đều tăng
khá.
Năm 2000 tổng đàn lợn của cả nước là 20,2 triệu con, đến 01/10/2001,
đạt 21,2 triệu con (tăng 5,94% so với năm 2000) và hiện nay đứng thứ 8 trên
thế giới về số lượng đầu lợn (sau Trung Quốc, Mỹ, Braxin, Cộng hòa Liên
bang Đức, Tây Ban Nha, Pháp và Ba Lan). Trong tổng đàn lợn thì đàn lợn
nái là 2,8 triệu con - chiếm 13,2%. Các tỉnh phía Bắc có 1,3 triệu con lợn nái
- chiếm 46,4% số lợn nái cả nước. Tuy nhiên số lượng lợn nái ngoại còn quá
ít, mới chiếm khoảng 1,3% tổng đàn lợn nái; còn lại chủ yếu là nái Móng
Cái, nái Lai năng suất thấp. Sản lượng thịt lợn hơi năm 2001 của cả nước đã
đạt 1,5 triệu tấn, tăng gần 0,5 triệu tấn so với năm 1995 và chiếm khoảng
76% tổng sản lượng thịt hơi các loại. Nếu như tốc độ tăng trưởng đàn lợn từ
năm 1995 đến năm 2001 bình quân là 5,0%/năm, thì tốc độ tăng trưởng thịt
lợn hơi là 8,2%/năm. Điều đó chứng tỏ chất lượng đàn lợn và trọng lượng
thịt hơi trên đầu lợn đã được quan tâm chú ý và tăng lên đáng kể.
Trong những năm gần đây, chăn nuôi lợn ở nước ta đã tăng trưởng khá
về tổng đàn, chất lượng đàn cũng như quy mô sản xuất, kim ngạch xuất
khẩu Tuy nhiên so với yêu cầu và khả năng thì kết quả này còn quá khiêm
tốn. Để nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng thị trường cho sản phẩm thịt lợn
xuất khẩu theo các tác giả thì có rất nhiều vấn đề đang đặt ra đòi hỏi chúng
ta cần nhanh chóng giải quyết một cách triệt để như tăng cường sử dụng các
giống mới, kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến, mở rộng quy mô sản xuất, xúc tiến
thị trường, phát triển công nghiệp chế biến, tạo thế chủ động về nguyên liệu
phục vụ chế biến thức ăn chăn nuôi
1


Xã Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế là một địa
phương rất có tiềm năng cho sự phát triển chăn nuôi đặc biệt là chăn nuôi
lợn. Từ năm 2004 để đáp ứng và góp phần tích cực đưa chăn nuôi trở thành
ngành sản xuất hàng hoá, trong đó chăn nuôi lợn thịt giữ vai trò chủ đạo
nhiều hộ trong xã đã phát triển chăn nuôi lợn siêu nạc theo hướng đầu tư cao
bước đầu đã có kết quả khả quan, mang lại hiệu quả kinh tế nâng cao thu
nhập cho người nông dân. Tuy nhiên, xã Hương Toàn lại là địa phương có
qui mô chăn nuôi nhỏ lẻ, chủ yếu là chăn nuôi theo qui mô ở mức độ hộ gia
đình, còn chăn nuôi theo qui mô trang trại, tập trung còn rất hạn chế và chưa
được phát triển mặc dù trong thời gian gần đây địa phương đã có nhiều
chính sách phát triển do đó mà tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: "Đánh giá
hiệu quả kinh tế của hoạt động chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ ở xã
Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động chăn nuôi lợn thịt ở nông hộ
xã Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đề tài nhằm các mục tiêu nghiên cứu sau:
 - Tìm hiểu thực trạng chăn nuôi lợn thịt của nông hộ ở xã Hương
Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của chăn nuôi lợn thịt của nông hộ tại địa
phưong theo nhóm hộ và quy mô chăn nuôi .
- Đề xuất giảt pháp phát triển chăn nuôi phù hợp cho nông hộ ở địa
phương .
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1) Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là các hộ chăn nuôi lợn thịt tại xã
Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2) Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ 2/1/2008 đến 5/5/2008
- Không gian nghiên cứu: Địa điểm nghiên cứu được thực hiên tại xã

Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.

2
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận về hiệu quả kinh tế.
2.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế xã hội phản ánh chất lượng
các hoạt động kinh tế, là thước đo trình độ quản lý, khai thác và sử dụng các
nguồn lực của các nhà quản lý. Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau
về hiệu quả kinh tế. Theo giáo sư Nguyễn Tiến Mạnh thì: “ Hiệu quả kinh tế
của một hiện tượng (hay quá trình) kinh tế là phạm trù kinh tế phản ánh trình
độ sử dụng các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) để đạt được mục tiêu
xác định [vân, 22].”
Hồ Vính Đào lại nói rằng: “ hiệu quả kinh tế còn gọi là hiệu ích kinh tế
là so sánh giữa chiếm dụng và tiêu hao trong hoạt động kinh tế (bao gồm lao
động vật hóa và lao động sống) với thành quả có ích đạt được” [hương, 30].
Còn theo Farsell (1957), Fchult (1964), Rizzo (1979) và Elli (1993) thì cho
rằng: Hiệu quả kinh tế được xác định bởi so sánh giữa kết quả đạt được với
chi phí bỏ ra (nhân lực, vật lực, tài lực…) [vân, 22].
Tóm lại, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ tổ
chức, quản lý kinh tế. Chất lượng khai thác các nguồn lực trong quá trình tái
sản xuất để đạt được mục tiêu để ra ban đầu.
2.1.2. Bản chất của hiệu quả kinh tế.
Mặc dù các nhà kinh tế học đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về hiệu
quả kinh tế, song họ đều thống nhất về bản chất của hiệu quả kinh tế. Rằng
người sản xuất muốn có lợi nhuận thì phải bỏ ra những chi phí nhất định, đó
là: nhân lực, vật lực, tài lực và tiến hành so sánh kết quả đạt được sau quá
trình sản xuất kinh doanh với chi phí bỏ rra thì có được hiệu quả kinh tế. Sự
chênh lệch giữa chi phí bỏ ra và kết quả tu được càng cao thì hiệu quả kinh

tế càng lớn và ngược lại.
Tromg quá trình sản xuất kinh doanh, kết quả tạo ra được là tổng hợp
của nhiều yếu tố đầu vào và môi trường ngoại cảnh. Có nhiều cách khác
3
nhau để đạt được cùng một kết quả, và do tính mâu thuẫn giữa khả năng hạn
hẹp về các nguồn lực với nhu cầu vô hạn của con người mà ta cần đánh giá
kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Để đạt được kết quả đó càn có
các hoạt động gì? Chi phí bao nhiêu? Vấn đề đặt ra ở đây là để đạt được kết
quả đó thì hoạt động thế nào để chi phí thấp nhất? Hay với khoản chi phí đó
(nguồn lực đó) thì làm như thế nào để cho kết quả là cao nhất? Đó là vấn đề
và bản chất của hiệu quả kinh.
2.1.3. Hiệu quả kinh tế
Sản xuất là một hoạt động có mục đích của con người, tác động lên các
đối tượng lao động thông qua công cụ lao động nhằm tạo racủa cải vật chất
thoả mãn nhu cầu của mình và cho xã hội. Trong nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của nhà nước thì các nhà sản xuất, doang nghiệp, người tiêu dùng
và toàn xã hội có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Cho nên kết quả kinh
tế là một vấn đề không những được bản thân nhà sản xuất, doanh nghiệp
quan tâm mà còn là vấn đề của toàn xã hội.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh chất lượng hoạt
động kinh tế, là thước đo trình độ quản lý và trình độ tổ chức của các doanh
nghiệp. Để tồn tại và phát triển, yêu cầu bắt buộc của các nhà sản xuất và
doanh nghiệp là phải kinh doanh có hiệu quả, có như vậy các nhà sản xuất,
doanh nghiệp mới có điều kiện tái sản xuất mở rộng, áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất.
GS.TS Ngô Đình Giao cho rằng: “Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao
nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước”. TS Nguyễn Tiến Mạnh lại cho rằng:
“Hiệu quả kinh tế là phạm trù khách quan phản ánh trình độ lợi dụng các
nguồn lực để đạt được mục tiêu đã xác định”.

Vì vậy, ta có thể hiểu rằng: “Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế
biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu phản ánh trình độ
khai thác các nguồn lực, chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất
nhằm thực hiện mục tiêu đề ra”.
4
Nền kinh tế mỗi quốc gia đều được phát triển theo hai chiều: Phát triển
kinh tế theo chiều rộng (huy động mọi nguồn lực vào sản xuất, tăng thêm
vốn, bổ sung lao động và kỹ thuật, mở mang thêm nhiều ngành nghề, xây
dựnh thêm nhiều xí nghiệp…); Phát triển kinh tế theo chiều sâu (đẩy mạnh
các cách mạng khoa học và công nghệ sản xuất, tiến nhanh lên hiện đại hoá,
tăng cường chuyên môn hoá, nâng cao cường độ sử dụng các nguồn lực, chú
trọng chất lượng và sản phẩm dịch vụ…). Phát triển kinh tế theo chiều sâu là
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế một cách bên vững.
Hiệu quả kinh tế biểu hiện tính hữu hiệu về kinh tế của việc sử dụng
các loại vật tư, lao động, tiền vốn…trong sản xuất kinh doang, nó chỉ ra mối
quan hệ giữa các lợi ích kinh tế mang lại với chi phí bằng tiền trong mỗi kỳ
kinh doanh. Lợi ích kinh tế càng lớn thì hiệu quả kinh doanh càng cao.
Vì vậy, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được đánh giá thông qua
một số chỉ tiêu hiệu quả nhất định. Những chỉ tiêu hiệu quả này phụ thuộc
chặt chẽ vào mục tiêu hoạt động của chủ thể hiệu quả. Vì vậy, khi phân tích
hiệu quả các phương án cần xác định rõ chiến lược phát triển cũng như mục
tiêu cảu chủ thể trong từng giai đoạn phát triển. Cho đến nay các tác giả đều
nhất trí dùng lợi nhuận làm tiêu chuẩn cơ bản để phân tích hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
Theo quan điểm kinh tế học thì hiệu quả kinh tế chỉ đạt được khi:
- Mọi giai đoạn sản xuất ở trên đường giới hạncủa năng lực sản xuất là có
hiệu quả vì nó tận dụng được hết các nguồn lực.
- Số lượng hàng hoá đạt được trên đường giới hạn của năng lực sản xuất
càng lớn thì hoạt động sản xuất kinh doanh càng có hiệu quả.
- Sự thoả mãn tối đa về số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hoá theo

nhu cầu thị trường trong giới hạn của nguồn lực sản xuất cho hiệu quả kinh
tế cao nhất.
Hiệu quả kinh tế là mối quan hệ tổng hoà giữa hai yếu tố hiện vật và giá
trị trong việc sử dụng các nguồn lực vào sản xuất. Nói cách khác hiệu quả
kinh tế là hiệu quả đạt được trong việc sử dụng hai yếu tố cơ bản trong sản
xuất kinh doanh. Hai yếu tố đó là:
5
- Yếu tố đầu vào: Chi phí trung gian, lao động sống, khấu hao tài sản,
thuế…
- Yếu tố đầu ra: Sản lượng và giá trị sản phẩm, giá trị sản xuất, thu
nhập, giá trị gia tăng, lợi nhuận…
Việc xác định các yếu tố đầu vào trong việc đánh giá hiệu quả kinh tế
nhiều khi gặp nhiều khó khăn do những tư liệu sản xuất tham gia vào nhiều
quá trình sản xuất hoặc những yếu tố phi vật chất: Công nghệ, chính sách,
môi trường mà trong khi yêu cầu đánh giá hoạt động kinh tế đòi hỏi phải
toàn diện. Bản chất của hiệu quả kinh tế là mối tương quan so sánh tương
đối và tuyệt đối giữa lượng kết quả thu được và lượng chi phí bỏ ra. Ở đây ta
cần xác định rõ hai khái niệm: Hiệu quả và kết quả.
Hiệu quả là đại lượng vật chất được tạo ra có mục đích của con người.
Có rất nhiều các chỉ tiêu, các nội dung để đánh giá kết quả. điều quan trọng
là khi đánh giá kết quả của một hoạt động sản xuất, kinh doanh ta cần xem
xét kết quả đó được tạo ra như thế nào và mất chi phí bao nhiêu. việc đánh
giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ đơn thuần dừng lại ở
việc đánh giá kết quả đạt được mà còn đánh giá chất lượng của hoạt động
đó. Đánh giá chất lượng đạt được của hoạt động sản xuất kinh doanh chính
là đánh giá hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh đó.
Trên bình diện toàn xã hội, các chi phí bỏ ra để đạt kết quả nào đóchính
là hao phí lao động xã hội. Cho nên, thước đo của hoạt động là mức độ tối
đa hoá trên đơn vị hao phí lao động xã hội tối thiểu. Nói cách khác, hiệu quả
là sự tiết kiệm tối đa các nguồn lực đạt được cả chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế

và hiệu quả phân phối thì khi đó sản xuất mới đạt hiệu quả kinh tế. Do đó,
nâng cao hiệu quả kinh tế là mục tiêu quan trọng nhất của các đợn vị sản
xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Đối với phạm vi đề tài này chúng tôi chủ yếu tập trung vào đánh giá
hiệu quả kinh tế của hoạt động chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ.
2.1.1.4. Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế.
Trên cơ sở kết quả đạt được và chi phí bỏ ra ta cí thể xác đinh được
hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế có thể được tính toán, thể hiện qua nhiều
tiêu chí khác nhau, tùy thuộc vào mục tiêu phân tích và kết quả tính toán.
6
Chẳng hạn với mục tiêu là sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội
thì dùng chỉ tiêu giá trị sản xuất. Hay với doanh nghiệp, trang trại phải thuê
nhân công thì phải dùng chỉ tiêu lợi nhuận, còn đối với nông hộ thì dùng chỉ
tiêu giá trị gia tăng hay thu nhập hỗn hợp.
Tùy vào hoàn cảnh, mục tiêu mà hiệu quả kinh tế có thể được tính toán,
phân tích theo các phương pháp khác nhau, nhưng phải tuân theo các nguyên
tắc sau:
- Nguyên tắc về sự thống nhất giữa mục tiêu và chỉ tiêu hiệu quả. Theo
nguyên tắc này thì chỉ tiêu đánh giá hiệu quả phải thống nhất với mục tiêu,
chỉ tiêu được đưa ra dựa trên cơ sở mục tiêu đánh giá hiệu quả.
- Nguyên tắc về sự thống nhất giữa các lợi ích. Một phương án được
xem là có hiệu quả nhất khi nó kết hợp hài hòa giữa các lợi ích kinh tế, xã
hội và môi trường.
- Nguyên tắc về tính chính xác khoa học. Đây là nguyên tắc cơ bản,
then chốt trong phân tích hiệu quả kinh tế. Nguyên tắc này đòi hỏi những
căn cứ tính toán hiệu quả kinh tế phải được xác định một cách chính xác,
khoa học, tránh chủ quan, tùy tiện.
- Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế. Nguyên tắc này đòi hỏi
việc tính toán hiệu quả kinh tế phải dựa trên những số liệu thực tế, đơn giản,
dễ tính toán, dễ hiểu.

Thông thường, các nhà kinh tế học tính toán hiệu quả kinh tế theo hai
phương pháp sau:
Phương pháp xem xét tổng thể: Hiệu quả so sánh về mặt lượng giữa giá
trị sản xuất và chi sản xuất. Phương pháp này có hai dạng là dạng thuận và
dạng nghịch.
Dạng thuận: H = Q/C. Dạng nghịch: H = C/Q.
Trong đó: Q là tổng giá trị sản xuất,
C là tổng chi phí sản xuất.
Phương pháp này có ưu điểm là phản ánh rõ nét trình độ sử dụng các nguồn
lực. Xem xét được một đơn vị nguồn lực đã sử dụng đem lại bao nhiêu kết
7
quả, hay để sản xuất một đơn vị kết quả cần tiêu tốn bao nhiêu nguồn lực. Vì
vậy phương pháp này giúp ta so sánh ở các quy mô khác nhau cho ta hiệu
quả khác nhau như thế nào.
Phương pháp xem xét hiệu quả cận biên. Đây là phương pháo so sánh
phần sản phẩm tăng thêm với chi phí tăng thêm. Phương pháp này cũng gồm
hai dạng là:
Dạng thuận: H
b
= Q/C. Dạng nghịch: H
b
= C/ Q

Phương pháp này nghiên cứu đầu tư theo chiều sâu, đầu tư thâm canh,
đầu tư cho tái sản xuất mở rộng. Nó xác định kết quả thu thêm một đơn vị
cần tăng thêm bao nhiêu đơn vị nguồn lực, hay khi tăng thêm một đơn vị
nguồn lực thì thu được thêm bao nhiêu đơn vị kết quả.
Tùy vào mục đích nghiên cứu, phân tích mà ta chọn phương pháp phân
tích hiệu quả kinh tế cho phù hợp. Thông thường ta nên dùng cả hai phương
pháp để việc xem xét đánh giá đầy đủ và toàn diện hơn.

2.1.2. Nông hộ và hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi ở nông hộ
2.1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của nông hộ.
Hộ hay còn gọi là hộ gia đình là khái niệm dùng để chỉ hình thức tồn tại
của một nhóm xã hội lấy gia đình làm nền tảng. Hộ gia đình trước hết là một
tổ chức kinh tế có tính chất hành chính và địa lý (Phạm Địa Loãn, 1996).
Trong nông thôn, gia đình và hộ gia đình có mối quan hệ hữu cơ với
nhau, nhưng chúng không phải là một. Hộ gia đình là một nhóm các cá
nhân, chủ yếu chung nhau về kinh tế, cung nhau lao động sản xuất,c ùng
sinh sống trong một mái nhà, họ có thể cùng hoặc không cùng huyết thống.
Có trường hợp là hộ nhưng chưa phải là gia đình (hộ độc thân), cũng có khi
là gia đình nhưng chưa phải là một hộ (chưa hoặc không tách hộ khẩu khỏi
gia đình lớn). Ngày nay, trong cơ chế thị trường, tùy vào hoạt động sản xuất
kinh doanh mà hộ gia đình ở nông thôn được phân loại thành hộ thuần nông,
hộ hỗn hợp (kết hợp nông nghiệp và phi nông nghiệp), hộ phi nông nghiệp.
Nông hộ là hộ gia đình sống ở nông thôn, sống dựa vào nông nghiệp, là
đơn vị kinh tế xã hội chủ yếu ở nông thôn nước ta hiện nay. Về cơ bản, nông
hộ cóc các đặc trưng sau:
8
Hộ là một đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ. Trong nền kinh tế thị trường
hiện nay, hộ có quyền tự quyết định tấtc cả các hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình, cũng như quyết đinh việc quản lý, khai thác sử dụng các
nguồn lực của hộ như: Lao động, đất đai, vốn, tài nguyên….
Quyền sử dụng đất là một đặc trưng nổi bật của nông hộ, là đặc điểm
cơ bản để phân biệt nông hộ với những người lao động không có đất, hay
với dân cư thành thị. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt của nông hộ, là
nguồn tài nguyên bảo đảm cho cuộc sống lâu dài của hộ và là một bộ phận
hình thành nên vị thế và ảnh hướng của hộ trong cộng đồng làng xã.
Lao động trong nông hộ chủ yếu là lao động thuộc sở hữu của hộ (lao
động gia đình). Đa phần người lao động trong nông hộ là lao động phổ
thông, chưa qua đào tạo nghề, và lao động mang tính chất mùa vụ. Tình

trạng thiếu việc làm, nhất là vào các thời điêm nông nhàn đang là vấn đề nổi
cộm ở nông thôn nước ta hiện nay. Vì vậy, việc nâng cao trình độ, đào tạo
tay nghề, đa dạng hóa sản xuất kinh doanh, tạo việc làm tại chỗ ở nông thôn
là một đòi hỏi cấp bách hiện nay.
Hoạt động sản xuất nhỏ lẻ, manh mún và lạc hậu. Đây là đặc tính chung
của nông thôn Việt Nam, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn…Hoạt động sản xuất chủ yếu tự cung tự cấp, nếu có sản xuất hàng
hóa thì cũng rất nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ, khả năng cạnh tranh kém, hiệu quả
kinh tế thấp.
Đặc trưng về vốn và tiêu dùng. Trong nông hộ, không có sự phân biệt
giữa lợi nhuận với tiền công lao động. Bởi lao động trong nông hộ là lao
động cho chính họ, họ vừa là chủ sở hữu, vừu là người lao động. Cũng do đó
mà hoạt động tiêu dùng trong nông hộ không được tách bạch, ghi chép rõ
ràng. Điều này nhiều khi gây nên sự thâm hụt về nguồn vốn tái sản xuất của
hộ, làm cản trở sự phát triển của nông hộ nói riêng và nông thông nói chung.
Qua đó có thể nói rằng, nông hộ là một đơn vị kinh tế xã hội chủ yếu ở
nông thôn. Là tập hợp một nhóm người cùng chung một cơ sở ngân quỹ,
cùng nhau lao động sản xuất (chủ yếu là nông nghiệp), cùng ăn ở sinh hoạt
với nhau trong một mái nhà. Nông hộ có những đặc trưng khác với các
thành phần kinh tế khác, do dó khi xem xét, nghiên cứu về nông hộ cần nắm
9
rõ các đặc trưng này để đánh giá về nông hộ một cách khách quan, chính
xác.
2.1.2.2. Hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi nông hộ.
Hiệu quả trong chăn nuôi nói chung và trong chăn nuôi lợn thịt nói
riêng là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ quản lý, sử dụng các nguồn lực
trong chăn nuôi lợn của nông hộ.Dựa vào các đặc trưng cơ bản của nông hộ
mà việc nghiên cứu, đánh giá hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi nông hộ sử
dụng các tiêu chí sau:
Giá trị sản xuất (GO): là toàn bộ giá trị xản phẩm vật chất, dịch vụ mà

hoạt động chăn nuôi tạo ra được trong một thời kỳ nhất định (thường là 1
năm). Giá trị sản xuất lợn thịt trong một năm là toàn bộ sản phẩm từ chăn
nuôi lợn thịt tạo ra trong năm đó.
Giá trị gia tăng (VA): Là toàn bộ kết quả cuối cùng của hoạt động chăn
nuôi trong một thời kỳ (1 năm): VA = GO - IC.
Trong đó IC là chi phí trung gian, bao gồm:
Chi phí vật chất: Gồm chi phí nguyên vật liệu chính, công cụ rẻ tiền
hàng năm, sửa chữa tài sản cố định thường xuyên, thiệt hại tài sản lưu động,
và các chi phí vật chất khác
Chi phí dịch vụ, bao gồm: Dịch vụ thú y, tập huấn kỹ thuật, nghiên cứu,
thử nghiệm, áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới…và các chi phí dịch vụ khác.
Thu nhập hỗn hợp (MI): Là 1 bộ phận của giá trị gia tăng sau khi đã trừ đi
thuế nông nghiệp. Đây là thành phần thu nhập thuần túy bao gồm công lao
động của nông hộ. MI = VA - C1 – T. Trong đó VA - C1 là giá trị gia tăng,
C1 là chi phí khấu hao tài sản cố định. T là thuế nông nghiệp.
Trên cơ sở so sánh các yếu tố đầu vào với đầu ra, xem xét trên khía
cạnh hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn thịt ở nông hộ, chúng tôi áp dụng
các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt như sau:
Thu nhập hỗn hợp (MI) là toàn bộ thu nhập hỗn hợp từ chăn nuôi lợn thịt
trong năm. Nghiên cứu (2007).
Thu nhập trên nhân khẩu: là chỉ tiêu đánh giá xem mỗi nhân khẩu có
được bao nhiêu thu nhập từ chăn nuôi lợn thịt trong năm nghiên cứu.
Thu nhập/nhân khẩu = MI/Số nhân khẩu của hộ.
10
Thu nhập trên chi phí: Là chỉ tiêu đánh giá xem mỗi đồng chi phí đầu
tư cho chăn nuôi lợn thịt trong một năm mang lại bao nhiêu đồng thu nhập.
Thu nhập/chi phí = MI/TC. (TC là tổng chi phí, gồm chi phí trung gian,
chi phí khấu hao tài sản cố định và thuế nông nghiệp)
Thu nhập trên tháng nuôi: Là chỉ tiêu đánh giá xem trong một tháng,
mỗi con lợn cho thu nhập là bao nhiêu.

Thu nhập/tháng nuôi = (Thu nhập/con lợn)/(số tháng nuôi/con lợn).
Thu nhập trên công nuôi: là chỉ tiêu đánh giá xem giá trị ngày công của
hoạt động chăn nuôi lợn thịt là bao nhiêu.
Thu nhập/công nuôi = MI/tổng công nuôi.
Hoặc = ( Thu nhập/con bò)/(số công nuôi/con bò).
2.2. vai trò của chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ
Chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng đóng vai trò hết sức
quan trọng trong khía cạnh đời sống cũng như xã hội được thể hiện cụ thể là:
thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển: chăn nuôi và trồng trọt là hai ngành chủ
yếu của sản xuất nông nghiệp, giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ không thể
tách rời và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Có thể biểu hiện mối quan hệ đó như
sau:
Sức kéo, phân bón:
Chăn nuôi Trồng trọt
Thức ăn, phụ phế phẩm
Trồng trọt kém, năng suất cây trồng thấp thì chăn nuôi cũng sút kém và
ngược lại. chănn nuôi cung cấp nguồn phân bón hữu cơ quan trọng, góp
phần cải tạo đất, tăng năng suất cây trồng. là thành phần không thể thiếu
được trong hệ sinh thái nông nghiệp, góp phần tạo nên sự cân bằng trong hệ
sinh thái con người- vật nuôi- cây trồng và trong hệ sinh thái nhân văn của
cư dân nông nghiệp.
- Tăng thu nhập tạo công ăn việc làm cho nông dân: việc phát triển
mạnh ngành chăn nuôi thực sự đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho người
nông dân, cho quốc gia, là động lực quan trọng tạo ra tiền đề để phát triển
kinh tế hộ. Ngành chăn nuôi đã giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu
11
người lao động, góp phần làm tăng thu nhập cho các hộ gia đình, tác động
mạnh đến công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở vùng nông thôn.
- Cung cấp thực phẩm cho xã hội: hàng năm ngành chăn nuôi cung cấp
hàng triệu tấn thịt cho con người trong đó chăn nuôi lợn chiếm một tỷ trọng

lớn ( 2,2 triệu tấn thịt). chăn nuôi cung cấp nguồn protein động vật, là nguồn
thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, cân đối các axit amin vô cùng quan
trọng trong khẩu phần ăn của con người. Protein thịt có đầy đủ các loại axit
amin không thể thay thế.
Bảng 1: Thành phần dinh dưỡng của thịt lợn
Loại gia
súc
% thịt xẻ Tỷ lệ % E
(kcal/kg)
Nước Lipid Protein Khoáng
Lợn 42,5 60,9 21.5 16.5 1.1 268
[nguồn: John wile & sins, 1997].
Thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển: Các sản phẩm chăn nuôi, phần
lớn đều là nguyên liệu của công nghiệp chế biến thực phẩm, công chế biến
thức ăn gia súc, cung cấp nguồn hang xuất khẩu. Ngoài nhiệm vụ cung cấp
nguyên liệu, ngành chăn nuôi còn tiêu thụ các phụ phế phẩm của ngành công
nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp chế biến thủy sản Do đó, nó góp
phẩn giảm giá thành sản phẩm và thúc đẩy công nghiệp phát triển, bảo vệ
môi trường.
2.3. Đặc điểm của ngành chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ.
2.3.1. Quy mô chăn nuôi nhỏ chủ yếu là chăn nuôi tận dụng.
Đây là đặc điểm nổi bật của ngành chăn nuôi lợn Việt Nam. Nhìn
chung quy mô chăn nuôi của hộ còn rất nhỏ, chủ yếu là chăn nuôi tận dụng.
chăn nuôi công nghiệp mặc dù đang có su thế phát triển mạnh nhưng còn
chiếm tỷ trọng thấp.
Hiện nay, trang trại chăn nuôi với quy mô tương đối lớn, từ 50-60 con
đang phát triển mạnh. Đây là nhữngtrang trại chăn nuôi theo hướng công
nghiệp, áp dụng giống mới (giống lai, giống ngoại), kỹ thuật tiên tiến. Sản
12
lượng thịt sản xuất tại các trại chăn nuôi chỉ chiếm 10 % sản lượng thịt toàn

quốc.
Do chăn nuôi nhỏ, các gia đình chủ yếu tận dụng thức ăn thừa, thức ăn
xanh và thức ăn thô là chủ yếu. Tỷ lệ các hộ sử dụng thức ăn công nghiệp
chất lượng cao cho chăn nuôi còn thấp và chủ yếu là cho giống lai/ngoại. Do
quy mô sản xuất chưa lớn, chăn nuôi công nghiệp còn phát triển ở mức độ
thấp nên hầu hết các hộ gia đình và trang trại chăn nuôi sử dụng lao động
đình là chủ yếu. Theo điều tra của IFPRI/Bộ nông nghiệp và phát triển nông
thôn có tời trên 92% hộ chỉ sử dụng lao động gia đình cho hoạt động chăn
nuôi. Các hộ chăn nuôi có quy mô lớn thì tỷ lệ này thấp hơn khoảng 66%.[7]
2.3.2. Mức độ phổ biến giống ngoại còn thấp.
Theo điều tra của IFPRI/Bộ NN&PTNT, 1999,khoản 75% số hộ chăn
nuôi lợn có nuôi lợn lai hoặc lợn ngoại. tỷ lệ này dao động từ 69% ở các hộ
sản xuất quy mô nhỏ đến 90% các hộ quy mô lớn. Việc nuôi lợn ngoại phụ
thuộc vào quy mô sản xuất và vùng lãnh thổ. Chỉ có khoảng 10% số hộ nuôi
quy mô nhỏ có lợn ngoại trong khi đó hơn 55% số hộ quy mô lớn có nuôi
lợn ngoại.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ phổ biến của các giống vật
nuôi nhập nội không phù hợp với điều kiện chăn nuôi ở các hộ chăn nuôi sản
xuất nhỏ. Các hộ sản xuất quy mô nhỏ thường sử dụng các loại thức ăn thô
(55,5%), xanh(42%), có bổ xung thêm thức ăn tinh trong khẩu phần(2,4%).
[7]
2.3.3. Hộ chăn nuôi còn thiếu thông tin.
Do sản xuất chăn nuôi còn manh mún, phân tán, chưa có thị trờng bán
buôn thực thụ và thị trường đấu giá cho sản phẩm chăn nuôi nên hộ gia đình
chủ yếu phải bán các sản phầm cho thương lái cà các chủ thu gom trung
gian, dễ bị ép giá. Bện cạnh đó, thông tin đại chúng chưa cung cấp tốt thông
tin về thị trường cho người chăn nuôi, trên 80% nguồn thông tin chủ yếu của
người chăn nuôi về giá cả thị trường do các thương lái cung cấp và liên lạc
cá nhânm không tránh khỏi thông tin bị bóp méo.
2.3.4. Năng suất chăn nuôi thấp.

13
Nhìn chung năng suất chăn nuôi của Việt Nam còn rất thấp so với các
nước trên thế giới. đây là mô hình chăn nuôi tận dụng, tỷ lệ áp dụng tiến bộ
kỹ thuật còn hạn chế.
Hiện nay, trọng lượng xuất chuồng trung bình của VIệt Nam chỉ đạt 70-
80 kg hơi (trong thời gian nuôi 8 tháng), nhưng cut thế giới đã lên đến 100-
120 kg (trong thời gian nuôi 6,5 tháng). Trong 10 năm qua snả lượng thịt
chăn nuôi ở Việt Nam tăng khá nhanh nhưng chủ yếu là do tăng quy mô đàn
chứ không phải do tăng năng suất.[7]
2.3.5. Giá thịt cao và không ổn định.
Giá thịt nước ta còn khá cao, không thể cạnh tranh với các thị trường
trên thế giới. Giá thịt nạc Việt Nam cao gấp 1,3=1,6 lần giá thị trường tại
Chicago. Tiềm năng xuất khẩu thịt của Việt Nam yếu kém cả về giá và chất
lượng.
Bên cạnh đó giá thịt VIệt nam biến động mạnh, điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến tình hình chung và thu nhập của người chăn nuôi. Nhiều thời
điểm giá thịt lợn xuống thấp hơn mức giá thành sản xuất, chi khoảng 600-
7000 đ/kg. Người chăn nuôi bị lỗ nặng.[7]
2.3.6. Giá thành chăn nuôi Việt Nam còn cao.
Thức ăn gia súc chiếm tỷ trọng cao nhất trong tất cả các loại chi phí
trong sản xuất chăn nuôi. Ở nước ta hiện nay, tỷ trọng này chiếm khởng 70-
77% tổng chi phí chăn nuôi, trong khi đó chi phí giống chiếm từ 18-25% và
chi phí lao động chỉ chiếm khoảng 2-5%. Chính vì thế việc thăng giảm giá
thức ăn ảnh hưởng lớn tời chi phí sản xuất chăn nuôi.[7]
Giá thức ăn gia súc ở Việt Nam là cao so giá cảu các loại tương ứng ở
các nước châu Á khác. Giá thức ăn cao một phần là do giá các loại nguyên
liệu thô cao. Nguyên nhân nữa làm cho giá thức ăn cao ở Việt Nam là di
thuế nhập khẩu áo dụng cho các nguyên liệu thô giàu dinh dưỡng phục vụ
cho chăn nuô cao. Thêm vào đó tổng sản lượng sản xuất trong nước của các
nguyên liệu này dường như không đáp ứng đủ nhu cầu của ngành công

nghiệp chế biến thức ăn gia súc, mặc dù hiện tại sản lượng trong nước đang
gia tăng mạnh.
2.3.7. Dịch vụ thú y còn yếu kém.
14
Nước ta có một mạng lưới thú y từ trung ương đến địa phương. Mặc dù
mạng lưới thú y được quan tâm phát triển nhưng số lượng nhân viên thú y
vẫn còn rất thiếu và yếu, đặc biệt ở các vung sâu vùng xa, vung đặc biệt khó
khăn. Tại các xã cũng có các nhân viên thú y xã, tuy nhiên trình độ còn hạn
chế chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tế.
Thời gian qua dịch bệnh lan rộng ảnh hưởng mạnh tời hiệu quả chăn
nuôi. Hơn thế nữa, loại hình chăn nuôi nhỏ lẻ, tận dụng vẫn tồn tại ở Việt
Nam, hiện chiếm đến 90% số gia súc, gia cầm trên cả nước, tính chuyên
môn hóa chưa cao. Hầu hết các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ nên việc phòng
dịch gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, trên thị trường có nhiều loại thuốc thu y
không rõ nguồn gốc, chất lượng không đảm bảo, việc quản lý thị trường
thuốc thú y là rất khó khăn và hạn chế. Chính vì vậy hiện nay trên thị trường
vẫn xuất hiện rất nhiều thuốc lậu, thuốc giả chất lượng kém gây ảnh hưởng
lớn đến công tác phòng chữa bệnh cho gia súc.[19]
2.4 Đặc tính kinh tế kỹ thuật của chăn nuôi lợn thịt.
Thịt lợn là sản phẩm chính của chăn nuôi lợn thịt, vì vậy chăn nuôi lợn
thịt cũng là phần quan trọng nhất của của ngnàh chăn nuôi lợn. Nhu cầu về
lơn thịt nạc ngày cang cao và chênh lệch giữa giá thịt nạc và thịt mỡ ngày
càng lớn. Trình độ khoa học kỹ thuật cũng như khả năng đầu tư vào ngành
chăn nuôi lợn ngày càng tăng cao. Vì vậy, để chăn nuôi lợn thịt đạt kết quả
cao cần chọn giống tốt để nuôi và phải áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong
chăn nuôi. Đồng thời cũng cần chú ý đến nhu cầu thị trường, thị hiếu của
khách hàng. Để phục vụ xuất khẩu phải chăn nuôi lợn ngoại thuần, lợn ngoại
lai và lợn có tỷ lệ máu ngoại cao, thị trường nội địa có thể nuôi lợn lai kinh
tế.
Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của chăn nuôi lợn.

Lợn là động vật phàm ăn, có khả năng chịu đựng kham khổ cao. Lợn có
bộ máy ti êu hoá tốt, có khả năng tiêu hóa thức ăn cao. Do đó lợn có thể sử
dụng nhiều loại thức ăn khác nhau như thức ăn tinh, thức ăn thô, rau các
loại Nguồn thức ăn của lợn rất đa dạng phong phú, có thể tận dụng các phụ
phế phẩm của ngành trồng trọt, ngành công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ
15
sản, lượng thực thực phẩm Khả năng tiêu hoá tốt nên tiêu tốn ít thức ăn cho
1kg tăng trọng. Do vậy, lợn rất phù hợp trong chăn nuôi ở nông hộ.
Lợn cái có khả năng sinh sản cao, tại tạo sản xuất đàn nhanh nên lợn
hơn hẳn các loại gia súc khác về khả năng tái sản xuất. Lợn là loài động vật
đa thai, bình quân lợn đẻ mỗi năm 1,6-2 lứa, mỗi lứa 8-12 con.
Lợn dễ bị bệnh, độ rủi ro cao do khí hậu thời tiết thất thường, thiên tai,
bão lũ, hạn hán ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của lợn. Mặc khác, giá cả
đầu vào, đầu ra luôn biến đổi mạnh do cạnh tranh thị trường và cung cầu thị
trường.
Sản xuất hàng hoá lượng thức ăn công nghiệp cao đòi hỏi nguồn vốn
lớn. đặc biệt là vốn cố dịnh để xây dựng chuồng trại. Vốn ở đầu mỗi chu kỳ
sản xuất là rất cần thiết. khi sản xuất thâm canh chu kỳ sản xuất ngắn nên
thu hồi vốn nhan, hiệu quả vốn cao hơn so với các loại gia súc khác.
Nhiều loại giống ngoại nhập gia thành cao, thiếu chủ động trong việc
áp dụng.
Nhìn chung vơi lợn thịt, chuồng trại cần thoáng mát có mật độ thích
hợp, lợn phải được tiêm phòng đầy đủn trước khi đưa vào nuôi thịt, nếu
không phải tiêm bổ sung để bảo vệ đàn an toàn khỏ dịch bệnh. Lợn thịt có sự
thay đổi khá nhanh về trọng lượng do đó nhu cầu dinh dưỡng thức ăn cần
thay đổi cân đối cho phù hợp với từng giai đoạn. Cũng như các sản phẩm
nông nghiệp khác, lợn thịt còn khó khăn về vấn đề đầu ra. Muốn phát triển
chăn nuôi lợn cần phát triển đồng bộ hệ thống thu mua, bảo quản, và chế
biến sản phẩm xuất khẩu
2.5. Các vấn đề cần chú ý và tình hình nghiên cứu nâng cao hiệu quả

chăn nuôi lợn thịt ở Việt Nam.
2.5.1. Một số chính sách hỗ trợ của chính phủ về chăn nuôi lợn thịt nước
ta trong thời gian qua.
Sau ngày giải phóng đất nước, ta đã có sẵn cơ sở vật chất kỹ thuật ở cả
hai miền Nam, Bắc cho nghiên cứu và phát triển chăn nuôi nói chung và
chăn nuôi lợn nói riêng.
Nghị quyết 257-CP ngày10/7/1979 về phát triển chăn nuôi lợn sau đó là
việc khoán sản phẩm đến nhóm người và người lao động theo chỉ thị 100
16
(13/10/1981) tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi gia đình phát triển. Nghị
quyết 10 của Bộ chính trị chính Đảng cộng sản Việt Nam ngày 5/4/1988
thúc đầy chế độ “khoán” kết hợp vơi chính sách khuyến khích nông dân làm
giàu chính đáng bằng phát triển kinh tế gia đình để thúc đẩy chăn nuôi phát
triển. Đàn lợn thịt tăng lên không đáng kể trong thời kỳ từ 1976-1980 do
những cơ chế hành chính bao cấp quan liêu. Chuyển sang cơ chế thị trường
nhiều thành phần kinh tế đã tăng trưởng với tốc độ cao trong kế hoạch 1981-
1985. Đàn lợn tăng 2,5% vào cuối hững năm 80 có năm xuất khẩu khoảng
8000- 10.000 tấn thịt lợn thành phẩm. Trong thời kỳ này, một số giống ngoại
vẫn tiếp tụcđược nhập như Đại Bạch Liên Xô, Yocsia Cuba, Yocsia Bỉ,
Yocsia Nhật [14]
Cùng với chăn nuôi, công tác khoa học-công nghệ cũng được đổi mới.
Bắt đầu từ năm 1981, công tác này được phát triển theo chương trình khoa
học công nghệ cấp nhà nước: Chương trình 02.03 về phát triển chăn nuôi
lợn, chương trình 02.09 về phát triển nguồn và chất lượng thức ăn chăn nuôi
giai đoạn 1981-1985; chương trình 02B về nghiên cứu ứng dụng và biện
pháp phát triển tổng hợp chăn nuôi giai đoạn 1986-1990; chương trình KN-
02 về phát triển chăn nuôi giai đoạn 1990-1995; chương trình KHCN 08.06
về nghiên cứu phát triển chăn nuôi lợn có tỷ lệ nạc trên 52%.[14]
Hoạt động khoa học công nghệ thoe chương trình đã huy động và tập
hợp đông đảo cán bộ khoa học và kỹ thuật ở các cơ quan nghiên cưú khoa

học để có những kết luận khoa học mói, đón trước những yêu cầu sản xuất,
mặt khác triển khai những kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất, nhằm tăng khối
lợng và chất lượng sản phẩm chăn nuôi, đáp ứng nhu cầu thịt trứng, sữa
ngày một tăng của đời sống xã hội.
Từ những kết quả nghiên cứu và triển khai ký thuật tiến bộ vào sản
xuất, ta đã tổng kết 10 năm (1981) công nhận giống lợn trắng DBI ở miền
Bắc (1981), giống lợn trắng Phú Khánh ở duyên hải miền trung (1988),
giống Thuộc Nhiêu ở miền Nam (1990), công nhận lợn Yocsia Việt nam
(1990) cùn với giải pháp dùng lợn cái Móng Cái làm nài nền trong Lai kinh
tế lợn, thay thế lợn cỏ từ Nghệ An đến Quảng Nam-Đà Nẵng đã hình thành
hệ thống lợn phù hợp với điều kiện sinhthái sản xuất của mỗi vùng từ đồng
17
bằng sông hồng, dọc tuyến quốc lộ một, đến đồng bằng Sông Cửu Long.
Lợn lai kinh tế được nuôi rộng rãi trong cả nước. Tỷ lệ lợn lai trong từ 20%
năm 1981 lên 40% năm 1985 rồi 54,1% năm 1990 và 78,5% năm 1998, đưa
khối lượng lợn hơi xuât chuồng từ 47 kg lên 62 kg, rồi 67 kg và 70 kg; công
nhận một oạt vắc xin đưa vào phòng chống dịch tả ở lợn [14]
Những năm đầu thậpniên 1990, điểm nổi bật của khoa học công nghệ là
công nhận một số giống lợn ngoại nhập đã thích nghi: Lợn Yocsia, lợn
Landrat, đặc biệt là xác định mọtt số công thức lai kinh tế lợn nội với lợn
ngoại có ba giống tham gia phù hợp vói miền Bắc, miền Trung và lai kinh tế
có 3-4 máu thích hợp cho các tỉnh miền Nam, đưa tỷ lệ thịt nạc, thịt thân xẻ
đạt tương ứng là 47-49% và 56-58%, đáp ứng nhu cầu tiệu thụ thịt nạc và
xuất khẩu.
Từ những nghiên cứu trên, ta thấy rằng để chăn nuôi lợn phát triển, có
hiệu quả cao điều nhất thiết cẩn phải có đó là con giống tốt cho năng suất
chất lượng cao, thứ hai là phải có nguồn thức ăn đảm bảo dinh dưỡng và
đúng khẩu phần, người chăn nuôi phải có kỹ thuật chăn nuôi phù hợp. Tuy
nhiên vơi những nghiên cứu này ta cũng thấy nhà nước thiếu hẳn một phần
rất đáng quan tâm và không thể thiếu nếu muốn chăn nuôi có hiệu qủa đó là

nghiên cứu thị trường và nhu cầu người chăn nuôi cũng như những khó khăn
và lợi thế của nông hộ trong quá trình chăn nuôi.
2.5.2. Khả năng phát triển chăn nuôi lợn thịt ở nước ta trước vận hội
mới.
Việt Nam hiện có 3,8 triệu con lợn nái, mỗi năm sản xuất 26 triệu con
lợn thịt tương đương 2,2 triệu tấn thịt. Trong đó 50% số lợn được sản suất tạ
các nông hộ, quy mô trung bình (bán thâm canh) 40% và chăn nuôi công
nghiệp khoảng 10% [20]. Hệ thống chăn nuôi lợn nước ta tồn tại ba phương
thức, bao gồm nuôi lợn nai sinh sản để bán lợn con cai sữa; nuôi lợn thịt tự
túc con giống và nuôi lợn thịt không tự túc con giống. Phương thức nuôi thứ
nhất và thứ 2 thường chuyển dịch lẫn nhau. Vì vậy trong trường hợp không
bán được lợn con cai sữa, người chăn nuôi phải tiếp tục chăn nuôi cho đến
ngày xuất bán thịt. Phương thức nuôi thứ 3 có ưu thế là có thể dự báo thị
18
trường và chủ động về thời gian đầu vào, có thể bỏ trống chuồng khi không
thuận lợi, tuy nhiên khó khăn là không chủ động nguồn giống.
Quá trình chuyển dịch quy mô đàn trong chăn nuôi lợn nước ta giống
như các nước phát triển. Biến đổi nhanh và mạnh nhất vẫn là khu vực các
trang trại chăn nuôi quy mô trung bình. dưới tác động của dịch bệnh, giá cả
và đòi nhu cầu của thị trường đòi hỏi loại hình này cần phải thay đổi quy
mô, tăng đầu tư khoa học công nghệ để có thể tồn tại. Hoặc có thể thay đổi
phương thức sản xuất bẳng cách chuyển từ chăn nuôi lợn thịt tự túc con
giống sang chăn nuôi lợn thịt không tự túc con giống quy mô lơn dưới hình
thức gia công tron gmột đoạn của một chuỗi sản xuất. hoặc chuyển hướng
sang chăn nuôi lợn địa phương để sản xuất sản phẩm thịt chất lượng cao
bằng phương pháp thâm canh có kiểm soát chặt chẽ. Do vậy, đòi hỏi mạnh
mẽ từ phía người chăn nuôi ở đây là xác định tính đặc thù về mặt chất lượng
thịt của các giống lợn địa phương.
Chăn nuôi quy mô gia đình vẫn tồn tại và ít chịu tác động rủi ro của đầu
vào, nhưng khả năng tham gia thị trường của sản phẩm có nguồn gốc từ khu

vực này sản xuất giảm mạnh do lợi nhuận của thương lái (chi phí thu gom,
vận chuyển, kiểm dịch và chất lượng). Thị trương tiêu thụ sản phẩm từ hộ
chăn nuôi nhỏ chủ yếu là tại chỗ. Mỗi khi kinh tế hộ chưa phát triển thì chăn
nhuôi nhỏ vẫn là nguồn cung cấp thực phẩm chính cho người dân. Gia nhập
WTO sẽ tạo cơ hội lớn về việc làm, thu hút một lượng lớn lao động lớn khỏi
khu vực nông thôn sẽ làm giảm đáng kể nhu cầu thực phẩm tiêu thụ tại chỗ,
đồng thời cũng làm giảm số hộ chăn nuôi theo phương thức tận dụng do
giảm cơ học về mặt dân số.
Chăn nuôi công nghiệp bằng các giống cao sản là nguồn cung cấp thực
phẩm quan trọng cho các thành phố lớn hiện nay và người tiêu dùng cả nước
trong tương lai. Khả năng phát triển và chuyển dịch lợn theo hướng chăn
nuôi công nghiệp ở nước ta trước mắt phụ thuộc rất lớn và thị trường các
thành phố lớn và có thể đây là thị trường cạnh tranh khốc liệt sau gia nhập
WTO. Trong đó chúng ta đang gặ phải hai vấn đề bất lợi chính là giá cả và
vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là dịch lở mồm long móng và hoocmon
kích thích sinh trưởng trong chăn nuôi. Để vững thị trường, tạo đà cho qua
19
trình chuyển sang chăn nuôi công nghiệp bền vững cần phải có nỗ lực mạnh
mẽ của cả người chăn nuôi và các nhà quản lý nhà nước.
Những năm gần đây, ngành chăn nuôi nước ta có tốc độ tăng trưởng
tương đối cao, bình quân đạt 7-8% mỗi năm. Bện cạnh phương thức chăn
nuôi truyển thống thì chăn nuôi trang trại đã hình thành và có xu hướng ngày
càng phát triển. Tuy nhiên, ở lĩnh vực này đặt nhiều vân đề cần có những
giải pháp đồng bộ để phát triển bền vững. Có thể khẳng định việc phát triển
chăn nuôi trạng trại tập trung là xu thế tất yếu của ngành chăn nuôi lợn Việt
Nam khi gia nhập WTO, cũng là đòi hỏi cấp bách khi diễn biến dịch lở mồm
long móng đang diễn biến phức tạp. Việc tổ chức chăn nuôi trang trại với
quy mô lớn, tập trung sẽ tạo điều kiện tăng năng suất, cải tiến chất lượng,
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, giảm giá thành sản xuất, nâng cao khả
năng phong chống dịch bệnh, đảm bảo vệ sinh môi trường. Vì thế hơn luc

nào hết, các chủ trang trại mong muốn nhà nước “tiếp sức” cho khu vực kinh
tế này. Những chính sách thông thoáng, phù hợp về đất đai,vốn, đầu tư, thị
trường cho chăn nuôi trang trại sẽ là những giải pháp thiết thực, là nguồn
lực để ngành chăn nuôi lợn nươc ta vượt qua thách thức, phát triển bền vững
trong thời gian tới.
2.6. Tình hình phát triển chăn nuôi lợn thịt ở tỉnh Thừa Thiên Huế và
huyện Hương Trà trong những năm gần đây.
2.6.1. Tình hình phát triển chăn nuôi của tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.6.1.1. Diễn biên đàn lợn trong những năm gần đây.
Cũng như các địa phương khác trong cả nước, nuôi lợn ở Thừa Thiên
Huế đã có từ lâu đời. Tuy nhiên hình thức chăn nuôi ở đây chủ yếu là quảng
canh, quy mô hộ gia đình phân tán nhỏ lẻ. Với hình thức chăn nuôi như vậy,
thịt lợn chỉ đáp ứng nhu cầu nội tỉnh, chưa đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Tuy
nhiên tron thời gian gần đây, vơi các chương trình dự án phát triển chăn nuôi
lợn: Cải tạo đàn Lợn, chương trình nuôi lợn siêu nạc, phát triển trang trại,
gia trại chăn nuôi đã có ảnh hưởng tích cực. Ngoài ra còn có các chính sách
hỗ trọ khác về thú y, vốn Công tác khuyến nông cũng được tăng cường và
mỏ rộng, kết hợp với các lớp tập huấn, xây dựng mô hình trình diễn, tổ chức
20
các chuyến tham quan học hỏi kinh nghiệm góp phẩn không nhỏ vào thúc
đẩy chăn nuôi lợn phát triển.
Sự phát triển đàn lợn của tỉnh trong những năm gần đây được thể hiện
ở bảng 2.
Bảng 2: Mức độ biến động đàn lợn tỉnh Thừa Thiên Huế theo các năm.
Năm Tổng đàn
(con)
Mức độ
biến động
(con)
Tốc độ

tăng
(%)
Sản lượng
thịt hơi
(tấn)
Mức độ
biến động
(tấn)
Tốc độ
tăng
(%)
2000 203.237 - 0.00 14.477 - 0.00
2001 244.408 41.171 20.26 18.808 4.331 22.92
2002 245.121 713 2.92 19.058 250 1.33
2003 252.292 7.171 2.86 19.377 219 1.67
2004 259.570 7.278 2.88 20.229 852 4.40
2005 264.787 5.217 2.01 20.976 738 3.65
[Nguồn:10]
Theo bảng thống kê 2 ta thấy số lượng đàn lợn trong tỉnh qua các năm có
tăng song chậm. Giai đoạn năm 2000-2001 tốc độ tăng trưởng đàn lợn rất
nhanh vào năm này được các chính sách hỗ trợ xoá đói giảm nghèo của tỉnh
cũng như của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ chú trọng hơn vào
công tác phát triển chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi gia súc nhỏ. Tuy nhiên,
hệ thống thú y và quan trọng là thù y địa phương chưa phát triển vào giai
đoạn 2001-2002 tốc độ tăng trưởng đàn lợn chậm lại thậm chí giảm xuống,
nguyên nhân là do ảnh hưởng của dịch lở mồm long móng. đợt dịch này đã
ảnh hưỏng nghiêm trọng đến ngành chăn nuôi nước ta nói chung và ngành
chăn nuôi lợn Thừa Thiên Huế nói riêng. Những năm gần đây, công tác
phòng chống dịch và kiểm dịch được tăng cường nên chăn nuôi lợn của tỉnh
phát triển khá ổn định (tốc độ tăng trưởng bình quân 2,01-2.92%).

21
Về sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng, tốc độ tăng cũng khá cao đặc
biệt là vào giai đoạn hiện nay (từ năm 2004 trở đi) tốc độ tăng trưởng bình
quân hàng năm đạt 3,56% - 4,40% nhanh hơn tốc độ tăng trưởng đàn. Điều
này chứng tỏ trọng lượng lợn hơi xuất chuồng đã tăng dần qua các năm.
Điều đó là nhờ công tác giống được chú trọng nhiều hơn. Các giống lợn lai,
lợn ngoại, lợn siêu nạc có tầm vóc lớn, tăng trọng nhanh, tỷ lệ nạc cao được
nuôi ngày càng nhiều. Đây chính là sự phát triển theo chiều sâu, theo
phương thức chăn nuôi hàng hoá đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị
trường.
Nhìn chung, ngành chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn của tỉnh Thừa
Thiên Huế trong những năm gần đây đã có những bước phát triển ổn đinh,
sự phát triển này không những phát triển về số lượng mà cả phát triển về
chất lượng, không những theo chiều rộng mà cả theo chiều sâu. Đây là một
xu thế đáng mừng, phù hợp với xu thế chung của sự phát triển ngành chăn
nuôi và kinh tế đất nước.
2.6.1.2. Một số chương trình khuyến nông về phát triển chăn nuôi lợn
thịt thực hiện năm 2007.
Mô hình nuôi lợn thịt giống ngoại.
Mô hình này được triển khai với quy mô bước đầu là 135 con (giống
nhập từ công ty giống thức ăn chăn nuôi Thừa Thiên Huế). Trong năm qua
(7-12/2006) mô hình đã tổ chức thực hiện ở Hương An (30 con), Hương
Vinh (15 con), Thành phố Huế (20 con), Thuỷ Châu ( 25 con),Thuỷ Dương
(15 con), Thị trấn Sịa (40 con). Với 8 hộ tham gia chăn nuôi, Toàn tỉnh đã tổ
chức 4 lớp tập huấn, mỗi lớp 30 người. Kinh phí cho xây dựng mô hình là
50.043.500 đ. Trong đó hỗ trợ vật tư (giống, thú y): 36.787.500 đ, kinh phí
triển khai: 13.256.000đ. [12]
Kết quả đạt được từ mô hình: Trong thời gian nuôi 99 ngày, trọng
lượng đưa vào nuôi bình quân 24,61 kg/con. Trọng lượng xuất chuồng bình
quân 85,97 kg/con. Tăng trọng bình quân 18,63 kg/con/tháng. mức thức ăn

tiêu tốn để tăng trọng 1kg là 2,78kg. lãi bình quân mỗi con là 228.000đ, hộ
lãi cao nhất: 300.000đ, hộ lãi thấp nhất: 174.000đ. [11]
22
Phần 3
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung nghiên cứu:
1) Thực trạng chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ của xã Hương Toàn, huyện
Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế (cơ cấu đàn, quy mô, phương thức nuôi,
nguồn thức ăn, thú y…).
2) Hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ điều tra chia theo
nhóm hộ và theo phương thức nuôi (chi phí sản xuất, hiệu quả chăn nuôi…)
3) Đánh giá mối quan hệ sản lượng chăn nuôi với các yếu tố đầu vào
cho chăn nuôi (giống, thức ăn, thú y…)
4) Đề xuất những giải pháp phù hợp để phát triển chăn nuôi lợn thịt tại
nông hộ.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Đối tượng và địa điểm nghiên cứu
1) Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là các hộ chăn nuôi lợn thịt tại xã
Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2) Địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ 2/1/2008 đến 5/5/2008
- Không gian nghiên cứu: Địa điểm nghiên cứu được thực hiên tại xã
Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.2.2. Thu thập số liệu thứ cấp
- Báo cáo về tình hình phát triển chăn nuôi hằng năm của cả nước, tỉnh thừa
thiên huế, xã Hương Toàn, huyện Hương Trà.
- Các tài liệu thống kê, niêm giám thống kê từ các cơ quan lien quan
- Các báo cáo khoa học
3.2.3. Thu thập số liệu sơ cấp.

- Sử dụng cộng cụ PRA
23
+ Quan sát tổng thể
+ Phỏng vấn sâu
- Phỏng vấn cấu trúc bằng bảng hỏi 40 hộ.
- Chọn mẫu theo định hướng:
+ Nhóm hộ nuôi lợn với số lượng nhiều(trên 40 con),
+ Nhóm hộ nuôi với số lượng vừa (25-40 con).
+ Nhóm hộ nuôi với số lượng ít( dưới 20 con)
3.2.4. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu
- Phương pháp xử lí số liệu bằng phần mềm Excel.
- Phân tích và tổng hợp số liệu điề tra bằng phương pháp luận và so sánh.
24
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đặc điểm vùng nghiên cứu.
4.1.1Đặc điểm tự nhiên
4.1.1.1.Vị trí địa lí
Xã Hương Toàn thuộc huyện Hương Trà nằm ở vị trí phía Bắc TTHuế
và theo quốc lộ 1A 9Km, cách trung tâm huyện về phía Tây Nam 6Km, phía
Đông giáp xã Hương Vinh, Hương Sơ., phía Tây giáp xã Hương Xuân, phía
Nam giáp xã Hương Chữ, phía Bắc giáp xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền.
Tổng diện tích tự nhiên 1220ha, toàn xã có 12 đơn vị thôn, ấp.
Là một xã đồng bằng của huyện Hương Trà chủ yếu là diện tích thấp
trủng, có chiều dà 5km tuyến đường tỉnh lộ 8B đi qua đã được xây dựng
hoàn thành năm 2000 chạy dọc từ làng Hương Cần đến Nam Thanh khá
thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá.[18]
4.1.1.2Địa hình thổ nhưỡng
Về địa hình, địa thế có phần đơn giản, giới hạn độ cao so với mặt nước
biển không quá 2,2 m, thấp nhất 0,2m. Hình dạng bề mặt chủ yếu là bằng

phẳng, đều được cấu tạo trầm tích trẻ gồm chủ yếu là phù sa được bồi đắp,
thành phần cơ giới thịt trung bình, tầng đất canh tác thương dày trên 10cm,
rất thuận lợi cho lúa và rau màu phát triển.
4.1.1.3 .Khí hậu
Khí hậu thời tiết của xã cũng mang tính chất chung thời tiết của huyện
Hương Trà, bên cạnh đó cũng mang những đặc điểm riêng của khí hậu vùng
đồng bằng.
Chế độ thuỷ nhiệt: nhiệt độ trung bình hằng năm là 25,0 độ C, nhiệt độ
cao nhất là 40 độ C, thấp nhất là 10,5 độ C. Tổng tích nhiệt hằng năm là
9150 độ C, số giờ nắng trung bình hằng năm là 2952 giờ.
Chế độ mưa: lượng mưa phân bố không đuề trong nă,tập trung mưa bắt
đầu từ tháng 8 và kết thúc vào cuối tháng 12 hàng năm. Lượng mưa tập
trung cao nhất từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm, vào những tháng này
thường xảy ra lũ lụt và lượng mưa giai đoạn này chiếm 70-75% lượng mưa
25

×