Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

báo cáo phân tích nghành dược tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.67 KB, 53 trang )

Năm 2008

BÁO CÁO PHÂN TÍCH
NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM





CÔNG TY CHỨNG KHOÁN ACB
Phòng Nghiên Cứu & Phân Tích
2 Bis Nguyễn Thị Minh Khai – P. Đa Kao – Q.1 – Tp.HCM
ĐT: 08.4046636 - Fax: 08.4046637
Website: www.acbs.com.vn

BÁO CÁO PHÂN TÍCH






2008
















MỤC LỤC


KHUYẾN CÁO:

Các thông tin thể hiện trong Báo cáo phân tích này đã được thu thập, nghiên cứu và
p
hân tích
t
ừ các nguồn thông tin được cho là chính xác và đáng tin cậy tại thời điểm
p
hát hành và chỉ là quan điểm riêng của người phân tích.
B
áo cáo phân tích này chỉ có giá trị tham khảo, vì vậy Công ty TNHH Chứng khoán
A
CB (ACBS) hoàn toàn không chịu trách nhiệm đối với bất kỳ hoạt động kinh doanh
nào phát sinh từ việc tham khảo hay sử dụng thông tin từ Báo cáo phân tích này.















Công ty Chứng khoán ACB
Phòng Nghiên cứu & Phân tích


Chuyên viên thực hiện:

Trần Thiên Hồng Vân






BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 3
MỤC LỤC
PHẦN I: CÁC YẾU TỐ VĨ MÔ TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM
Thể chế - Luật pháp 5
Kinh tế 7
Văn hóa - xã hội 8
Công nghệ 9
Cam kết WTO trong ngành dược 10

PHẦN II: PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM
I. Lịch sử hình thành và phát triển ngành dược Việt Nam 14
II. Phân tích ngành 15
1. Cấu trúc ngành và các thành phần tham gia 15
2. Cung cầu dược phẩm trong nước 18
3. Thị trường 20
4. Nguyên vật liệu 22
5. Chất lượng thuốc 22
6.Giá cả th
ị trường 22
7. Hệ thống phân phối 23
8. Trình động công nghệ 25
9. Nguồn nhân lực 25
10. Đầu tư nước ngoài 26
III. Vị thế, triển vọng và định hướng phát triển ngành 28
1. Vị thế 28
2. Triển vọng phát triển ngành 28
3. Định hướng phát triển ngành 29
PHẦN III: PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM THEO MÔ HÌNH PORTER'S FIVE
FORCES 30
Sức mạnh nhà cung cấp
Sức mạnh khách hàng
Mức độ cạnh tranh
Rào cản gia nhập
Nguy cơ
thay thế
PHẦN IV: MỘT SỐ DOANH NGHIỆP DƯỢC PHẨM TRONG NƯỚC 33
PHẦN V: NGÀNH DƯỢC CÓ NÊN ĐƯỢC XEM XÉT VÀ QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ TRONG
NĂM 2008 45
MỘT SỐ GHI CHÚ 49

PHỤ LỤC 51



BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 4








PHẦN I

CÁC YẾU TỐ VĨ MÔ TÁC ĐỘNG ĐẾN
NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM






BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 5

Thể chế - Luật pháp (Political):
Sự ổn định về chính trị:
Việt Nam được đánh giá là nước có môi trường chính trị, xã hội, an ninh ổn định. Chính phủ đã

có những nổ lực trong việc thể chế hóa hệ thống luật pháp, cải cách hành chính tạo điều kiện tốt cho
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước nói chung, các doanh nghiệp trong
ngành dược phẩm nói riêng.
Chính sách:
Ngành dược là ngành chịu tác động mạnh bởi các chính sách quản lý của Nhà nước.
- Luật Dược số 34/2005/QH11 được Quốc hội hội thông qua ngày 14/6/2005 bao gồm 11 Chương,
73 Điều, có hiệu lực kể từ ngày 01/10/2005 bao quát 5 vấn đề lớn của ngành dược:
+ Chính sách của Nhà nước về Dược.
+ Quản lý kinh doanh thuốc.
+ Quản lý chất lượng thuốc.
+ Sử dụng thuốc.
+ Cơ quan quản lý về Dược.
Luật Dược được ban hành trên cơ sở thay thế Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân (năm 1989) và
Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân (năm 2003). Đây là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất điều
chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực dược. Luật Dược đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với
ngành dược; tạo điều kiện pháp lý cho việc phát triển ngành dược thành một ngành kinh tế - kỹ thuật
mũi nhọn.
Ngoài ra, trong giai đoạn 2002 – 2006, 22 văn bản pháp quy liên quan đến lĩnh vực dược đã
được xây dựng và đến 31/01/2007, đã có 10 văn bản được cấp có thẩm quyền chính thức ban hành,
trong đó nổi bật có các văn bản như:
+ Quyết định số 108/2002/QĐ-TTg ngày 15/08/2002 của Thủ tướng chính phủ Về việc phê duyệt
Chiến lược phát triển ngành Dược giai đoạn đến 2010 đã xác định ngành dược sẽ
được phát triển
thành một ngành kinh tế- kỹ thuật mũi nhọn theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Quyết định
còn đưa ra các mục tiêu cụ thể đến năm 2010 cùng những giải pháp và chính sách chủ yếu về đổi
mới công nghệ; tổ chức và phát triển nguồn nhân lực; giám sát chất lượng thuốc; xây dựng cơ chế
chính sách; bảo đảm tài chính,
+ Nghị định số 79/2006/NĐ-CP ngày 09/08/2006 quy định chi tiết thi hành một s
ố điều của Luật
Dược về Chính sách của Nhà nước về lĩnh vực dược; Quản lý nhà nước về giá thuốc; Điều kiện kinh

doanh thuốc; Quản lý thuốc thuộc danh mục phải kiểm soát đặc biệt; Tiêu chuẩn chất lượng thuốc,
cơ sở kiểm nghiệm thuốc của Nhà nước và giải quyết khiếu nại về kết luận chất lượng thu
ốc; Thẩm
quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước về dược.
Ngày 19/04/2007, Bộ Y Tế ban hành Quyết định số 27/2007/QĐ-BYT về lộ trình triển khai
nguyên tắc “Thực hành tốt sản xuất thuốc” (GMP) và “Thực hành tốt bảo quản thuốc” (GSP) được
thực hiện. Theo quyết định này, kể từ ngày 01/07/2008, doanh nghiệp sản xuất không đạt tiêu chuẩn



BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 6
GMP theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (GMP WHO) và doanh nghiệp xuất nhập khẩu và
kinh doanh dược có hệ thống kho bảo quản không đạt tiêu chuẩn GSP sẽ phải ngừng sản xuất và
ngừng xuất nhập khẩu trực tiếp.
Đây sẽ là cuộc thanh lọc các doanh nghiệp trong ngành dược. Tính đến năm 2007, trong số 178
doanh nghiệp sản xuất dược phẩm chỉ có 31 doanh nghiệp đạt GMP-WHO. Các doanh nghiệp còn
lại khi đến thời hạn nếu không đạt được GMP-WHO sẽ phải thu hẹp phạm vi sản xuất và chuyển
sang gia công cho các doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn.
Hiện tại Bộ Y Tế đang xúc tiến triển khai đề án Phát triển công nghiệp dược và xây dựng mô
hình hệ thống cung ứng thuốc của Việt Nam giai đoạn 2007-2015 và tầm nhìn đến 2020. Đề án đề
cập đến những nội dung sau:
+ Trong giai đoạn 2007-2015, ngành dược sẽ đầu tư xây dựng một số nhà máy sản xuất nguyên liệu
hóa dược vô cơ, nhà máy sản xuất tá dược thông thường và tá dược cao cấp nhằm đáp ứng khoảng
80% nhu cầu tá dược phục vụ sản xuất thuốc.
+ Giai đoạn sau năm 2015 đến năm 2020, tập trung nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng công suất
của các nhà máy sản xuất nguyên liệu hóa dược đã được xây dựng; đầu tư xây dựng thêm mới một
số nhà máy sản xuất các nguyên liệu kháng sinh thế hệ mới đáp ứng khoảng 60% nhu cầu về nguyên
liệu trong nước, nguyên liệu thuốc kháng ung thư, hạ nhiệt, giảm đau, tiểu đường và vitamin, nội
tiết, tim mạch,

Các đạo luật liên quan:
Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, Luật Thương mại và Luật Sở hữu trí tuệ
cũng đã được Quốc hội thông qua, được kỳ vọng sẽ tạo môi trường đầu tư - kinh doanh - cạnh tranh
thông thoáng, minh bạch, bình đẳng và lành mạnh cho các doanh nghiệp. Trong giai đoạn hoàn thiện
khung pháp lý, các thay đổi của luật và văn bản dưới luật có thể tạo ra rủi ro về luật pháp cho các
doanh nghiệp trong ngành dược.
Vị thế của cơ quan đầu ngành:
Cơ quan trực tiếp quản lý ngành dược là Cục Quản Lý Dược
được thành lập vào năm 1996
theo Quyết Định số 547/TTg. Đây là cơ quan quản lý chuyên ngành thuộc Bộ Y tế, giúp Bộ trưởng
Bộ Y tế thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và thực thi pháp luật, điều hành các hoạt động
chuyên môn, nghiệp vụ về lĩnh vực dược và mỹ phẩm trên phạm vi cả nước. Cục Quản Lý Dược
Việt Nam có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng, có trụ sở làm việ
c tại thành phố Hà
Nội. Kinh phí hoạt động của Cục do ngân sách Nhà nước cấp và các nguồn kinh phí hợp pháp khác.








BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 7

Kinh tế (Economics):
6.90%
7.10%
7.30%

7.80%
8.40%
8.20%
8.48%
0.00%
2.00%
4.00%
6.00%
8.00%
10.00%
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

Biểu đồ 1. Tốc độ tăng trưởng GDP từ năm 2001 – 2007
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Nhìn chung mức tăng trưởng GDP của Việt Nam trong những năm qua là khá vững chắc. Đặc
biệt, trong 3 năm gần đây, tăng trưởng GDP luôn vược mức 8% và mức tăng trưởng GDP năm 2007
đạt 8,48%, cao nhất trong 7 năm gần đây. Sự phát triển của nền kinh tế cùng với nhu cầu chăm lo
đến sức khỏe của người dân ngày càng cao sẽ tác động tốt đến sự phát triển của ngành dược.
Tuy nhiên, trong năm 2008, nền kinh tế vĩ mô Việt Nam có nhiều dấu hiệu bất ổn:
- Lạm phát tăng. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 2/2008 tăng với tốc độ kỷ lục 3,56% đưa CPI của
2 tháng đầu năm lên mức 6,02% trong khi mục tiêu cả năm là kiểm soát CPI dưới 8,5%.
- Chính sách thắt chặt tiền tệ được ban hành khiến nhiều ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu thanh
khoản, lao vào cuộc đua tăng lãi suất.
- Thị trường chứng khoán sụt giảm trong một khoản thời gian dài.
Năm 2008 là năm mà nền kinh tế Việt Nam đứng trước sự lựa chọn rất nghiệt ngã là ưu tiên thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế hay kiểm soát lạm phát, khi hai mục tiêu này trở thành hai vấn đề mâu thuẫn
nhau?
Trong bối cảnh đó, các ngành trọng điểm của n
ền kinh tế đều bị ảnh hưởng. Ngành xây dựng
đang bị đe dọa bởi sự phá sản do giá nguyên vật liệu (xi măng, sắt, thép, gạch xây dựng, ) tăng

mạnh trong khi nguồn vốn đổ vào các dự án là vốn vay ngân hàng. Ngành thủy sản thu hẹp quy mô
sản xuất do tỷ giá biến động theo chiều hướng bất lợi cho hoạt động xuất khẩu. Ngành ngân hàng đối
mặt với tình trạng thiếu thanh khoản khi chính ph
ủ đưa ra các biện pháp thắt chặt tiền tệ. Ngành bất
động sản cũng gặp khó khăn trước chính sách thắt chặt cho vay bất động sản. Trong khi đó, ngành
dược là ngành ít bị tác động bởi đây là ngành thiết yếu, người dân vẫn có nhu cầu về các sản phẩm
thuốc cho dù nền kinh tế có suy thoái và hiện nay dịch bệnh ở người và gia súc vẫn đang tiếp diễn tại
các thành phố lớn và các địa ph
ương.







BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 8
Văn hóa – xã hội (Sociocultrural ):
Dân số
Đvt: triệu người
78.68
79.72
80.90
82.03
83.10
84.15
85.19
70.00
75.00

80.00
85.00
90.00
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

Biểu đồ 2. Dân số Việt Nam từ năm 2001 – 2007
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Trong vòng 7 năm vừa qua, dân số Việt Nam tăng trung bình 1,08 triệu người/năm. Việt Nam
hiện là nước đông dân thứ 14 trên thế giới và xếp thứ 3 trong khu vực (chỉ sau Indonesia và
Philippines) và dự báo dân số có thể sẽ tăng lên 93,7 triệu người vào năm 2015.
Việt Nam với dân số đông, khoảng 85 triệu người, với 94.3% dân số ở độ tuổi lao động, tỉ lệ
sinh duy trì ở mức cao nên nhu cầu về thuốc chữa bệnh là rất lớn. Ngoài ra, tăng trưởng GDP hàng
năm của Việt Nam vào khoảng 8%/năm, mức sống người dân ngày càng nâng cao nên nhu cầu với
các loại thuốc bổ dưỡng, vitamin, tăng cường sức khỏe là cần thiết. Đây sẽ là những nhân tố góp
phần phát triển ngành dược.

Thành thị Nông thôn
Năm
Tổng số
(tr.người)
Giá trị
(tr.người)
Tỷ trọng
Giá trị
(tr.người)
Tỷ trọng (%)
2004 82,03 21,73 26,49% 60,29 73,51%
2005 83,10 22,02 26,51% 61,07 73,49%
2006 84,15 22,87 27,12% 61,28 72,82%
2007 85,19 23,34 27,40 % 61,85 72,60%

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê
Việt Nam là một nước nông nghiệp, trên 70% dân số sinh sống tại khu vực nông thôn, có mức
sống thấp hơn khu vực thành thị, nhu cầu dùng thuốc có giá thành rẻ cao. Đây là một thị trường to
lớn cho các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm nội địa, do ngoại trừ một số thuốc biệt dược, chuyên
khoa cần phải nhập ngoại, đa số thuốc generic sản xu
ất trong nước đều đáp ứng nhu cầu điều trị
trong khi giá rẻ hơn.





BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 9
Thói quen sử dụng hàng hóa của người tiêu dùng:
Phần lớn người tiêu dùng Việt Nam dùng thuốc không cần kê toa của bác sĩ đối với các bệnh
thông thường. Bệnh nhân khi bị nhức đầu, sổ mũi, đau bụng tự mua thuốc uống, hoặc uống theo
đơn và bệnh của người khác. Nhiều người chỉ khi uống thuốc vài ngày không khỏi hoặc khi bệnh rất
nặng, mới đi khám bác sỹ. Nếu lần sau bị ốm mà có những triệu chứng giống lần trước, họ sẽ lấy
đơn cũ đi mua. Hầu hết bệnh nhân ngại vào bệnh viện khi mắc các bệnh thông thường. Họ cho rằng
nếu vào bệnh viện để lấy đơn thuốc vì những bệnh thông thường thì vừa mất thời gian vừa tốn tiền.
Khi bị nhức đầu, sốt nhẹ, tiêu chảy thì họ ra hiệu thuốc tây khai bệnh. Người bán bán đưa thuốc gì
uống thuốc đó. Cũng có khi người bệnh mua thuốc theo hướng dẫn của một người hàng xóm từng có
bệnh tương tự.
Nắm được thói quen này của người tiêu dùng, các công ty sản xuất dược phẩm đã dùng đội
ngũ trình dược viên tác động đến các hiệu thuốc dưới hình thức hoa hồng do sự tư vấn và kê toa của
nhà thuốc ảnh hưởng lớn đến quyết định mua thuốc của người bệnh.
Ngoài ra, khi mức sống ngày một cao, hiện tượng lạm dụng thuốc bổ trong thói quen sử dụng
thuốc của người tiêu dùng ngày một phổ biến. Cuộc sống ngày càng bận rộn với nhiều áp lực, nhu
cầu bổ sung vitamin và khoáng chất để duy trì sức khỏe cho cơ thể ngày càng được quan tâm. Do

vậy, thị trường thuốc bổ cung cấp vitamin và khoáng chất đang phát triển rất nhanh, là “miếng bánh”
tương đối lớn cho các các doanh nghiệp dược phẩm để mắt tới. Hiện nay, trong danh mục sản phẩm
cung ứng ra thị trường của các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm hầu như đều có các loại thuốc bổ
dưới các hình thức như: viên sủi bọt, viên, siro,

Công nghệ (Technological) :
Ở bất kỳ quốc gia nào, khoa học và công nghệ đều được xem là lĩnh vực tối quan trọng, quyết
định năng lực cạnh tranh cũng như hiệu quả tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.
TWAS (Viện Hàn lâm khoa học thế giới thứ 3), một tổ chức khoa học quốc tế rất có uy tín và
thân thiện với Việt Nam, do UNESCO bảo trợ xếp Việt Nam vào nhóm nước SLDC (Scientifically
Lagging Developing Countries) dịch nghĩa là “nhóm nước đang phát triển lạc hậu về khoa học”.
Nhóm này gồm 79 nước trên thế giới, trong khu vực ASEAN có Lào, Campuchia, Myanma và
Indonesia. Qua đó cho thấy Việt Nam là một nước có trình độ công nghệ lạc hậu và ngành dược Việt
Nam không nằm ngoài sự đánh giá đó. Trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất thuốc còn thấp và chưa
được đầu tư đúng đắn, đang diễn ra tình trạng đầu tư dây chuyền trùng lặp.
Tại các nước phát triển, hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) trong ngành dược rất
được chú trọng. Từ năm 2002, các công ty dược phẩm đa quốc gia có xu hướng triển khai hoạt động
R&D ở nước ngoài nhiều hơn, đặt biệt các nước trong khu vực Châu Á và các nước đang phát triển
trở thành điểm đến của hoạt động R&D ở nước ngoài của các công ty này do chi phí nhân công rẻ.
Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước thu hút hoạt động R&D nhiều nhất hiện nay, kế đến là Singapore.
Tuy nhiên, mặc dù Việt Nam là một nước đang phát triển với chi phí nhân công rẻ nhưng đầu tư
nước ngoài trong hoạt động R&D tại Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng của ngành. Nguyên



BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 10
nhân là do quy định về đầu tư và sản xuất của đối với ngành dược phẩm vẫn tồn tại một số rào cản
đối với của các nhà đầu tư như: các DN dược 100% vốn nước ngoài vẫn chưa được phép thành lập
trước 1/1/2009, trừ khi đã có nhà máy sản xuất tại Việt Nam hoặc liên doanh với một DN dược nội

địa; hạn chế việc các công ty nghiên cứu và phát triển dược phẩ
m hoạt động một cách toàn diện; một
số quy định về thử nghiệm lâm sàng trước khi đăng ký thuốc mới, giấy chứng nhận dược phẩm cùng
với việc kiểm định vắc xin và sinh phẩm y tế nhập khẩu vào Việt Nam, bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ…chưa phù hợp với quy định chung của quốc tế,…
Ngày 08/01/2006, Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng đã ch
ỉ đạo Bộ Công nghiệp
(nay là Bộ Công Thương) xây dựng và hoàn chỉnh Chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ
trọng điểm quốc gia phát triển công nghiệp Hoá dược đến năm 2020 và Bộ Y tế xây dựng và hoàn
chỉnh Chương trình Phát triển công nghiệp Dược và xây dựng mô hình hệ thống cung ứng thuốc của
Việt Nam giai đoạn 2007-2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Hiện nay cả hai đề án nêu trên đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại các Quyết định số 61/2007/QĐ-TTg ngày 7 tháng 5 năm 2007 và
số 43/2007/QĐ-TTg ngày 29 tháng 3 năm 2007.
Điều này thể hiện việc phát triển trình độ khoa học - công nghệ trong ngành dược đã nhận
được sự quan tâm thích đáng của Đảng và Nhà nước, được chọn là một trong những chương trình
trọng điểm quốc gia.

Cam kết WTO trong ngành dược:
Từ 01/01/2007, các doanh nghiệp dược nước ngoài được quyền mở chi nhánh nhưng không
được tham gia phân phối trực tiếp tại Việt Nam.
01/01/2008, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài (chiếm dưới 51%) được quyền kinh doanh
xuất nhập khẩu dược phẩm.
01/01/2009, các doanh nghiệp nước ngoài được quyền kinh doanh (xuất nhập khẩu) trực tiếp
dược phẩm ở Việt Nam được quyền bán lại cho các doanh nghiệp trong nước có chức năng phân
phối.
Mức thuế áp dụng chung cho dược phẩm sẽ giảm từ 0-0,5% so vớ
i mức thuế 0-10% như trước
đây. Sau 5 năm khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, mức thuế sẽ giảm còn
2,5%; mức thuế trung bình đối với mỹ phẩm giảm từ 44% xuống còn 17,9% vào thời điểm Việt Nam
thực hiện đầy đủ cam kết.

Việt Nam gia nhập WTO có những ảnh hưởng to lớn đến ngành dược. Bên cạnh những thuận lợi
ngành dược phải đối đầu với không ít khó khăn.
Thuận lợi:
- Môi trường đầu tư:
Việt Nam gia nhập WTO sẽ mang lại cho các ngành kinh tế nói chung và ngành dược nói riêng một
môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, minh bạch và thuận lợi hơn; được tiếp cận với nhiều
thị trường lớn, đa dạng với các điều kiện kinh doanh, cạnh tranh công bằng.




BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 11
- Công nghệ:
Ngành dược Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi trong tiếp cận với các đối tác kinh doanh để hợp tác sản
xuất, chuyển giao công nghệ do các doanh nghiệp dược nước ngoài được phép mở chi nhánh tại
Việt Nam kể từ 01/01/2007.
- Vốn:
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, công nghiệp dược phẩm là một lĩnh vực thu hút sự quan tâm của
nhà đầu tư nước ngoài với số lượng doanh nghiệp đăng ký hoạt động tăng mạnh. Do vậy, ngành
dược sẽ đón một lượng vốn đầu tư lớn từ sự gia nhập của các tập đoàn dược phẩm nước ngoài vào
Việt Nam.
- Nguồn nguyên liệu:
90% nguyên liệu của ngành dược được nhập khẩu từ nước ngoài chỉ để sản xuất các loại thuốc
thông thường. Do vậy, sự biến động của giá nguyên liệu, bất ổn về chính trị,…ở nước ngoài sẽ tác
động đến giá thuốc, từ đó ảnh hưởng nhiều đến giá thành sản xuất và khả năng sinh lời của các
công ty dược. Do vậy, khi Việt Nam mở cửa, các doanh nghiệp dược phẩm trong nước có cơ hội lựa
chọn nguồn nguyên phụ liệu dược với chi phí hợp lý.
Khó khăn:
- Năng lực cạnh tranh:

Năng lực cạnh tranh của ngành dược Việt Nam còn thấp, đang ở cấp độ 2,5 – 3 theo cấp độ phân
loại ngành dược của WHO. Cấp độ cao nhất theo phân loại này là 4 (Sản xuất được nguyên liệu và
phát minh thuốc mới), ngành dược Việt Nam chỉ mới sản xuất được thuốc gốc, xuất khẩu được một
số dược phẩm, đa số phải nhập khẩu.
- Các quy định về sở hữu trí tuệ:
Sở hữu trí tuệ cũng là một thách thức cho ngành dược khi Việt Nam gia nhập WTO. Tự do hóa sẽ
làm gia tăng các nguy cơ tranh chấp pháp lý về quyền sở hữu công nghiệp giữa các doanh nghiệp
trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài. Khi gia nhập WTO, ngành dược Việt Nam phải cam
kết bảo mật dữ liệu thử nghiệm lâm sàng có trong hồ sơ đăng ký của các thuốc mới trong thời hạn 5
năm.
- Vốn
Tiền thân của các doanh nghiệp dược là các xí nghiệp với quy mô vừa và nhỏ. Khi Việt Nam gia
nhập WTO, các doanh nghiệp này sẽ phải đối đầu với các tập đoàn dược phẩm nước ngoài với tiềm
lực tài chính mạnh. Tuy nhiên, trong năm 2006-2007, thị trường chứng khoán phát triển, một số
doanh nghiệp dược nội địa đã nắm bắt cơ hội huy động được một lượng vốn lớn từ kênh này để đầu
t
ư nâng cao năng lực sản xuất.
- Kỹ thuật công nghệ:
Trình độ kỹ thuật công nghệ sản xuất thuốc của Việt Nam còn thấp, vẫn dựa vào bào chế các thuốc
gốc là chủ yếu, chưa có khả năng sản xuất thuốc có hàm lượng công nghệ cao. Máy móc thiết bị sản
xuất nhiều nguồn gốc, nhiều thế hệ; bên cạnh những dây chuyền, thiết bị m
ới một số máy móc thiết



BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 12
bị thuộc thế hệ những năm 1960-1970. Thêm vào đó, hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D)
chưa được chú trọng và đầu tư hợp lý.
- Hàng rào thuế quan:

Khi chính thức gia nhập WTO sẽ có 3 dòng thuế mức thuế suất nhập khẩu giảm, mức giảm 5% với
thời gian cam kết thực hiện từ 3-5 năm. Do trước và sau khi gia nhập WTO, thuế suất nguyên liệu
chủ yếu là 0% nên sẽ không có ảnh hưởng nhiều đến các doanh nghiệp sản xuất phải nhập khẩu
nguyên liệu tuy nhiên sẽ gây ảnh hưởng lớn tới một số doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu của Việt
Nam. Sau khi gia nhập WTO sẽ có 47 dòng thuế có mức thuế xuất thuế nhập khẩu giảm, đó là các
dòng thuế hiện có mức thuế nhập khẩu là 10% và 15%, thời gian cam kết thực hiện từ 2-5 năm
(trung bình là 3 năm), mức giảm từ 2-7% (trung bình là 3%), một số dòng thuế chính đó là nhóm
kháng sinh (18/29 dòng thuế), nhóm vitamin (4/9 dòng thuế). Việc giảm thuế suất thuế nhập khẩu
một số dòng thuế sẽ là thách thức cho các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm trong nước trong việc
cạnh tranh với thuốc nhập khẩu từ nước ngoài.
























BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 13















PHẦN II

PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC VIỆT NAM


















BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 14

I./ Lịch sử hình thành và phát triển ngành dược Việt Nam:
Giai đoạn 1975 – 1990: Ngành dược Việt Nam trong giai đoạn thời bao cấp.
Ngành dược Việt Nam giai đoạn này chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, sản xuất
không đáng kể, mỗi tỉnh có một xí nghiệp liên hợp dược và mỗi huyện có một công ty dược cấp 3.
Mức tiêu thụ bình quân thuốc trên đầu người thời kỳ này đạt vào khoảng 0,5-1USD/năm.
Do thuốc trong thời kỳ này khan hiếm nên tiêu chuẩn chất l
ượng thuốc trong sử dụng chưa
được chú trọng.
Giai đoạn 1991-2005, ngành dược bước vào thời kỳ đổi mới, thực hiện sự chuyển đổi từ cơ chế bao
cấp sang cơ chế thị trường.
Các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực sản xuất thuốc được thu hẹp về số lượng và thay đổi
cơ cấu để tập trung đầu tư về chiều sâu, nâng cấp nhằm thực hiện các quy định về thực hành tốt sản
xuất thuốc (GMP). Hàng loạt xí nghiệp, công ty dược nhà nước được cổ phần hóa, mạnh dạn đầu tư
sản xuất. Số thuốc sản xuất trong nước được đăng ký ngày càng nhiều, từ 175 hoạt chất (năm 1997)
lến đến 384 hoạt chất (năm 2002).
Ngày 13 - 8 - 1996, cơ quan quản lý cao nhất của ngành dược là Cục Quản lý Dược (trực thuộc
Bộ Y tế) được thành lập theo Quyết Định số 547/TTg với chức nǎng quản lý chuyên ngành về thuốc

và mỹ phẩm trong phạm vi cả nước. Tại các tỉnh và thành phố lớn, cơ quan quản lý về dược được tổ
chức thành phòng quản lý dược thuộc sở y tế.
Cục Quản lý Dược đã tiến hành nghiên cứu, xây dựng, tham mưu cho Chính phủ và Bộ Y tế
ban hành một loạt vǎn bản pháp quy về quản lý lưu thông, phân phối, xuất nhập khẩu, đǎng ký chất
lượng thuốc. Trong đó quan trọng nhất là "Chính sách quốc gia về thuốc Việt Nam", một vǎn bản
pháp lý do ngành xây dựng và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Nghị quyết số 37/CP ngày
20 - 6 - 1996 nhằm bảo đảm cung cấp thường xuyên và đủ thuốc thiết yếu có chất lượng tốt đến nhân
dân, bảo đảm sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và có hiệu quả, nâng cao chất lượng chǎm sóc và bảo vệ
sức khỏe cho nhân dân, xây dựng định hướng, phát triển ngành Dược Việt Nam theo hướng CNH,
HĐH.
Ngày 14/06/2005, Luật Dược số 34/2005/QH11 được Quốc hội hội thông qua, có hiệu lực kể
từ ngày 01/10/2005 quy định việc kinh doanh thuốc, đăng ký, lưu hành thuốc, sử dụng thuốc, cung
ứng thuốc, thông tin, quảng cáo thuốc, thử thuốc trên lâm sàng, qu
ản lý thuốc gây nghiện, thuốc
hướng tâm thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc phóng xạ, tiêu chuẩn chất lượng thuốc và kiểm
nghiệm thuốc Đây là cơ sở pháp lý cao nhất điều chỉnh toàn bộ hoạt động trong lĩnh vực dược để
ngành Dược Việt Nam được hoạt động trong một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ. Luật
Dược được ban hành thể hiện sự quan tâm củ
a Nhà nước đối với ngành dược, tạo điều kiện pháp lý
cho việc phát triển ngành Dược thành một ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn.
Giai đoạn 2006-2007, ngành dược tiếp tục phát triển với tốc độ cao, khoảng 18-20%/năm. Việt Nam
gia nhập WTO mang lại những thuận lợi cũng như khó khăn cho ngành dược.



BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 15
Năm 2006-2007, ngành dược đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam
đang trên đà phát triển.
Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán trong giai đoạn này, các công ty dược

phẩm đã huy động được một lượng vốn lớn qua kênh này để đầu tư cho các hoạt động nâng cao năng
lực sản xuất. Cổ phiếu của 3 doanh nghiệp Dược Hậu Giang, Imexpharm, Domesco đang được niêm
yết trên Sở giao dịch chứng khoán TPHCM cũng như cố phiếu của một số công ty dược trên thị
trường OTC như: Mekophar, Vidipha, Bidipha, OPC, Traphaco đã thu hút sự quan tâm của các nhà
đầu tư tổ chức cũng như cá nhân, đánh dấu một bước phát triển lớn của ngành dược.
Đây cũng là giai đoạn mà các công ty dược phẩm đã đạt được chứng nhận GMP-ASEAN đẩy
mạnh đầu tư GMP-WHO thông qua các phương án tăng vốn do Quyết định số 27/2007/QĐ-BYT về
lộ trình triển khai nguyên tắc “Thực hành tốt sản xuất thuốc” (GMP) và “Thực hành tốt bảo quản
thuốc” (GSP) được thực hiện. Kể từ ngày 01/07/2008, doanh nghiệp sản xuất buộc phải đạt tiêu
chuẩn GMP-WHO và doanh nghiệp xuất nhập khẩu và kinh doanh dược phải đạt tiêu chuẩn GSP,
nếu không sẽ phải chuyển sang hình thức gia công cho các doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn.
Việc Việt Nam gia nhập WTO có những ảnh hưởng nhất định đến ngành dược. Bên cạnh
những thuận lợi về môi trường đầu tư, tiếp cận công nghệ mới, đón một lượng vốn đầu tư lớn, có cơ
hội lựa chọn nguồn nguyên liệu đa dạng với chi phí hợp lý,…, ngành dược phải đối đầu với không ít
khó khăn như: năng lực cạnh tranh yếu, thiếu hiểu biết các quy định về sở hữu trí tuệ; thiếu vốn, kỹ
thuật công nghệ; đối mặt với các doanh nghiệp dược phẩm nước ngoài trên một sân chơi bình đẳng
khi chính phủ cam kết giảm thuế suất thuế nhập khẩu; nới lỏng chính sách với các doanh nghiệp
nước ngoài .

II./ Phân tích ngành:
I. Cấu trúc ngành và các thành phần tham gia:
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp dược phẩm được phân thành 2 loại chính: sản xuất và
phân phối thuốc.
- Sản xuất:
Thống kê đến thời điểm cuối năm 2007, Việt Nam có khoảng 178 doanh nghiệp có sản xuất dược
phẩm, bao gồm doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ 17 công ty sản xuất thuốc trong nước với doanh thu lớn:
 Dược Hậu Giang - Tp.Cần Thơ
 Imexpharm - Đồng Tháp
 Domesco - Đồng Tháp

 Mekophar - Tp.HCM
 Vidipha - Tp.HCM
 Pharmedic - Tp.HCM
 OPC - Tp.HCM
 Hataphar - Hà Tây



BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 16
 Pharbaco - Hà Nội
 Mediplantex - Hà Nội
 Traphaco - Hà Nội
 Napharco - Nam Định
 Bidiphar - Bình Định
 Pymepharco - Phú Yên
 ICA - Tp.HCM
 SPM - Tp.HCM
 Đông Nam - Tp.HCM
+ 10 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
 Sanofi Aventis - Pháp
 Novartis - Thụy Sĩ
 United Pharma - Phi Luật tân
 Ranbaxy - Ấn Độ
 Sing poong Daewoo - Hàn Quốc
 Korea United Pharm - Hàn Quốc
 OPV - Mỹ
 Ampharco - Mỹ
 Stada - Đức
 Roussell - Pháp

Các nhà máy sản xuất dược phẩm tập trung chủ yếu ở các tỉnh và cái nôi của các nhà máy sản xuất
dược phẩm lại ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp với đặc
trưng cơ bản là "ngăn sông cấm chợ", như nhiều loại hàng hoá khác, thuốc được bán theo hai giá: giá
cung cấp cho công nhân viên chức, và giá cao hơn cho dân. Cơ chế này đã tạo ra nhiều sơ hở để tiêu
cực phát sinh, thuốc không được tự do lưu thông, nơi thừa, nơi thiếu…Tạ
i các tỉnh, thiên tai dịch
bệnh xảy ra thường xuyên, thuốc không được lưu thông đến, xảy ra tình trạng khan hiếm buộc các xí
nghiệp dược phẩm tỉnh phải mạnh dạn đầu tư sản xuất để cung ứng thuốc cho địa phương mình.
- Phân phối:
Tính đến năm 2007 có khoảng 800 DN có đăng ký chức năng kinh doanh dược phẩm tại thị trường
Việt Nam, trong đó có khoảng 370 doanh nghiệp nước ngoài chủ yế
u hoạt động dưới hình thức văn
phòng đại diện. Hàn Quốc, Ấn Độ và Pháp là những quốc gia có DN đăng ký nhiều nhất.
Doanh nghiệp phân phối dược phẩm tại thị trường Việt Nam được phân chia ra làm 2 loại:
+ Các DN tiền thân của nhà nước chuyên làm chức năng nhập khẩu hưởng % và làm thêm các chức
năng dịch vụ kho bãi, giao nhận.
+ Các doanh nghiệp tập trung vào hoạt động tiếp thị và xây dựng các hệ thống phân phố
i. Các doanh
nghiệp này làm dịch vụ nhập khẩu ủy thác nên doanh số báo cáo thường rất lớn, doanh thu trên sổ
sách từ vài trăm tỷ đến vài nghìn tỷ mỗi năm. Tuy nhiên phần doanh số này chủ yếu do các văn



BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 17
phòng đại diện các hãng tại Việt Nam và nhà phân phối của họ quản lý nên các doanh nghiệp nhập
khẩu ủy thác chỉ có được vài phần trăm hoa hồng cho doanh số trên (khoảng từ 1%-3%).
Các doanh nghiệp trong loại hình này bao gồm:
+ 7 công ty trong nước
 Phyto Pharma (Cty Dược liệu TW2) - Tp.HCM

 Coduphar (Cty Dược phẩm TW2) - Tp.HCM
 Sapharco (Cty Dược phẩm Tp.HCM) - Tp.HCM
 Vimedimex II (Cty XNK Y Dược TW II) - Tp.HCM
 Vimedimex I (Cty XNK Y Dược TW I) - Hà Nội
 Hapharco (Cty Dược phẩm Hà Nội) - Hà Nội
 Dapharco (Cty Dược TBYT Đà Nẵng) - Đà Nẵng
+ 26 văn phòng đại diện các hãng dược quốc tế lớn trực tiếp tiếp thị tại Việt Nam
 Glaxo Smith Kline - Anh
 Astra Zeneca - Anh
 Pfizer - Mỹ
 Bristor Mayer Squyp - Mỹ
 Merck - Mỹ
 Janssen cilag - Cty con của Johnson & Johnson - Mỹ
 Bayer - Đức
 Baxter - Mỹ
 Boehringe - Đức
 Berlin Chemie - Đức
 Schering AG - Đức
 Roche - Thụy Sĩ
 Sandoz - Thụy Sĩ
 Pierre Faber - Pháp
 Le Servier - Pháp
 Organon - Hà Lan
 Solway - Hà Lan
 Gedeon Richter - Hungary
 Egis - Hungary
 Medochemie - Kypros
 Ebewe - Áo
 Biocheme - Áo


Alcon - Bỉ
 Ciech Polfa - Ba Lan
 Ipsen - Pháp
 Konimex - Indonesia



BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 18
+ Các doanh nghiệp chuyên về phân phối và tiếp thị lớn cho một hay nhiều nhà sản xuất.
Đây là những doanh nghiệp thực sự nắm giữ thị trường phân phối cả nước, hệ thống đại lý, khánh
hàng và nhân viên thương mại (trình dược viên) của họ đông đảo và mạnh nhất, doanh số của các
DN này đạt từ 100 tỷ cho đến hơn 1000 tỷ hàng năm. Lợi nhuận rất lớn, đây cũng chính là lực lượng
gây ảnh hưởng nhiều nhất đến giá thuốc tại Việt Nam, đặc biệt là 3 hãng "đại gia": Zuellig Pharma,
Mega Product, Dietherm.
 Zuellig Pharma - Singapore
 Mega Product - Thái Lan
 Dietherm - Thụy Sĩ
 Tenamid Canada - Canada
 Tedis SA - Pháp
 Viễn Đông - Việt Nam
 Đông Á - Việt Nam
 Đô Thành - Việt Nam
 IC - Vietnam - Việt Nam
II. Cung cầu thị trường dược phẩm trong nước:
a./ Cung
170
200
241
305

395
475
561
0
100
200
300
400
500
600
700
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Đvt: tr.USD

Biểu đồ 3. Giá trị sản xuất thuốc trong nước 2001 – 2007
(Nguồn: Cục Quản Lý Dược)
- Giá trị sản xuất trong nước của ngành dược tăng dần qua các năm. Dự kiến giá trị sản xuất thuốc
trong nước sẽ đạt con số 1000 triệu USD trong năm 2008.
- Thống kê đến thời điểm cuối năm 2007, Việt Nam có khoảng 178 doanh nghiệp có sản xuất dược
phẩm, trong đ
ó có 74 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn GMP (31 doanh nghiệp đạt GMP-WHO và 25
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài).
- Thuốc do các công ty dược trong nước sản xuất chiếm khoảng 60% sản lượng tiêu thụ nhưng chỉ
chiếm khoảng 40% về giá trị do phần lớn là các loại thuốc vì đa số các mặt hàng trong nước sản xuất
là thuốc thông thường nên giá cả khá rẻ, còn các mặt hàng chuyên khoa đặc trị thì phần lớn vẫn phải
nhậ
p khẩu từ nước ngoài, giá cả rất cao.
- Số lượng hoạt chất các DN Việt Nam đăng ký sản xuất cũng đã tăng lên, theo Cục Quản Lý Dược
tính đến năm 2007 các DN Việt Nam đã sản xuất tương ứng với 770 hoạt chất so với tổng 1500 hoạt
chất đang được đăng ký tại Việt Nam.




BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 19
b./ Cầu
 Doanh thu tiêu thụ dược phẩm cũng tăng trưởng liên tục qua các năm.
422
451
520
625
726
818
1114
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Đvt: tr.USD

Biểu đồ 4. Doanh thu tiêu thụ dược phẩm 2001 – 2007
(Nguồn: Cục Quản Lý Dược)
 Tiền thuốc bình quân đầu người cũng tăng qua các năm.
6
6.7

7.6
8.6
9.85
10
12.69
0
2
4
6
8
10
12
14
16
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Đvt: USD

Biểu đồ 5. Tiền thuốc bình quân đầu người 2001 – 2007
(Nguồn: Cục Quản Lý Dược)
 Tuy nhiên, tiền thuốc bình quân đầu người của Việt Nam vẫn còn rất thấp so với mức trung
bình của thế giới là 40USD/người/năm.
 Thuốc sản xuất trong nước được bệnh nhân sử dụng chiếm 70% thị trường thuốc; ở khối
bệnh viện thuốc sản xuất trong nước chi
ếm hơn 60%.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến lượng cầu:

 Mạng lưới trình dược viên và các bác sĩ kê đơn: Bác sĩ kê đơn chính là người chỉ định bệnh
nhân sử dụng thuốc, còn trình dược viên của các hãng dược phẩm là những người tác động
đến sự kê đơn của bác sĩ bằng hoa hồng và các hình thức “ lót tay” khác.
 Tâm lý người tiêu dùng: Theo khảo sát của Tổ chức Y tế Thế giới, 45% người tiêu dùng Việt

Nam thường mua thuốc theo kinh nghiệm cá nhân, theo lời khuyên của người thân và dược tá
bán thuốc. Từ rất lâu nay, người tiêu dùng trong nước đã có tâm lý chuộng và tin tưởng vào
các sản phẩm thuốc ngoại hơn các sản phẩm thuốc nội.
 Hệ thống chăm sóc sức khỏe, chất lượng đời sống ngày một nâng cao, người tiêu dùng có cơ
hội tiếp cận với các kiến thức về y tế, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.



BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 20
Cùng với sự tăng trưởng nhanh của thị trường, giá trị thuốc sản xuất trong nước tăng nhanh
trong tổng giá trị tiền thuốc. Tuy nhiên, thuốc sản xuất trong nước chỉ mới đảm bảo cung ứng
được gần 50% nhu cầu sử dụng và vẫn chỉ là những loại thuốc thông thường. Qua đó cho thấy
thị trường dược phẩm là một thị trường tiềm năng.
III. Thị trường
a. Thị trường thuốc generic:
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), thuốc generic là dược phẩm dùng thay thế sản phẩm gốc
và được đưa ra thị trường sau khi bản quyền của sản phẩm gốc hết hạn (trung bình thời hạn bảo hộ
độc quyền khoảng 20 năm). Tuy nhiên, để sản xuất thuốc phiên bản doanh nghiệp buộc phải đăng kí
và tuân thủ theo các điều kiện kiểm tra nghiêm ngặt như thử nghiệm về tính tương đương sinh học
(BE) và tính khả dụng sinh học (BA).
Một số sản phẩm thuốc generic nước ngoài được sử dụng tại Việt Nam:
• Trị tim mạch: Atenolol, Methyldopa, Metoprolol, Propranolol, Frusenmide
• Trị tiểu đường: Glibenclamide, Metformin
• Kháng sinh: Bacampicillin; Acyclovir, Ketoconnazole, Ciprofloxacin, Fluconazole,
Clarithomycin.
• Giảm cholesterol: Simvastatin
• Trị hen suyễn: Theophylline, Terbutaline
• Kháng histamin: Cetirizine
• Chống loét dạ dày: Cimetidine, Ranitidine, Omeprazole

Tại Việt Nam, các nhà sản xuất trong nước khi muốn sản xuất thuốc Generic (sau khi thuốc
phát minh hết thời gian bảo hộ) thì chỉ cần thực hiện theo các quy định của Bộ Y tế đề ra là được
phép sản xuất mà không cần kiểm nghiệm trên cơ thể người. Hiện tại số thuốc generic được thử
tương đương sinh học còn rất ít, phần lớn chưa được thực hiện vì Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ
thể nào về th
ử tương đương sinh học đối với dược phẩm Generic trong khi nhiều nước trên thế giới
đưa ra các quy định rất khắt khe về vấn đề này. Mỹ là một nước điển hình. Ngành y tế của Mỹ quy
định 100% thuốc Generic phải tiến hành thử tương đương sinh học.
Tại thị trường Việt Nam, tính theo giá trị thì thuốc generic chiếm khoảng 11%, nếu tính theo số
lượng thì thuốc Generic chiếm khoảng 35%. Đa phần thuốc của các doanh nghiệp sản xuất trong
nước đều là thuốc Generic.
Thuốc Generic có giá thành thấp hơn thuốc biệt dược (khoảng 40-60%) do khi dược phẩm hết
hạn bản quyền hoặc thời gian độc quyền thì các nhà sản xuất khác có thể được quyền sản xuất và
không phải tiến hành các nghiên cứu trên động vật và nghiên cứu lâm sàng. Thông thường, chi phí
sản xuất ra một loại thuốc mới tốn khoảng 800 triệu USD và phải mất đến hàng chục năm để tiến
hành các giai đoạn thử nghiệm tiền lâm sàng, nghiên cứu lâm sàng cũng như sau khi lưu hành. Ngoài
ra, phải tiến hành thử 5.000 hoạt chất trên động vật, các nhà nghiên cứu mới tìm được 1 hoạt chất
dùng cho việc sản xuất thuốc. Tuy nhiên, sau khi thuốc phát minh này hết hạn bản quyền, nhà sản



BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 21
xuất chỉ mất khoảng 1 triệu USD để mua lại phiên bản và sản xuất ra loại thuốc Generic có chất
lượng tương đương sinh học với thuốc phát minh.
Tác dụng phụ của thuốc biệt dược chỉ khoảng 5-7% trong khi ở thuốc generic thì sác xuất có
tác dụng phụ lên tới 10-15%.
b. Thị trường thuốc biệt dược
Biệt dược là thuốc được sản xuất với một tên thương mại (nhãn hiệu, tên biệt dược). Khi một
thuốc mới được nghiên cứu, nó sẽ được đăng ký tên thuốc gốc theo danh pháp quốc tế hoặc danh

pháp của từng nước đồng thời với tên biệt dược của nơi tiến hành thử nghiệm. Biệt dược, nếu được
chấp thuận đưa vào lưu hành trên thị trường, sẽ được giữ bằng sáng chế trong một khoảng thời gian
theo quy định của mỗi nước (trung bình là 20 năm). Sau khi hết hạn độc quyền, các nhà sản xuất
khác có thể sản xuất thuốc này với tên thuốc gốc hoặc một tên biệt dược khác.
Hiện ngành dược Việt Nam chỉ được xếp ở cấp độ 2,5 đến 3 theo thang phân loại từ 1-4 của
WHO, chủ yếu gia công và sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu, gần như “nhường” thị trường biệt
dược cho hàng nhập khẩu mà nguyên nhân cơ bản là thiếu vốn, công nghệ và đối tác uy tín để đầu tư
cho sản phẩm mới đạt chuẩn quốc tế.
c. Thị trường đông dược
Nền y dược học cổ truyền ở Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời, khoảng 30% số bệnh nhân
trong cả nước được khám và điều trị bằng y học cổ truyền, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.
Thị trường đông dược chiếm tỷ trọng nhỏ (0,5-1%) trong toàn thị trường thuốc Việt Nam.
Cả nước có trên 450 cơ sở, xí nghiệp sản xuất, kinh doanh thuốc y học cổ truyền. Bộ Y Tế đã
cấp sổ đăng ký cho trên 2000 chế phẩm thuốc y học cổ truyền sản xuất lưu hành trên thị trường.
Theo số liệu thống kê Vụ Y học cổ truyền, Bộ Y Tế, mỗi năm nước ta tiêu thụ hơn 50.000 tấn
dược liệu, trong đó dược liệu trong nước chỉ chiếm khoảng 20%, phần còn lại thường được nhập từ
nước ngoài (chủ yếu là Trung Quốc).
Tuy nhiên, thị trường đông dược Việt Nam hiện vẫn trong tình trạng thả nổi, thiếu sự quản lý
cả về chủng loại dược liệu, chất lượng, quy trình chế bi
ến, cách bảo quản và giá cả.
Một số công ty đông dược Việt Nam

Tên công ty Sản phẩm chính
Cty TNHH Đông Nam Dược Trường Sơn Dầu gió Trường Sơn, dầu phật linh, kem xoa bóp Sungaz…
Cty CP Dược Phẩm OPC Dầu khuynh diệp, cao ích mẫu…
Cty TNHH Đông Nam Dược Bảo Linh Cao xoa bóp BẠCH HỔ HOẠT LẠC CAO, kem tinh nghệ
BẢO PHU KHANG, kem xoa bóp dược thảo giảm đau Tinh
gừng MẪU CHI BẢO
Cty CP Dược Phẩm Traphaco Trà gừng, hoạt huyết dưỡng não, Amorvita Hải Sâm
Cty CP Dược Phẩm Nam Hà Hoàn phong thấp, viên sáng mắt, thuốc ho bổ phế

Cty Đông Dược Phúc Hưng Thanh huyết tiêu độc P/H, thang đại bổ
Cty TNHH Đông Nam Dược Bảo Long Trà túi lọc thanh long

IV. Nguyên vật liệu



BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 22
a. Tân dược
 Nguồn nguyên vật liệu đầu vào chủ yếu là các nguyên liệu sản xuất kháng sinh, vitamin và
thuốc giảm đau-hạ sốt được nhập khẩu từ Trung Quốc, Ấn Độ và Singapore => ổn định về số
lượng và chất lượng.
 Nguồn nguyên liệu đầu vào chiếm 40-60% trong cơ cấu giá vốn và 90% nguyên liệu được
nhập khẩu từ nước ngoài => chịu ảnh hưởng bởi những biến động trên thế giới như: biến
động giá dầu mỏ, sự bất ổn về chính trị, thiên tai, dịch bệnh cũng như việc tăng cường nguồn
dự trữ nguyên liệu dược của các nước và sự đầu cơ tích trữ của các tập đoàn dược phẩm lớn
trên thế giới
b. Đông dược: Theo Viện dược liệu – Bộ Y Tế, Việt Nam có 400 loài động vật, 3.850 loài thực
vật có thể làm thuốc trong đó có các loài quý mà y học thế giới rất cần nhưng tỷ lệ dược liệu thu hái
và trồng trong nước chỉ chiếm khoảng 20%, còn lại phải nhập khẩu (chủ yếu từ Trung Quốc) và việc
nhập khẩu dược liệu tràn lan, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan quản lý.
V. Chất lượng thuốc:
Chất lượng dược phẩm luôn là mối lo ngại của toàn xã hội. Hiện nay trên thị trường nước ta, có
nhiều nguồn thuốc về phòng và chữa bệnh, gồm : Thuốc nhập khẩu có hoặc chưa có số đăng ký
(SĐK), thuốc được sản xuất ở trong nước của các xí nghiệp Trung ương hoặc địa phương, đều đã có
số đăng ký, thuốc của các chương trình, thuốc viện trợ, thuốc nhận dưới dạng quà biếu.
Trong thời gian qua, ngành dược Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng trong công tác quản lý,
kiểm tra chất lượng thuốc nên tỷ lệ thuốc không đạt chất lượng đã dần dần được giảm đáng kể.
Bộ Y tế sẽ thực thi những biện pháp tăng cường công tác kiểm tra chất lượng thuốc. Cục Quản

lý dược khẳng định: Sẽ phấn đấu bảo đảm 75% lượng thuốc lưu hành trên thị trường được hậu kiểm.
Mặt khác, hệ thống bán lẻ bao gồm 41.500 nhà thuốc trên toàn quốc sẽ được xây dựng và hoàn thiện
theo tiêu chuẩn thực hành nhà thuốc tốt (GPP)
VI. Giá cả thị trường

Ngành dược được chọn là 1 trong 10 nhóm mặt hàng được đưa vào để tính chỉ số giá tiêu dùng
(CPI).
Tốc độ tăng chỉ số giá qua các năm:

0.80%
4.00%
3.00%
9.50%
8.40%
6.60%
12.64%
0.00%
2.00%
4.00%
6.00%
8.00%
10.00%
12.00%
14.00%
16.00%
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

(Nguồn: Tổng cục thống kê)




BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 23
Năm 2004, lạm phát tăng cao, trong đó nhóm hàng dược phẩm-y tế tăng 9,1%. Đây là giai
đoạn leo thang của giá thuốc, nguyên nhân chủ yếu do nhu cầu chữa trị, sử dụng thuốc tăng mạnh và
chi phí sản xuất của các công ty sản xuất dược phẩm tăng do tăng đầu tư vào các nhà máy GMP.
Tuy nhiên, hiện nay do tác dụng tích cực của các chính sách bình ổn giá thuốc, giá thuốc đang
có sự điều chỉnh nhẹ theo thị trường, không tăng đột biến.
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Quý I/2008
Tốc độ tăng CPI 9,50% 8,40% 6,60% 12,64% 16,37%
Tốc độ tăng CPI nhóm dược
phẩm - y tế
9,10% 4,90% 4,30% 5,12% 7,73%
Nguồn: Tổng Cục Thống Kê
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 3/2008 đã tăng tới
2,99% so với tháng trước. Tính chung cả ba tháng đầu năm nay, CPI đã tăng 9,19% so với tháng
12/2007. Nếu so với quý 1/2007, CPI quý 1/2008 đã tăng 16,37%. Như vậy, sau ba tháng đầu năm,
CPI đã vượt xa chỉ tiêu 8,5% năm nay do Chính phủ đề ra. Tuy nhiên, đóng góp vào tốc độ tăng cao
của CPI tháng 3 vẫn là các nhóm hàng lương thực, thực phẩm và tác động từ việc tăng giá xăng dầu
vào tháng 2.
Hiện nay, do giá thuốc sản xuất trong nước thấp hơn so với các nước trong khu vực nên một số
doanh nghiệp sản xuất trong nước đang đề nghị có sự điều chỉnh giá thích hợp để bù đắp chi phí sản
xuất, bán hàng. Theo Cục Quản Lý Dược, tính đến tháng 3/2008, Cục đã nhận được hồ sơ điều chỉnh
giá thuốc của 15 doanh nghiệp với tổng số 108 mặt hàng, chiếm 0,6% tổng số mặt hàng lưu hành
trên thị trường. Theo báo cáo, 5 Sở y tế đã xem xét tính hợp lý của 11 doanh nghiệp với với tổng số
104 mặt hàng, chiếm 0,52% tổng số mặt hàng lưu hành trên thị trường (trong đó có 3 doanh nghiệp
với 39 mặt hàng đề nghị điều chỉnh giảm giá). Do vậy, trong thời gian tới giá thuốc sẽ có biến động,
song giá thuốc vẫn đang được kiểm soát chặt chẽ, tránh xảy ra những biến động bất hợp lý.
VII. Hệ thống phân phối


Thị trường nội địa:
Sản phẩm tân dược được phân phối thông qua các chi nhánh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm của
các công ty dược phẩm, các bệnh viện trên toàn quốc.
Sản phẩm đông dược được phân phối thông qua hệ thống gồm 45 viện y học dân tộc, 242 bệnh
viện đa khoa có khoa y học dân tộc, 4000 tổ chẩn trị, 30% trạm y tế xã có hoạt động khám chữa
bệnh bằng y học cổ truyền và trên 1000 cơ sở y học cổ truyền tư nhân.
Thị trường xuất khẩu:
Thị trường xuất khẩu truyền thống của các công ty dược phẩm Việt Nam là Nga, các nước
SGN và Đông Âu. Trong tương lai, chiến lược lâu dài của ngành dược Việt Nam là mở rộng thị
trường xuất khẩu sang Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á, các nước trong
cộng đồng Châu Âu và Châu Phi.
Nhìn chung, hệ thống lưu thông, phân phối thuốc đã phát triển rộng khắp, đảm bảo đưa thuốc
đến tận tay người dân. Trung bình một điểm bán lẻ phục vụ 2000 người dân.



BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 24
Đến nay mạng lưới cung ứng thuốc của Việt Nam đã có 178 doanh nghiệp (DN) sản xuất thuốc
hóa dược, 84 DN sản xuất thuốc từ dược liệu, 89 DN xuất nhập khẩu thuốc, 900 DN bán buôn thuốc
và hơn 41.000 cơ sở bán lẻ, trong đó có khoảng 8.000 nhà thuốc. Tại các thành phố lớn, thì số lượng
Các nhà thuốc tư nhân chiếm áp đảo. Chỉ riêng tại TP. Hồ Chí Minh đã có khoảng 3000 nhà thuốc tư
nhân và Hà Nội khoảng 1000 nhà thuốc tư nhân. Phần còn lại nằm tại các thành phố, thị xã trung
tâm các tỉnh. Tại các thị trấn huyện ở các tỉnh có rất ít nhà thuốc, trung bình mỗi thị trấn có khoảng 1
đến 2 nhà thuốc như vậy.
So sánh chủng loại và số lượng thuốc, thì tại các nhà thuốc tư nhân có số lượng, chủng loại
nhiều gấp bội so với các quầy thuốc tại các vùng nông thôn, tỉnh lẻ. Các nhà thuốc tư nhân tại thành
thị ngoài các mặt hàng thông thường, thường có thêm một số loại thuốc đặc trị, ngoại nhập mà các
quầy thuốc ở vùng nông thôn không có bán.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong số 8.000 nhà thuốc (riêng Hà Nội và TPHCM chiếm tới

60%) thì chỉ có 7 nhà thuốc đạt tiêu chuẩn Thực hành tốt phân phối thuốc (GPP); vai trò và trách
nhiệm của dược sĩ ở các nhà thuốc chưa được đề cao; còn quá ít nhà thuốc có các tài liệu về hướng
dẫn sử dụng thuốc an toàn hợp lý.
Khi Việt Nam gia nhập WTO, mở cửa thị trường dược phẩm, hệ thống phân phối thuốc chữa
bệnh tại Việt Nam có nguy cơ bị thao túng bởi các doanh nghiệp dược phẩm nước ngoài. Kể từ ngày
1/1/2009, các doanh nghiệp dược có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh của các doanh nghiệp dược
nước ngoài tại Việt Nam sẽ được trực tiếp nhập khẩu dược phẩm. Họ sẽ xuất hiện với phương thức
kinh doanh chuỗi nhà thuốc – đây là mô hình quá quen thuộc ở nước ngoài nhưng còn khá mới mẻ
tại Việt Nam.
Do vậy, ngành dược Việt Nam đã xác định phát triển và duy trì hoạt động của chuỗi nhà thuốc
đạt chuẩn GPP (Good Pharmacy Practice - thực hành nhà thuốc tốt) như một giải pháp giúp nâng cao
tính cạnh tranh trong giai đoạn hội nhập. Từ tháng 1-2007, Bộ Y tế đã ban hành chuẩn GPP nhằm
mụ
c đích hướng đến việc bảo đảm sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả cho người dân. Những
nhà thuốc áp dụng chuẩn GPP sẽ phải bán đơn thuốc theo toa, thuốc phải có xuất xứ, hóa đơn, chứng
từ rõ ràng và có người phụ trách chuyên môn hoặc chủ cơ sở phải có chứng chỉ hành nghề dược theo
quy định. Thêm vào đó, nhà thuốc cũng phải đáp ứng những yêu cầu như diện tích tối thiểu là 10m2,
có khu vực bảo quản và trưng bày chuyên biệt, điều kiện bảo quản duy trì dưới 30 độ C, độ ẩm
không vượt quá 75% Theo lộ trình triển khai, đến ngày 1-1-2011, tất cả các nhà thuốc trên toàn
quốc phải đạt tiêu chuẩn GPP. Để thực hiện chỉ tiêu này, từ đầu tháng 7-2007, Bộ Y tế đã quyết định
thí điểm GPP tại 4 thành phố lớn là Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng và Cần Thơ cho các bệnh viện,
doanh nghiệp và hộ kinh doanh gia đình.
VIII. Trình độ công nghệ

a./ Trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất thuốc còn thấp và chưa được đầu tư đúng đắn, đang
diễn ra tình trạng đầu tư dây chuyền trùng lặp trong ngành dược.
Trong ngành dược phẩm, GMP được đánh giá là chứng nhận quan trọng, đảm bảo cho sản phẩm của
doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao hơn, được chấp nhận ở cả thị trường trong và ngooài nước. Hiện




BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGÀNH DƯỢC
Chuyên viên: Trần Thiên Hồng Vân Phòng Nghiên cứu & phân tích Trang 25
chỉ có 74/178 doanh nghiệp sản xuất thuốc trong nước đạt tiêu chuẩn GMP, chiếm 85% sản lượng
thuốc nội, trong khi đó, kể từ ngày 1/7/2008, tất cả các doanh nghiệp sản xuất thuốc đều phải đạt tiêu
chuẩn GMP.
b./ Công tác nghiên cứu khoa học và phát triển (R&D) chưa được coi trọng.
Việc đầu tư cho một nghiên cứu mới vô cùng tốn kém, trung bình phải mất từ 10 năm với chi
phí từ 12-15 triệu USD.
Các doanh nghiệp chạy theo nhu cầu trước mắt của thị trường và hạn chế về trình độ nhân lực,
công nghệ nên chỉ nhập công nghệ để sản xuất thuốc thông thường.
Chí phí R&D mà các doanh nghiệp Việt Nam công bố thường chỉ tập trung vào các dự án mua
sắm máy móc thiết bị mới. Chi phí dành cho R&D chỉ khoảng dưới 3% doanh thu, trong khi Ấn Độ
trung bình là 7% doanh thu mới có thể phát triển tương đối bền vững, chưa so sánh với các nước
phát triển, tỷ lệ này từ 15-25% doanh thu.
IX. Nguồn nhân lực
Mức độ đáp ứng nhân lực y tế cho các cơ sở khám chữa bệnh, phòng bệnh, sản xuất phân phối
thuốc và nghiên cứu khoa học hiện nay còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng.
Xét về số lượng, hiện tại trong toàn ngành y tế có 38 cơ sở đào tạo nhân lực bậc đại học, sau
đại học, cao đẳng và 61 trường trung cấp y, dược. Mỗi năm ngành y tế có thêm 6.200 sinh viên ra
trường, gồm bác sĩ đa khoa, chuyên khoa, dược sĩ đại học, cử nhân điều dưỡng, cử nhân kỹ thuật y
học và cử nhân y tế công cộng… Ngoài ra, mỗi năm tại các cơ sở đào tạo có thêm 18.000 học sinh
trung học y, dược tốt nghiệp nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu cần nhân lực của toàn ngành, bởi
theo lộ trình từ nay đến 2010, chúng ta phải có thêm 17.000 giường bệnh công và 13.000 giường
bệnh tư, kèm theo đó là nhu cầu khoảng 25.000 y, bác sỹ. Trong khi đó, hiện nay nước ta chỉ mới có
hơn 4,6 bác sĩ/1 vạn dân. Tuy đã có sự gia tăng trong thời gian vừa qua về số lượng bác sĩ, nhưng
tình trạng tăng rất chậm. Chỉ số cán bộ y tế/1 vạn dân trong 15 năm qua tăng thêm khoảng 3 người.
Xét về chất lượng, theo Bộ Y tế, hiện tại số dược sĩ đạ
i học chỉ chiếm khoảng 1% trong tổng số
nhân lực của ngành y tế. Điều dưỡng cũng chỉ có 1,4% và 1,9% điều dưỡng có trình độ đại học và

cao đẳng.

X. Đầu tư nước ngoài
Với quy mô dân số trên 85 triệu dân, lại nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, có nguồn nguyên
liệu đa dạng và dồi dào cho chế biến và sản xuất dược phẩm, Việt Nam đang là mảnh đất
đầy tiềm
năng đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dược.
Sau 1 năm Việt Nam gia nhập WTO, số doanh nghiệp dược nước ngoài đăng ký hoạt động đã
tăng thêm 58 doanh nghiệp so với năm 2006, nâng tổng số doanh nghiệp được cấp phép hoạt động
về thuốc và nguyên liệu làm thuốc tại nước ta lên 370 doanh nghiệp.
Doanh thu dược phẩm của các nhà máy có vốn đầu tư nươc ngoài chiếm 34,5% t
ổng doanh thu
của các nhà máy đạt tiêu chuẩn GMP trên toàn quốc và chiếm khoảng 29,7% tổng doanh thu sản
phẩm dược sản xuất trong nước. Các nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài đã và đang đóng góp tích

×