Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

so sánh thủ tục thành lập doanh nghiệp theo luật công ty 1990. luật doanh nghiệp tư nhân 1990, luật doanh nghiệp 1999 và luật doanh nghiệp 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.75 KB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
o0o






LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN LUẬT

ĐỀ TÀI:

SO SÁNH THỦ TỤC THÀNH LẬP DOANH
NGHIỆP THEO LUẬT CÔNG TY 1990, LUẬT
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN 1990, LUẬT
DOANH NGHIỆP 1999 VÀ LUẬT DOANH
NGHIỆP 2005





Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
TS. DƯ NGỌC BÍCH TRẦN THỊ THU HUYỀN
MSSV : 5044038
Lớp : Luật TM - K30




Cần Thơ 5/2008

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN















































MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Phạm vi nghiên cứu 1
3. Mục tiêu nghiên cứu 1
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Kết cấu đề tài 2
CHƯƠNG 1:THỦ TỤC THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP THEO LUẬT
CÔNG TY 1990 VÀ LUẬT DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN 1990 3
1.1 Luật công ty 1990 và luật doanh nghiệp tư nhân 1990 3
1.2 Thủ tục thành lập theo luật công ty 1990 và luật doanh nghiệp tư nhân 1990 3

1.2.1 Điều kiện thành lập 4
1.2.2 Điều kiện cấp giấy phép thành lập 4
1.2.3 Thủ tục thành lập công ty 5
CHƯƠNG 2: THỦ TỤC THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP THEO LUẬT
DOANH NGHIỆP 1999 9
2.1 Luật doanh nghiêp 1999 9
2.2 Thủ tục thành lập 10
2.2.1 Điều kiện thành lập 11
2.2.2 Thủ tục đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp 12
2.2.2.1 Hồ sơ đăng ký kinh doanh 13
2.2.2.2 Trình tự và thủ tục đăng ký kinh doanh 14
2.2.2.3 Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh 16
2.2.2.4 Thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh 18
CHƯƠNG 3: THỦ TỤC THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP THEO LUẬT
DOANH NGHIỆP 2005 24
3.1 Luật doanh nghiệp 2005 24
3.2 Thủ tục thành lập 26
3.2.1 Điều kiện thành lập doanh nghiệp 26
3.2.1.1 Điều kiện về chủ thể 26
3.2.1.2 Điều kiện về ngành, nghề kinh doanh 28
3.2.2 Thủ tục đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp .29
3.2.3 Các thủ tục sau đăng kỳ kinh doanh 36
CHƯƠNG 4: SO SÁNH THỦ TỤC THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP THEO
LUẬT CÔNG TY 1990, LUẬT DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN 1990, LUẬT
DOANH NGHIỆP 1999 VÀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 41
4.1 So sánh thành lập và đăng ký kinh doanh 41
4.1.1.So sánh Điều kiện thành lập 41
4.1.2 So sánh về thủ tục đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp tư
nhân 1990, luật công ty 1990, luật doanh nghiệp 1999 và luật doanh
nghiệp 2005 45

4.2 So sánh về các thủ tục đăng ký sau kinh doanh 53
KẾT LUẬN 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO










GVHD: Dư Ngọc Bích 1
LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Với tốc độ phát triển của nền kinh tế như hiện nay đã từng bước thúc đẩy các
nước có nền kinh tế đang phát triển chuyển sang giai đoạn mới và trưởng thành. Từ
đó làm nhịp cầu cho các nước có nền kinh tế đang phát triển tiếp cận khoa học kĩ
thuật tiên tiến và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Việt Nam ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong nền kinh tế, đó là
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước.
Để điều tiết nền kinh tế nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ khác nhau. Một trong
những công cụ không thể thiếu được là pháp luật. Pháp luật được sử dụng như một
công cụ sắc bén nhất và không thể thay thế được. Quản lý kinh tế bằng pháp luật đòi
hỏi tất yếu của nền kinh tế thị trường và sự quản lý khoa học nhất. Pháp luật hiện nay
đã trở thành một bộ phận cơ bản của nền Kinh tế thị trường. Do đó nhà nước luôn
quan tâm ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh cho phù hợp.

Trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới pháp luật về công ty về doanh nghiệp
được nhà nước ban hành như luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, luật doanh
nghiệp nhà nước… để điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp. Đặc biệt trong những
năm gần đây Việt Nam đã thu hút được nhiều nhà đầu tư trong nước cũng như
ngoài nước, và nhiều doanh nghiệp được thành lập. Chính vì sự phát triển nhanh
chóng của nền kinh tế, do đó đòi hỏi nhà nước cần có những thay đôỉ cho phù hợp
để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập doanh nhgiệp, và luật doanh nghiệp
1999, luật doanh nghiệp 2005 được ban hành đã đơn giản hoá thủ tục thành lập
theo hướng ngày càng có lợi cho các doanh nghiệp.
Từ cơ sở trên tôi chọn đề tài: “So sánh thủ tục thành lập doanh nghiệp theo luật
công ty 1990, luật doanh nghiệp tư nhân 1990, luật doanh nghiệp 1999 và luật
doanh nghiệp 2005”. Từ đề tài này tôi muốn tìm hiểu để thấy được những điểm
tiến bộ trong quy định thủ tục thành lập qua các lần thay đổi luật cũng như biết
được những điều còn bất cập, còn bỏ ngỏ.
2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu của đề tài và trong khuôn khổ của luận văn tốt
nghiệp cử nhân luật, tác giả chỉ tập chung nghiên cứu khái quát những quy định
của pháp luật về thủ tục thành lập doanh nghiệp. Từ đó so sánh, đối chiếu giữa các
luật, khảo sát thực tiễn áp dụng và những điều còn hạn chế, bất cập trong quá trình
thực thi pháp luật ở Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trong điều kiện đất nước ngày càng phát triển, nền kinh tế Việt Nam đang
trong giai đoạn chuyển mình với những thời cơ và nhiều thách thức, đặc biệt nước
ta sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO khi đó có rất nhiều nhà đầu
tư trong và ngoài nước muốn tham gia vào hoạt động king doanh, thành lập doanh
nghiệp, với yêu cầu ngày càng cấp thiết đặt ra cho pháp luật nước ta cần có những
quy định thật phù hợp về thủ tục thành lập doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi
cho các chủ thể muốn tham gia thành lập doanh nghiệp.
Với đề tài luận văn tốt nghiệp về: “so sánh thủ tục thành lập doanh nghiệp theo
luật công ty 1990, luật doanh nghiệp tư nhân 1990, luật doanh nghiệp 1999 và luật

GVHD: Dư Ngọc Bích 2
doanh nghiệp 2005”, tác giả nghiên cứu nhằm mục tiêu:
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận chung về luật công ty, luật doanh nghiệp tư
nhân, luật doanh nghiệp 1999 và luật doanh nghiệp 2005,
- Tìm hiểu về thủ tục thành lập doanh nghiệp qua các luật,
- Nhằm so sánh thủ tục thành lập giữa các luật nhằm tìm ra những điểm tiến bộ
cũng như những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài đã sử dụng phương pháp phân tích và tổng
hợp tài liệu, phương pháp liệt kê, so sánh.
5. Kết cấu đề tài
Bố cục của đề tài gồm có:
Phần mở đầu
Chương 1: Thủ tục thành lập doanh nghiệp theo luật công ty 1990 và luật doanh
nghiệp tư nhân 1990
Chương 2: Thủ tục thành lập doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp 1999
Chương 3: Thủ tục thành lập doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp 2005
Chương 4: So sánh thủ tục thành lập doanh nghiệp theo luật công ty 1990, luật
doanh nghiệp tư nhân 1990, luật doanh nghiệp 1999 và luật doanh nghiệp 2005.
Kết luận
Lời cảm ơn: Để hoàn thành được đề tài luận văn tốt nghiệp cử nhân luật trước
hết tôi xin gửi lời cảm ơn đến cô Dư Ngọc Bích đã đóng góp nhiều ý kiến quý
giá trong việc chỉnh sửa đề tài, và hướng dẫn tôi tận tình trong quá trình nghiên
cứu đề tài, đồng thời gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô trong khoa luật
trường Đại Học Cần Thơ cùng các bạn sinh viên đã giúp đỡ tôi trong quá trình
tìm kiếm tài liệu.























GVHD: Dư Ngọc Bích 3
CHƯƠNG 1
THỦ TỤC THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP THEO
LUẬT CÔNG TY 1990 VÀ LUẬT DOANH NGHIỆP
TƯ NHÂN 1990

1.1 luật công ty 1990 và luật doanh nghiệp tư nhân 1990
Trên thế giới ở các nước phát triển Việc thành lập công ty hoàn toàn là quyền
của công dân. Đất nước ta nền kinh tế ngày càng phát triển, cũng như sự thay đổi
của đất nước hệ thống pháp luật hiện hành ở Việt Nam bước đầu tiếp tục những
tiến bộ bỏ một số chế độ không cần thiết đã tồn tại trong nhiều năm cản trở sự tiến
bộ của đất nước cũng như cản trở các nhà kinh doanh trong quá trình đăng ký thành

lập công ty. Việc thành lập và đăng ký kinh doanh cũng là quyền của công dân
song phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Sự phát triển của doanh nghiệp phản ánh sự phát triển kinh tế. Việt Nam là một
nước nông nghiệp và người dân quê tha thiết với mảnh đất tổ tiên không bao giờ
chịu bỏ làng mạc. Nông nghiệp là một nghề cực nhọc nhưng người dân vốn cần cù
chịu khó nên nước ta vẫn có truyền thống là một nước chuyên về nông nghiệp.
Trong đời thường cuộc sống hằng ngày phải có sự trao đổi hàng hoá và sản phẩm
để thoả mãn những nhu cầu thực dụng, nhưng ở một xã hội chuyên sản xuất nông
nghiệp thì một mặt không có nhiều sản phẩm cho việc trao đổi thương mại, mặt
khác nhu cầu vật chất rất hạn chế không đủ thúc đẩy cho thương mại phát triển.
Ban đầu việc phát triển thương mại chỉ diễn ra trong phạm vi tỉnh hay chỉ là phạm
vi trong nước. Việc giao lưu thực tế chưa được người Việt Nam biết tới. Cho tới
thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, những công ty kỹ nghệ ở Việt Nam còn rất
hiếm mà những công ty nào tương đối quan trọng đều là những công ty của người
pháp. Như công ty điện lực, công ty nước,… Do đó chúng ta thấy rằng trước kia ở
nước ta về lĩnh vực công nghiệp, thương mại phát triển rất hạn chế, các công ty,
doanh nghiệp được thành lập rất ít.
Mặc dù việc lập công ty là tự do, những người Việt Nam lúc đó có thể chưa
nhận thấy rằng công ty cổ phần, công ty TNHH là những hình thức doanh nghiệp
có nhiều ưu thế phải sử dụng nếu muốn nắm được thế thượng phong trong thị
trường kinh tế. Như vậy, ở Việt Nam các doanh nghiệp đã có khá lâu, nhưng nó
thực sự phát triển năm 1954 đến nay.
Luật công ty 1990 và luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 được ban hành đã
đánh dấu sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Trước kia có rất ít doanh nghiệp
được thành lập, và cho đến khi nước ta thực hiện chính sách mở cửa giao lưu với
các nước, lúc đó ở nước ta xuất hiện nhiều công ty và doanh nghiệp tư nhân cũng
xuất hiện nhiều hơn. Luật công ty và doanh nghiệp tư nhân 1990 đã mở ra những
điều kiện thuận lợi mới giúp cho việc thành lập doanh nghiệp được dễ dàng hơn.
Và hai luật này ra đời đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình đi lên của
đất nước.

1.2 Thủ tục thành lập theo luật công ty 1990 và luật doanh nghiệp tư nhân
1990
Ở hầu hết các nước công nghiêp phát triển, việc thành lập công ty là quyền của
công dân, đó là quyền tự do lập hội và họ thực hiện quyền này theo các quy định
của pháp luật. Luật công ty chỉ quy định đối với công ty từ giai đoạn có đăng ký
GVHD: Dư Ngọc Bích 4
kinh doanh tại toà án.
Ở nước ta do những đặc thù về kinh tế xã hội luật công ty 1990 và luật doanh
nghiệp tư nhân 1990 quy định cụ thể điều kiện và thủ tục thành lập công ty.
1.2.1 Điều kiện thành lập
Điều kiện thành lập doanh nghiệp hay công ty là những điều kiện mà pháp luật
quy định phải có để một thể nhân hay pháp nhân có thể tham gia thành lập hay góp
vốn vào công ty.
Trước hết pháp luật quy định ai có quyền thành lập công ty.
Theo điều 1 luật công ty 1990 thì: “Công dân Việt Nam đủ 18 tuổi; tổ chức kinh
tế việt nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế, tổ chức xã hội, có
quyền góp vốn đầu tư hoặc tham gia thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần”.
Luật doanh nghiệp tư nhân 1990 quy định tại Điều 1 về điều kiện thành lập
doanh nghiệp tư nhân: “Công dân việt nam đủ 18 tuổi có quyền thành lập Doanh
Nghiệp Tư Nhân theo quy định của luât này”.
Như vậy, đối tượng thành lập công ty, hay doanh nghiệp tư nhân là rất rộng rãi
gồm tất cả công dân việt Nam đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền thành lập doanh
nghiệp tư nhân, và công ty.
Theo luật công ty 1990 thì từ 18 tuổi trở lên đều có quyền thành lập công ty nếu
không bị pháp luật hạn chế. Theo Điều 6, Điều 7 luật công ty cụ thể là:
- Nghiêm cấm cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân sử dụng
tài sản của nhà nước và công quỹ để góp vốn vào công ty hoặc tham gia thành lập
công ty nhằm thu lợi riêng cho cơ quan hoặc đơn vị mình.
- Viên chức tại chức trong bộ máy nhà nước, sĩ quan tại ngũ trong các lực lượng

vũ trang nhân dân.
- Người bị mất trí, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án tù mà
chưa được xoá án. Đó là những người bị hạn chế năng lực hành vi và bị hạn chế
quyền công dân.
Việc hạn chế viên chức tại chức và sĩ quan tại ngũ là nhằm tách bạch chức năng
quản lý nhà nước ra khỏi các hoạt động kinh doanh.
Ngoài các cá nhân được thành lập công ty, thì các tổ chức kinh tế có tư cách
pháp nhân, các tổ chức xã hội cũng được tham gia thành lập công ty. Tổ chức kinh
tế có thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể, công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn.
Luật doanh nghiệp tư nhân 1990 cũng quy định những trường hợp không được
thành lập doanh nghiệp tư nhân, cụ thể quy định tại Điều 6 và Điều 7.
1.2.2 Điều kiện cấp giấy phép thành lập
Về nguyên tắc, mọi công dân tổ chức đã nêu trên đều có quyền tham gia thành
lập công ty hay doanh nghiệp tư nhân nhưng phaỉ có những điều kiện nhất định
mới được cấp giấy phép thành lập.
Theo Điều 15 luật công ty 1990, Điều 9 luật doanh nghiệp tư nhân 1990 thì phải
có những điều kiện sau mới được cấp giấy phép thành lập:
- Mục tiêu, Ngành nghề kinh doanh rõ ràng có trụ sở giao dịch và phương án
kinh doanh cụ thể,
- Đối với doanh nghiệp tư nhân phải có đủ vốn đầu tư ban đầu phù hợp với quy
mô và ngành nghề kinh doanh. Vốn đầu tư ban đầu không được thấp hơn vốn pháp
định do hội đồng bộ trưởng quy định. Đối với công ty (Theo luật công ty 1990)
GVHD: Dư Ngọc Bích 5
phải có vốn điều lệ phù hợp với quy mô ngành nghề kinh doanh. Vốn điều lệ không
được thấp hơn vốn pháp định do hội đồng bộ trưởng quy định.
- Ngoài các điều kiện trên thì người quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh
phải có trình độ chuyên môn tương ứng mà pháp luật đòi hỏi đối với một số ngành
nghề.
Các điều kiện mà luật công ty 1990 và luật Doanh nghiệp tư nhân 1990 quy

định trước hết nhằm chống lại việc thành lập công ty khi khi chưa có đủ các điều
kiện cần thiết cho sự hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường.
Vì vậy, mọi việc phải rõ ràng khi thành lập công ty, phải điều tra tìm hiểu thị
trường, xác định cụ thể mục tiêu hoạt động. Đồng thời phải có tiềm lực kinh tế, vốn
điều lệ hay vốn đầu tư ban đầu. Vốn điều lệ là vốn do các thành viên công ty đóng
góp và được ghi vào điều lệ của công ty. Vốn pháp định là vốn tối thiểu phải có để
thành lập công ty do pháp luật quy định đối với từng ngành nghề. Vốn pháp định
thành lập công ty hiện được quy định ở nghị định 22/HĐBT ngày 23/7/1991 của
hội đồng bộ trưởng nay là chính phủ.
Như quy định ở trên thì công ty hay doanh nghiệp tư nhân phải có trụ sở giao
dịch. Trụ sở giao dịch của công ty không đồng nghĩa với địa điểm mà công ty tiến
hành hoạt động kinh doanh. Công ty có thể có nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh ở
nhiều nơi khác nhau nhưng trụ sở giao dịch chỉ có một, vì vậy trụ sở giao dịch
mang tính pháp lý nhiều hơn là tính không gian.
Với quy định kinh doanh một số ngành nghề đòi hỏi người quản lý phải có trình
độ chuyên môn đây là điều kiện rất cần thiết vì không phải ngành nào chúng ta
cũng có thể kinh doanh thuận lợi, hiệu quả. Có những ngành khi kinh doanh nếu
không có trình độ chuyên môn, không hiểu biết về lĩnh vực đó khi kinh doanh sẽ dễ
thất bại. Do đó pháp luật quy định điều này nhằm giúp cho các doanh nghiệp có
những quyết định đúng đắn trong lĩnh vực chọn ngành nghề kinh doanh phù hợp
với chuyên môn.
1.2.3 Thủ tục thành lập công ty
Muốn thành lập công ty, doanh nghiệp tư nhân thì chủ thể phải gởi đơn xin
phép thành lập đến Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền cấp giấy phép.
Cụ thể quy định tại Điều 8 luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, Điều 14 luật
công năm 1990.
Đơn xin thành lập phải ghi rõ:
- Họ, tên, tuổi, và địa chỉ thường trú của chủ doanh nghiệp hay của các sáng lập
viên.
- Tên gọi trụ sở dự định của doanh nghiệp,

- Mục tiêu ngành nghề kinh doanh cụ thể.
- Vốn điều lệ và cách thức góp vốn. Đối với doanh nghiệp tư nhân là vốn đầu tư
ban đầu trong đó ghi rõ phần vốn bằng tiền việt nam, ngoại tệ, vàng, tài sản bằng
hiện vật.
- Biện pháp bảo vệ môi trường.
Đơn phải kèm theo phương án kinh doanh ban đầu và dự thảo điều lệ công ty.
Luật công ty 1990 còn quy định đơn xin phép thành lập công ty phải có trương
trình xây dựng công ty.
Trong thời hạn 60 ngày ( Doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệp tư nhân
1990 thì trong thời hạn là 30 ngày) kể từ ngày nhận đơn, Uỷ ban nhân dân tỉnh nơi
nhận đơn phải cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp, nếu thấy có đủ các điều kiện
GVHD: Dư Ngọc Bích 6
mà pháp luật quy định. Trường hợp không đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp thì
uỷ ban nhân dân phải từ chối cấp giấy phép thành lập và nói rõ lý do, người bị từ
chối cấp giấy phép thành lập có quyền khiếu nại lên trọng tài kinh tế cấp trên trực
tiếp.
Sau khi nhận được giấy phép thành lập, các sáng lập viên phải tiến hành triệu
tập cuộc họp toàn thể các thành viên để tiến hành công việc thành lập và thông qua
điều lệ của công ty.
Ngoài ra luật công ty 1990 (Điều 11) và luật doanh nghiệp tư nhân 1990 (Điều
5) cũng quy định ngoài một số ngành nghề mà pháp luật cấm kinh doanh việc
thành lập công ty, doanh nghiệp tư nhân trong một số các ngành nghề phải được sự
cho phép của chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng. Các ngành nghề như:
+ Sản xuất và lưu thông thuốc nổ, chất độc, hoá chất độc
+ Khai thác các loại khoáng sản quý.
+ Sản xuất và cung ứng điện, nước có quy mô lớn
+ Sản xuất các phương tiện phát sóng truyền tin dịch vụ bưu chính viễn thông;
truyền thanh, truyền hình, phát thanh, xuất bản;
+ Vận tải viễn dương và vận tải hàng không;
+ Chuyên kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu;

+ Du lịch quốc tế.
Những ngành trên khi kinh doanh phải được sự cho phép cuả cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Vì đây là những ngành nghề tương đối quan trọng ảnh hưởng tới
nhiều yếu tố, một số lĩnh vực có thể ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của quốc gia…
cho nên đây là một quy định khá chặt chẽ của nhà nước ta trong việc ban hành
pháp luật một mặt tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nhưng trong khuôn khổ
quy định của pháp luật.
• Đăng ký kinh doanh
Sau khi được cấp giấy phép thành lập và đã hoàn tất các công việc cần thiết cho
sự ra đời của doanh nghiệp. Nếu công ty muốn tiến hành hoạt động kinh doanh thì
công ty phải đăng kí kinh doanh. Đăng kí kinh doanh đây là thủ tục pháp lý bắt
buộc đây là bước không thể thiếu, đăng kí kinh doanh nhằm khai sinh về mặt pháp
lý cho doanh nghiệp hay công ty.
Việc đăng kí kinh doanh ở các nước trên thế giới được tiến hành tại toà án. Còn
ở nước ta, theo quy định của luật công ty 1990 việc đăng kí kinh doanh của công ty
được thực hiện tại Trọng tài kinh tế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn
vị hành chính tương đương.
* Hồ sơ đăng kí kinh doanh bao gồm.
- Giấy phép thành lập
- Điều lệ công ty
- Giấy tờ chứng thực trụ sở giao dịch của công ty.
Khi đăng kí kinh doanh, công ty được ghi vào sổ đăng kí kinh doanh và được
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Kể từ thời điểm đó công ty có tư cách
pháp nhân và được bắt đầu các hoạt động nhân danh công ty. Các hoạt động trước
đó liên quan đến công ty mang tính cá nhân của các thành viên và họ phải chịu
trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ. Chỉ sau khi đăng kí kimh doanh, công ty mới
có chế độ TNHH về các khoản nợ của công ty.
Việc đăng ký kinh doanh của công ty trách nhiệm hữu hạn phải được tiến hành
trong thời hạn 180 ngày kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập.
GVHD: Dư Ngọc Bích 7

Việc đăng kí kinh doanh của công ty cổ phần phải được tiến hành trong thời
hạn 1 năm kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập.
Quá thời hạn nói trên mà chưa đăng ký kinh doanh. Nếu muốn tiếp tục thành
lập công ty thì các sáng lập viên phải làm thủ tục xin phép thành lập. Trong trường
hợp có lý do chính đáng, UBND đã cấp giấy phép thành lập không quá 90 ngày.
Như vậy khi nộp hồ sơ đăng kí kinh doanh phải nộp đủ các giấy tờ cần thiết
theo quy định của pháp luật. Trong hồ sơ đăng kí kinh doanh phải có giấy chứng
thực trụ sở giao dịch nhưng thực tế nhiều doanh nghiệp đăng kí kinh doanh địa chỉ
trụ sở cụ thể trong hồ sơ nhưng thực chất không hoạt động tại nơi đăng ký hình
thành nhiều “doanh nghiệp ma”.
Ngoài ra trong hồ sơ đăng ký kinh doanh phải có điều lệ công ty. Điều lệ công
ty là bản cam kết của tất cả thành viên về thành lập và hoạt động của công ty, được
thông qua tại đại hội đồng thành lập.
Điều lệ công ty phải có nội dung chủ yếu sau đây:
- Hình thức, mục tiêu, tên gọi trụ sở, thời hạn hoạt động của công ty,
- Họ, tên các sáng lập viên;
- Vốn điều lệ trong đó ghi rõ phần vốn góp bằng hiện vật hoặc bằng bản quyền
sở hữu công nghiệp
- Phần vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty TNHH; mệnh giá cổ phiếu
và số cổ phiếu phát hành đối với công ty cổ phần.
- Thể thức hoạt động và thông qua quy định của đại hội đồng
- Cơ cấu quản lý và kiểm soát công ty
- Các loại quỹ m ức giới hạn các quỹ được lập tại công ty
- Thể lệ quyết toán và phân chia lợi nhuận
- Các trường hợp sáp nhập chuyển đổi hình thức, giải thể công ty và thể thức
thanh lý tài sản công ty.
Đối với doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệp tư nhân 1990 thì trong
thời hạn 60 ngày kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập, chủ doanh nghiệp tư
nhân phải đăng ký kinh doanh tại trọng tài kinh tế cùng cấp UBND đã cấp giấy
phép thành lập.

* Hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm:
- Giấy phép thành lập,
- Giấy chứng nhận của ngân hàng về số tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng của chủ
doanh nghiệp có trong tài khoản ở ngân hàng, giấy chứng nhận của cơ quan công
chứng về giá trị tài sản bằng hiện vật thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp tư nhân
tương ứng với vốn đầu tư ban đầu đã ghi trong giấy phép thành lập.
- Giấy tờ chứng thực về trụ sở giao dịch của doanh nghiệp.
Quá thời hạn 60 ngày theo quy định trên mà chưa đăng kí, nếu muốn tiếp tục
thành lập doanh nghiệp tư nhân, thì chủ doanh nghiệp phải làm lại thủ tục xin phép
thành lập, có thể gia hạn giấy phép thành lập không quá 30 ngày.
* Công khai hoá hoạt động:
Việc cung cấp đầy đủ các thông tin về sự ra đời và hoạt động của các công ty
nói riêng và các doanh nghiệp nói chung là yêu cầu không thể thiếu trong nền kinh
tế thị trường.
Việc công khai hoá hoạt động thực hiện với nhiều hình thức khác nhau. Khi
đăng ký kinh doanh công ty đã tự công khai hoá về mình, khách hàng có thể xem
sổ kinh doanh để nắm được các thông tin đầu tiên về công ty. Trên bản hiệu, và
GVHD: Dư Ngọc Bích 8
giấy tờ giao dịch của công ty, doanh nghiệp cũng phải ghi các thông tin tối thiểu rõ
ràng, tránh mọi sự nhầm lẫn trong công chúng. Đặc biệt doanh nghiệp phải công
khai hoá trên các phương tiện thông tin đại chúng, đây là thủ tục bắt buộc. Công ty
phải đăng báo địa phương và báo hằng ngày của trung ương trong 5 số liên tiếp về
các thông tin sau:
- Tên, loại hình công ty, trụ sở và mục tiêu ngành nghề kinh doanh,
- Họ, tên, địa chỉ thường trú của các sáng lập viên,
- Vốn điều lệ
- Ngành được cấp giấy phép thành lập, ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, số đăng kí kinh doanh
- Thời điểm bắt đầu hoạt động.
Như vậy theo luật công ty năm 1990 và luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 thì

để thành lập công ty hay doanh nghiệp tư nhân nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục
qua hai giai đoạn: Xin phép thành lập và đăng ký kinh doanh. Từ những quy định
trên chúng ta thấy rằng đó là một hạn chế lớn của pháp luật nước ta, những khâu
thủ tục ở nước ta quá rườm rà, hệ thống pháp luật cồng kềnh, tốn nhiều thời gian
trong quá trình xin phép thành lập và đăng ký kinh doanh. Việc quy định thủ tục
thành lập doanh nghiệp vẫn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư.






























GVHD: Dư Ngọc Bích 9
CHƯƠNG 2
THỦ TỤC THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP 1999

2.1 Luật doanh nghiêp 1999
Trong nền kinh tế ngày càng phát triển cho nên cần phải cải tiến trình tự thủ
tục đăng ký kinh doanh sao cho phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp và ngày càng thu hút nhiều nhà đầu tư. So với luật công ty và luật doanh
nghiệp tư nhân trước đây thì đây là một trong những điểm mới của luật doanh
nghiệp 1999, thể hiện tinh thần đổi mới và cải cách hành chính của nhà nước ta.
Luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân 1990 được ban hành bên cạnh những
kết quả đạt được thì 2 luật trên cũng bộc lộ những nhược điểm và bất hợp lý cần
được bổ sung sửa đổi. Và ngày 12/6/1999 quốc hội khoá X kỳ họp thứ 5 đã thông
qua luật doanh nghiệp trên cơ sở hợp nhất luật công ty và luật doanh nghiệp tư
nhân. Và tiếp đó chính phủ đã ban hành một số văn bản để quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành.
Sau hai năm thi hành luật doanh nghiệp đã có 35000 doanh nghiệp mới được
thành lập với tổng vốn đăng ký là 4 tỷ USD, các doanh nghiệp đã tạo công ăn việc
làm cho trên 700.000 lao động ( chỉ tính riêng năm 2001, số doanh nghiệp thành
lập mới là hơn 21.000 doanh nghiệp) riêng thành phố Hồ Chí Minh sau 2 năm thi
hành luật doanh nghiệp đã có 12000 doanh nghiệp mới được thành lập với số vốn
đăng ký là 14.000 tỷ đồng. Đây là địa phương dẫn đầu cả nước về số vốn và số
lượng doanh nghiệp được thành lập. Như vậy, tính hiệu quả của doanh nghiệp đã
thể hiện rõ bằng số doanh nghiệp được thành lập mới mỗi năm không ngừng tăng

lên.
Trước kia hình thức công ty hợp danh còn chưa phát triển thì cho đến năm 2004
khi luật doanh nghiệp năm 1999 có hiệu lực được 5 năm trong nền kinh tế nước ta
mới có khoảng 10 công ty hợp danh
1
. Như vậy khi luật doanh nghiệp năm 1999
được ban hành thì có rất nhiều loại hình doanh nghiệp được thành lập và phát triển.
Ngay khi luật doanh nghiệp 1999 có hiệu lực, Chính phủ đã thành lập tổ công
tác về thi hành luật doanh nghiệp và ngày 3/2/2000 đã ban hành 3 văn bản pháp lý
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần đưa luật doanh nghiệp đi vào thực tế cuộc
sống đó là: Nghị định 02/2000/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh. Nghị định
03//2000/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành một số điều của luật doanh nghiệp, và
quyết định số 19/2000/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ về bãi bỏ 84 loại giấy
phép trái với quy định tại luật doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có các văn bản khác
được ban hành sau đó như: các văn bản về giấy phép; các văn bản về ngành nghề
kinh doanh có điều kiện và chứng chỉ hành nghề, v.v… (thống kê đến hết năm
2001 có khoảng hơn 30 văn bản loại này được chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang
bộ ban hành). Trong các văn bản pháp lý nêu trên, Nghị định 02/2000/NĐ-CP về
đăng ký kinh doanh đã góp phần quan trọng vào công cuộc cải cách và đơn giản
hoá thủ tục hành chính về thành lập doanh nghiệp như quy định tại luật doanh
nghiệp nhưng vẫn đảm bảo việc tăng cường vai trò quản lý của nhà nước, giám sát

1
Xem: Quốc Cường – Thanh Thảo, luật doanh nghiệp và các văn bản pháp luật mới trong kinh doanh, NXB
thống kê, năm 2004, trang 5.
GVHD: Dư Ngọc Bích 10
bằng pháp luật đối với doanh nghiệp.
Tính phức tạp và sự phiền phức của thủ tục thành lập công ty và doanh nghiệp
tư nhân ở nước ta trước khi ban hành luật doanh nghiệp rõ ràng không đáp ứng
được yêu cầu của nhà đầu tư, tạo kẽ hở cho sự vi phạm pháp luật của các cán bộ,

cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chính bản thân các nhà đầu tư. Do vậy, luật
doanh nghiệp và nghị định 02/2000/NĐ-CP lần này đã đơn giản hoá thủ tục thành
lập doanh nghiệp và chỉ còn quy định việc đăng ký kinh doanh đối với doanh
nghiệp nhằm đáp ứng các yêu cầu đầu tư. Doanh nghiệp có quyền chủ động đăng
ký và hoạt động kinh doanh, không cần phải xin phép bất cứ cơ quan nhà nước nào,
nếu ngành, nghề kinh doanh:
- Không thuộc ngành, nghề cấm kinh doanh;
2

- Không thuộc ngành, nghề kinh doanh phải có giấy phép kinh doanh
3

- Không thuộc ngành, nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề.
4

- Không thuộc ngành, nghề phải có vốn pháp định;
5

Như vậy, việc đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp đã tạo điều kiện
thuận lợi cho nhà đầu tư. Theo quy định trước đây, để thành lập doanh nghiệp tư
nhân hoặc công ty, nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục qua hai giai đoạn: xin phép
thành lập và đăng ký kinh doanh mà trong mỗi giai đoạn nhà đầu tư cần phải làm
từ 8 đến 10 loại giấy tờ khác nhau. Thủ tục hành chính phiền hà này khiến cho thời
gian cần thiết bình quân để thành lập một doanh nghiệp khoảng 6 tháng với một
khoảng “chi phí” phi chính thức không nhỏ (khoảng 10 triệu đồng), chưa kể chi phí
đi lại. So với các nước trên thế giới, thủ tục thành lập doanh nghiệp hết sức đơn
giản và người đầu tư chỉ thực hiện một thủ tục duy nhất là đăng ký thành lập doanh
nghiệp với chi phí không đáng kể, ví dụ: các bang của hoa kỳ, Canada, Xingapo,
thời gian để thành lập xong một công ty không quá một ngày với chi không qúa
100 USD, thậm chí nhà đầu tư chỉ cần gửi hồ sơ qua đường bưu điện tới cơ quan

thành lập doanh nghiệp
6
.
Qua đó ta thấy rằng ở các nước trên thế giới thủ tục thành lập của họ rất đơn
giản và nhanh chóng. Do đó để phù hợp với tình hình của nền kinh tế nhà nước ta
cũng nên sửa đổi bổ sung tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp trong việc
thành lập và đăng ký kinh doanh.
2.2 Thủ tục thành lập
Trước kia theo luật công ty năm 1990 để khai trương một doanh nghiệp tư
nhân hoặc công ty, cần thiết phải tiến hành hai thủ tục pháp lý tương đối độc lập
nhau đó là:
- Xin phép thành lập
- Đăng ký kinh doanh
Lúc đó các chuyên gia nước ngoài cũng đã có những thắc mắc về vấn đề này.
Theo họ tự do thành lập doanh nghiệp thuộc nội hàm của quyền tự do của công
dân, do đó công dân không cần phải xin phép cơ quan nhà nước khi thành lập
doanh nghiệp. Tuy nhiên, với mục đích ngay từ đầu thông qua thủ tục thành lập,
nhà nước có thể quản lý các doanh nghiệp và định hướng cho sự hình thành doanh

2
Xem: Điều 3 - Nghị định 03/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000.
3
Xem: Điều 4 - Nghị định 03/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000.
4
Xem: Điều 5 - Nghị định 03/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000.
5
Xem: Điều 6 - Nghị định 03/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000.
6
xem: Lê minh Toàn, những điều cần biết về luật doanh nghiệp dành cho các nhà đầu tư và các doanh nghiệp,
NXB chính trị quốc gia, năm 2001, trang 90.

GVHD: Dư Ngọc Bích 11
nghiệp trong “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự điều tiết của nhà nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Ở nước ta luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990
và luật công ty năm 1990 đều quy định cần có hai thủ tục để khai trương một
doanh nghiệp như vậy. Đến luật doanh nghiệp năm 1999 khi xây dựng và ban hành
luật doanh nghiệp các nhà làm luật thấy, việc quy định thủ tục xin phép thành lập
như luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 và luật công ty năm 1990, ở chừng mực
nhất định đã làm hạn chế quyền tự do kinh doanh của công dân. Hơn nữa học tập
kinh nghiệm ở các nước trên thế giới luật doanh nghiệp năm 1999 đã chỉ quy định
để khai trương doanh nghiệp của mình nhà đầu tư chỉ phải tiến hành thủ tục đăng
ký kinh doanh mà không phải làm thủ tục xin phép thành lập như trước đây. Quy
định đó dược phản ánh lại trong luật doanh nghiệp năm 2005
7
.
Luật doanh nghiệp 1999 đã thực hiện cải cách hành chính trong việc thành lập
doanh nghiệp theo hướng gộp việc xin phép thành lập và đăng ký kinh doanh thành
một, đồng thời chỉ giữ lại những thủ tục, hồ sơ thực sự cần thiết trên cơ sở yêu cầu
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.
Cụ thể về trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp được quy định
như sau:
2.2.1 Điều kiện thành lập
Theo quy định của luật doanh nghiệp năm 1999 “mọi tổ chức cá nhân không
thuộc đối tượng bị cấm thành lập công ty đều có quyền thành lập công ty tại Việt
Nam”
Những đối tượng bị cấm được quy định tại Điều 9 luật doanh nghiệp và giải
thích cụ thể tại điều 9 Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 hướng dẫn thi
hành một số điều của luật doanh nghiệp.
Điều 9 luật doanh nghiệp có quy định tổ chức cá nhân có quyền thành lập và
quản lý doanh nghiệp trừ những trường hợp sau đây:
- Cơ quan nhà nước đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản

của nhà nước và công quỹ để thành lập doanh nghiệp, kinh doanh thu lợi riêng cho
đơn vị, cơ quan mình.
- Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ công chức.
- Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong
các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân.
- Cán bộ lãnh đạo quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước trừ
những người cử đi làm đại diện để quản lý phần vốn góp của nhà nước tại các
doanh nghiệp khác.
Người chưa thành niên, người thành niên bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi
dân sự.
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình
phạt hoặc bị toà án tước quyền hành nghề vì phạm các tội buôn lậu làm hàng giả,
kinh doanh trái phép, trốn thuế lừa dối khách hàng và các tội khác theo quy định
của pháp luật.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp doanh của công ty hợp doanh,
giám đốc (tổng giám đốc) Chủ tịch và các thành viên của hội đồng quản trị, hội
đồng thành viên của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản không được quyền thành lập

7
Xem: Nguyễn Viết Tý, luật so sánh và thực tiễn xây dựng luật doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí luật học số
4/2007, trang 73

GVHD: Dư Ngọc Bích 12
doanh nghiệp, không được làm người quản lý doanh nghiệp trong thời hạn từ một
năm đến ba năm kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, trừ các trường hợp
quy định tại luật phá sản doanh nghiệp.
- Tổ chức nước ngoài, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam. Và giải thích
cụ thể tại điều 9 Nghị định số 02/NĐ-CP ngày 3/2/2000 hướng dẫn thi hành một số
điều của luật doanh nghiệp. Việc cấm một số đối tượng thành lập công ty nói riêng
thành lập doanh nghiệp nói chung là cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế. Quy

định này có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội cũng
như lợi ích của bản thân các nhà đầu tư, qua đó đảm bảo cho hoạt động kinh doanh
diễn ra một cách lành mạnh, có hiệu quả và tuân thủ những nguyên tắc của nền
kinh tế thị trường.
Như vậy theo quy định thì có 8 đối tượng không được phép thành lập và quản
lý doanh nghiệp, trong số các đối tượng không được phép thành lập và tham gia
quản lý doanh nghiệp thì có đối tượng bị cấm vĩnh viễn, có đối tượng bị cấm trong
trường hợp cụ thể. Việc cấm một số đối tượng thành lập doanh nghiệp này là cần
thiết và phù hợp. Cũng cần lưu ý rằng, những đối tượng bị cấm thành lập công ty
vẫn có quyền góp vốn vào công ty và tuân thủ các nguyên tắc của nền kinh tế thị
trường.
Với đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài, họ có thể đầu tư vào Việt Nam theo
luật đầu tư nước ngoài hoặc theo luật doanh nghiệp. Theo luật doanh nghiệp, họ có
quyền thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam nếu họ thường trú tại Việt Nam
* Góp vốn vào doanh nghiệp
So với đối tượng được phép thành lập và tham gia quản lý doanh nghiệp, đối
tượng được quyền góp vốn vào doanh nghiệp được mở rộng hơn. Điều này thể hiện
chủ trương của Đảng và nhà nước nhằm huy động mọi nguồn lực vào sản xuất kinh
doanh và phát triển kinh tế, quyền góp vốn vào doanh ngiệp theo quy định tại điều
10 luật doanh nghiệp năm 1999, cụ thể như sau:
- Tổ chức cá nhân được quyền góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần, công ty hợp danh, trừ những trường hợp sau đây: Cơ quan nhà nước và
các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản của nhà nước và công
quỹ góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; các đối
tượng không được quyền góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về
cán bộ công chức.
Tổ chức nước ngoài, người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam, người
Việt Nam định cư tại nước ngoài có quyền góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh theo quy định của luật khuyến khích đầu tư
nước ngoài.

Với điều kiện nước ta đang là một nước đang phát triển để đưa đất nước trở
thành một nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì trước hết nhà nước ta cần phải
xây dựng được một hệ thống pháp luật luôn ổn định và thuận lợi cho các chủ thể
tham gia hoạt động kinh doanh, và thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư nước ngoài
góp vốn vào các doanh nghiệp ở việt Nam.
2.2.2 Thủ tục đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp
Đây là một điểm mới của luật doanh nghiệp. Thể hiện tinh thần đổi mới và cải
cách hành chính của nước ta trong thời kỳ này.
Tính phức tạp và phiền hà của thủ tục thành lập công ty và doanh nghiệp tư
nhân ở nước ta trước khi ban hành luật doanh nghiệp rõ ràng không đáp ứng được
GVHD: Dư Ngọc Bích 13
nhu cầu của nhà đầu tư, tạo kẽ hở cho vi phạm pháp luật của các cán bộ, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và chính bản thân các nhà đầu tư. Do vậy, luật doanh
nghiệp năm 1999 và nhiều văn bản được ban hành như: Các văn bản về giấy phép;
các văn bản về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và chứng chỉ hành nghề.v.v…
đã đơn giản thủ tục thành lập doanh ngiệp theo hướng gộp việc xin phép thành lập
và đăng ký kinh doanh thành một và chỉ còn quy định việc đăng ký kinh doanh đối
với doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp 1999 ra đời trên cơ sở tiếp thu những điểm
tiến bộ của luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân 1990. Thủ tục thành lập và
đăng ký kinh doanh chỉ giữ lại những thủ tục, hồ sơ thật sự cần thiết, trên cơ sở
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Những cải cách trong luật doanh nghiệp đã
giảm bớt được những thủ tục, hồ sơ thành lập, không cần thiết, qua đó giảm bớt
được chi phí về thời gian, công sức và tiền bạc cho việc thành lập doanh nghiệp.
Đặc biệt đã xoá đi một phần điều kiện phát sinh tiêu cực trong việc thành lập doanh
nghiệp. Những cải cách được tiến hành trong luật doanh nghiệp đã tháo bỏ được
một số cản trở đã tồn tại song song với việc tồn tại của luật công ty 1990 và luật
doanh nghiệp tư nhân 1990, làm cho việc thành lập doanh nghiệp để kinh doanh trở
nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư tham
gia vào thị trường Việt Nam, tuy nhiên vẫn đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước,
giám sát bằng pháp luật đối với doanh nghiệp. Doang nghiệp có quyền chủ động

đăng ký và hoạt động đăng ký kinh doanh, không cần phải xin phép bất cứ cơ quan
nhà nước nào.
Trình tự thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh:
Trước hết người thành lập doanh nghiệp phải lập và nộp đủ hồ sơ đăng ký kinh
doanh theo quy định của luật này tại cơ quan đăng ký kinh doanh thuộc Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nơi doanh nghiệp đặt trủ sở chính
và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của nội dung của hồ sơ đăng
ký kinh doanh.(khoản 1 Điều 12 luật doanh nghiệp 1999).
Thủ tục đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp được quy định cụ thể:
2.2.2.1 Hồ sơ đăng ký kinh doanh
Để được đăng ký kinh doanh, nhà đầu tư muốn thành lập doanh nghiệp là công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân,
phải nộp đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm:
- Đơn đăng ký kinh doanh lập theo mẫu do bộ kế hoạch và đầu tư quy định
- Điều lệ công ty (Không áp dụng đối với doanh nghiệp tư nhân)
- Danh sách thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành
viên trở lên, danh sách cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần, danh sách thành
viên hợp danh đối với công ty hợp danh (không áp dụng đối với doanh nghiệp tư
nhân);
Đối với công ty, doanh nghiệp tư nhân kinh doanh các ngành nghề phải có vốn
pháp định thì phải có thêm xác nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc chứng chỉ
hợp pháp khác chứng minh về số vốn của công ty, doanh nghiệp tư nhân.
Đối vói công ty, doanh nghiệp tư nhân, kinh doanh các ngành, nghề phải có
chứng chỉ hành nghề, thì phải có thêm bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của một
trong số những người quản lý công ty (các thành viên hợp danh đối với công ty hợp
danh, thành viên hội đồng thành viên, chủ tịch công ty, thành viên hội đồng quản
trị,Giám đốc ( tổn giám đốc), các chức danh quản lý quan trọng khác do điều lệ
công ty quy định đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, chủ
GVHD: Dư Ngọc Bích 14
doanh nghiệp hoặc giám đốc quản lý đối với doanh nghiệp tư nhân).

Đối với các ngành, nghề khi kinh doanh đòi hỏi phải có giấy chứng chỉ hành
nghề như:
+ Kinh doanh dịch vụ pháp lý
+ Kinh doanh dịch vụ khám chữa bệnh và kinh doanh dược phẩm ,
+ kinh doanh dịch vụ thú y
+Kinh doanh dịch vụ thiết kế công trình, kinh doanh dịch vụ kiểm toán, kinh
doanh dịch vụ môi giới chứng khoán … .
Đây là những ngành, nghề khi kinh doanh đòi hỏi người quản lý phải có trình
độ chuyên môn về những lĩnh vực này .
Trong hồ sơ đăng ký kinh doanh thì đơn đăng ký kinh doanh phải được lập
đúng theo yêu cầu. Nội dung đơn phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
- Tên doanhnghiệp
- Địa chỉ, trụ sở chính của doanh nghiệp
- Mục tiêu và ngành, nghề kinh doanh
- Vốn điều lệ đối với công ty, vốn đầu tư ban đầu của chủ doanh nghiệp đối với
doanh nghiệp tư nhân,
- Phần vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, và
công ty hợp danh, số cổ phần và cổ đông sáng lập đăng ký mua, loại cổ phần mệnh
giá cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại đối với công ty
cổ phần.
- Họ, tên, chữ ký, địa chỉ thường trú của doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư
nhân, của người đại diện theo pháp luật đối với công ty Trách nhiệm hữu hạn và
công ty cổ phần, của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh.
Đơn đăng ký kinh doanh được lập theo mẫu thống nhất do cơ quan đăng ký
kinh doanh quy định.
2.2.2.2 Trình tự và thủ tục đăng ký kinh doanh
* Cơ quan đăng ký kinh doanh
Cơ quan đăng ký kinh doanh được tổ chức ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) và ở huyên, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(sau đây gọi chung là cấp huyện), bao gồm:

+ Phòng đăng ký kinh doanh trong sở kế hoạch và đầu tư (sau đây gọi chung là
phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh).
+ Phòng đăng ký kinhdoanh thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện (sau đây gọi
chung là phòng đăng ký kinh doanh cấp huyện).
* trình tự và thủ tục đăng ký kinh doanh được thực hiện nh
ư sau:
Người muốn thành lập doanh nghiệp hoặc người đại diện nộp đủ Hồ sơ đăng
ký kinh doanh theo quy định trên đây và nộp tại phòng đăng ký kinh doanh cấp
tỉnh (phòng đăng ký kinh doanh trong sở kế hoạch và đầu tư) nơi doanh nghiệp đặt
trụ sở chính. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm về
tính chính xác, trung thực của nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh.
Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh không được yêu cầu người thành lập doanh
nghiệp nộp thêm bất kỳ giấy tờ nào khác ngoài hồ sơ đã quy định đối với từng loại
hình doanh nghiệp.
Khi tiếpnhận hồ sơ, phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh phải trao giấy biên
nhận về việc nhận hồ sơ cho người nộp hồ sơ (người thành lập hoặc người đại diện
doanh nghiệp) và cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp trong
GVHD: Dư Ngọc Bích 15
thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận nếu:
a) Ngành, nghề kinh doanh không thuộc danh mục ngành, nghề cấm kinh
doanh.(Kinh doanh vũ khí, đạn dược,quân trang, quân dụng và phương tiện kỹ
thuật chuyên dùng của lực lượng vũ trang; kinh doanh chất nổ, chất độc, chất
phóng xạ; kinh doanh ma tuý; kinh doanh mại dâm, dịch vụ tổ chức mại dâm, buôn
bán phụ nữ, trẻ em, kinh doanh dịch vụ tổ chức đánh bạc, gá bạc; kinh doanh các
hoá chất có tính độc hại mạnh; kinh doanh các hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn
hoá, bảo tàng; kinh doanh các sản phẩm văn hoá phản động, đồi truỵ, mê tín,dị
đoan, hoặc có hại đến giáo dục nhân cách; kinh doanh các loại pháo; kinh doanh
thực vật, động vật hoang giã thuộc danh mục điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết
hoặc tham gia quy định và các loại động vật, thực vật quý hiếm khác cần được bảo
vệ; kinh doanh đồ chơi có hại cho giáo dục nhân cách, sức khoẻ của trẻ em hoặc

ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội).
b) Tên doanh nghiệp được đặt đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 24 luật
doanh nghiệp 1999 tức là:
+ Không trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên doanh nghiệp khác đã đăng ký kinh
doanh ,
+ Không vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá đạo đức và thuần phong mỹ tục
của dân tộc.
+ Phải viết bằng tiếng việt và có thể viết thêm bằng một hoặc một số tiếng nước
ngoài với khổ chữ nhỏ hơn.
+ Ngoài các quy định trên thì còn phải viết rõ loại hình doanh nghiệp, Công ty
trách nhiệm hữu hạn cụm từ trách nhiệm hữu hạn viết tắt là TNHH, công ty cổ
phần từ cổ phần viết tắt là CP, công ty hợp danh từ hợp danh viết tắt là HD, doanh
nghiệp tư nhân từ tư nhân viết tắt là TN.
Tuy nhiên, việc quy định tên doanh nghiệp vẫn còn nhiều vướng mắc. Chẳng
hạn việc quy định tên trùng và tên gây nhầm lẫn thì luật doanh nghiệp năm 1999
chỉ quy định rất chung chung, chưa cụ thể, không quy định thế nào là tên trùng , thế
nào là tên gây nhầm lẫn. Do đó vấn đề này đã gây nhiều tranh cãi về tính pháp lý
trong việc đăng ký tên doanh nghiệp.
c) Hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ theo quy định: Đầy đủ giấy tờ, có nội dung
khai đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật.
d) Nộp đủ lệ phí theo quy định.
Như vậy, nếu hội đủ các điều kiện theo quy định trên, doanh nghiệp sẽ được
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh .
Sau khi được cấp giấy chứngnhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được khắc
dấu và có quyền sử dụng con dấu của mình .
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cấp tỉnh cấp có hiệu lực trong phạm vi
toàn quốc. Kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp
có quyền hoạt động mà không phải xin phép bất kỳ cơ quan nhà nước nào, trừ
trường hợp doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề phải có điều kiện.
Trong trường hợp hồ sơ không hợp lệ hoặc tên doanh nghiệp không hợp lệ, trụ

sở không được đặt đúng theo quy định, thì phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh phải
thông báo bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp biết trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ. Thông báo phải nêu rõ nội dung cần sửa đổi và cách
thức sửa đổi. Nếu quá thời hạn nói trên mà không có thông báo, thì tên của doanh
nghiệp coi như được chấp nhận, hồ sơ đăng ký kinh doanh được coi như là hợp lệ.
GVHD: Dư Ngọc Bích 16
Nếu sau mười lăm ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh mà không
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thì người thành lập có quyền khiếu
nại đến phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi tiếp nhận hồ sơ. Sau 7 ngày kể từ
ngày nộp đơn khiếu nại mà không nhận được trả lời của phòng đăng ký kinh doanh
cấp tỉnh, thì người thành lập doanh nghiệp có quyền khiếu nại lên uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh hoặc kiện ra toà hành chính cấp tỉnh nơi nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
cho doanh nghiệp, phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh gửi bản sao giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh đến Bộ kế hoạch và đầu tư, cơ quan thuế, cơ quan thống kê, cơ
quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật cùng cấp, phòng đăng ký kinh doanh cấp
huyện nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
Công bố nội dung đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp:
- Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, doanh nghiệp phải đăng báo địa phương hoặc báo hằng ngày của trung
ương trong ba số liên tiếp về nội dung chủ yếu sau đây :
+ Tên doanh nghiệp;
+ Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện (nếu
có);
+ Mục tiêu và ngành, nghề kinh doanh;
+ Vốn điều lệ đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty
hợp danh;
+ Vốn đầu tư ban đầu đối với doanh nghiệp tư nhân;
+ Tên và địa chỉ của chủ sở hữu, của tất cả thành viên sáng lập;
+ Họ tên địa chỉ thường trú của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp;

+ Nơi đăng ký kinh doanh.
- Khi thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải công bố nội
dung những thay đổi đó theo quy định.
2.2.2.3 Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Theo quy định của luật doanh nghiệp 1999 và nghị định 02/2000/NĐ-CP, việc
xử lý bằng hình thức thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chính là nhằm
mục đích thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp bằng pháp luật,
tăng cường trách nhiệm của phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh cũng như trách
nhiệm của doanh nghiệp. Cụ thể doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh trong các trường hợp sau:
a) Không tiến hành hoạt động kinh doanh trong thời hạn một năm, kể từ ngày
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
b) Ngừng hoạt động kinh doanh một năm liên tục mà không thông báo với cơ
quan đăng ký kinh doanh;
c) Không báo cáo về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với cơ quan đăng
ký kinh doanh trong hai năm liên tiếp.
d) Doanh nghiệp không gởi báo cáo về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp
đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày có yêu cầu
bằng văn bản;
đ) Kinh doanh ngành nghề bị cấm.
Nghị định 02/2000/NĐ-CP quy định việc thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh cụ thể như sau:
(i) Trong thời hạn 15 ngày nhận được thông báo của phòng đăng ký kinh doanh
GVHD: Dư Ngọc Bích 17
cấp tỉnh đối với trường hợp quy định tại điểm a, khoản 3 Điều 121 luật doanh
nghiệp mà doanh nghiệp vi phạm vẫn không hoạt động kinh doanh, thì phòng đăng
ký kinh doanh cấp tỉnh có quyền yêu cầu người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp đến trụ sở của phòng để giải trình.
Nếu trong trường hợp người được yêu cầu không đến, thì phòng đăng ký kinh
doanh cấp tỉnh có quyền công bố công khai về hành vi vi phạm của doanh nghiệp

và thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
(ii) Với trường hợp doanh nghiệp ngừng kinh doanh một năm liên tục mà không
thông báo với phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh theo quy định tại điểm b khoản 3
Điều 121 luật doanh nghiệp, thì phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh gửi thông báo
bằng văn bản về việc vi phạm và yêu cầu doanh nghiệp báo cáo lý do về việc tạm
ngừng kinh doanh và thời điểm bắt đầu tiếp tục kinh doanh.
Sau thời hạn 15 ngày, nếu doanh nghiệp không báo cáo, thì phòng đăng ký
kinh doanh cấp tỉnh yêu cầu người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đến
trụ sở của phòng để giải trình.
Trường hợp người được yêu cầu không đến, thì phòng đăng ký kinh doanh cấp
tỉnh công bố công khai hành vi vi phạm của doanh nghiệp và thu hồi giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
(iii) Trường hợp doanh nghiệp không báo cáo về hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp với phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh trong 2 năm liên tiếp theo
quy định tại điểm c khoản 3 điều 121 luật doanh nghiệp, thì phòng đăng ký kinh
doanh cấp tỉnh gửi thông báo bằng văn bản về việc vi phạm và yêu cầu doanh
nghiệp báo cáo bằng văn bản về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông báo.sau thời hạn đó, nếu doanh nghiệp
không báo cáo, thì phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh công bố công khai hành vi
vi phạm và thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
(iv) Trường hợp doanh nghiệp không gửi báo cáo theo quy định tại khoản 3
Điều 116 luật doanh nghiệp đến phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh trong thời hạn
6 tháng, kể từ ngày có yêu cầu bằng văn bản theo quy định tại điểm d khoản 3 điều
121 luật doanh nghiệp, thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn của
thông báo lần thứ nhất, phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh gửi thông báo lần thứ
hai yêu cầu doanh nghiệp báo cáo theo quy định.
Sau khi kết thúc thời hạn của thông báo lần thứ hai này mà doanh nghiệp vẫn
không có báo cáo bằng văn bản như quy định, thì phòng đăng ký kinh doanh cấp
tỉnh yêu cầu người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đến trụ sở của phòng
để giải trình.

Trường hợp người được yêu cầu không đến, thì phòng đăng ký kinh doanh cấp
tỉnh công bố công khai hành vi vi phạm và thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh.
(v) Trường hợp phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh phát hiện doanh nghiệp
kinh doanh ngành, nghề bị cấm, thì thông báo bằng văn bản yêu cầu doanh nghiệp
chấm dứt ngay việc kinh doanh ngành, nghề đó.
Nếu doanh nghiệp tiếp tục vi phạm kinh doanh ngành, nghề bị cấm, thì phòng
đăng ký kinh doanh cấp tỉnh có quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, đồng thời thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy
định của pháp luật.
Để nâng cao hơn nữa vai trò của công tác quản lý nhà nước đối với doanh
GVHD: Dư Ngọc Bích 18
nghiệp bằng pháp luật; Luật doanh nghiệp và nghị định 02/2000/NĐ-CP quy định
cho phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh buộc doanh nghiệp giải thể theo quy định
của pháp luật do đó:
(vi) Sau khi công bố các hành vi vi phạm của doanh nghiệp theo quy định tại
các khoản (i); (ii); (iii), (iv) và (v), phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh buộc doanh
nghiệp làm thủ tục giải thể theo quy định tại khoản 5 điều 112 luật doanh nghiệp và
xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh.
(vii) Trường hợp cơ quan quản lý chuyên ngành phát hiện doanh nghiệp có
hành vi vi phạm pháp luật, thì trực tiếp xử lý theo thẩm quyền được pháp luật quy
định hoặc thông báo với phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đăng
ký kinh doanh để xử lý.
2.2.2.4 Thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh.
Sau khi tiến hành đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh và đi vào
hoạt động chính thức; doanh nghiệp (công ty, doanh nghiệp tư nhân) có những
thay đổi quan trọng liên quan đến hoạt động kinh doanh. Những thay đổi đó có thể
bao gồm: Thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện; đăng ký bổ sung, thay đổi
ngành, nghề kinh doanh so với ngành, nghề kinh doanh đã đăng ký khi thành lập
doanh nghiệp; đăng ký thay đổi địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; đăng ký

thay đổi người đại diện theo quy định pháp luật của doanh nghiệp; đăng ký thay
đổi vốn đầu tư (với doanh nghiệp tư nhân), vốn điều lệ ( với công ty); và thông báo
tạm ngừng hoạt động của doanh nghiệp.
Những thay đổi nói trên phản ánh quá trình tồn tại, thay đổi và tạm ngừng hoạt
động của doanh nghiệp kể từ khi đi vào hoạt động sau khi cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh. Những thay đổi như vậy là cần thiết và phải được quy định
bằng pháp luật nhằm bảo đảm “quyền tự do kinh doanh của công dân” và “quyền
sở hữu thu nhập hợp pháp” trong quá trình kinh doanh; cũng như tính sẵn sàng
chấp nhận rủi ro, mạo hiểm của nhà đầu tư với hoạt động kinh doanh của mình
trong nền kinh tế thị trường.
Luật doanh nghiệp 1999, Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 về đăng
ký kinh doanh đã quy định chi tiết trình tự, thủ tục nêu trên của doanh nghiệp
nhằm:
+ Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp;
+ Công khai hoá các thông tin có liên quan đến doanh nghiệp nhằm giúp các
đối tác có điều kiện tìm hiểu và thúc đẩy hoạt động kinh doanh hợp pháp, hạn chế
sự lừa đảo và các hành vi bất hợp pháp khác;
+ Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp qua việc quy
định trình tự, thủ tục, hạn chế thủ tục hành chính phiền phức, tốn kém….
Luật doanh nghiệp 1999
8
và Nghị định 02/2000/NĐ-CP
9
quy định: khi thay đổi
nội dung đăng ký kinh doanh, thì doanh nghiệp phải gửi thông báo và đăng ký với
cơ quan đăng ký kinh doanh chậm nhất 15 ngày trước khi thực hiện việc chuyển
đổi. Trường hợp có thay đổi nội dung của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,
doanh nghiệp được cấp lại giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; trường hợp có
thay đổi khác, doanh nghiệp được cấp lại giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Nghị định số 02/2000/NĐ-CP quy định cụ thể như sau:

a) đăng ký lập chi nhánh, văn phòng đại diện

8
Xem: Điều 19, luật doanh nghiệp năm 1999.
9
xem: Điều 9 - Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000.
GVHD: Dư Ngọc Bích 19
Khi lập chi nhánh văn phòng đại diện, doanh nghiệp phải gửi thông báo tới
phòng dăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi đặt chi nhánh, văn phòng đại diện. Nội
dung thông báo gồm có:
- Tên và địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp;
- Ngành, nghề kinh doanh;
- Họ tên, chữ ký, nơi cư trú của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp;
- Tên và địa chỉ trụ sở chi nhánh, văn phòng đại diện;
- Nội dung, phạm vi hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện;
- Họ, tên, nơi cư trú của người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện.
Kèm theo thông báo quy định trên đây phải có: Bản sao giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh của doanh nghiệp; Bản sao điều lệ công ty đối với công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh.
Nếu ngành, nghề kinh doanh của chi nhánh phù hợp với ngành, nghề kinh
doanh của doanh nghiệp, nội dung hoạt động của văn phòng đại diện phù hợp với
nội dung hoạt động của doanh nghiệp thì trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận
được thông báo, phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, chi nhánh, văn phòng đại
diện được khắc dấu và có quyền sử dụng con dấu của mình.
Sau thời hạn 7 ngày, kể từ ngày gửi thông báo quy định trên đây đến phòng
đăng ký kinh doanh cấp tỉnh, mà chi nhánh văn phòng đại diện không được cấp
giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, thì doanh nghiệp có quyền khiếu nại theo quy
định tại khoản 5 điều 8 Nghị định 02/2000/NĐ-CP.

Trường hợp doanh nghiệp lập chi nhánh, văn phòng đại diện tại tỉnh, thành phố
khác nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính, thì trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày được
cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện, doanh
nghiệp phải thông báo bằng văn bản tới phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi
doanh nghiệp đặt trụ sở chính và bổ sung vào hồ sơ đăng ký kinh doanh.
Việc lập chi nhánh văn phòng đại diện của doanh nghiệp ở nước ngoài được
thực hiện theo quy định cuả pháp luật nước đó.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày chính thức mở chi nhánh, văn phòng đại
diện ở nước ngoài, doanh nghiệp phải thông báo bằng văn bản cho phòng đăng ký
kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính để bổ sung vào hồ sơ đăng
ký kinh doanh.
b) Đăng ký bổ sung, thay đổi ngành, nghề kinh doanh.
Khi bổ sung, thay đổi ngành, nghề kinh doanh, doanh nghiệp gửi thông báo đến
phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đã đăng ký.
Nội dung thông báo gồm có: Tên doanh nghiệp, số đăng ký kinh doanh, ngày
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp;
ngành, nghề kinh doanh đã đăng ký; ngành, nghề đăng ký bổ sung hoặc thay đổi;
họ, tên, chữ ký và nơi cư trú của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Đối với ngành, nghề đăng ký bổ sung là ngành, nghề phải có vốn pháp định, thì
phải có thể xác nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc chứng chỉ hợp pháp chứng
minh số vốn của doanh nghiệp.
Đối với ngành, nghề đăng ký bổ sung là ngành, nghề phải có chứng chỉ hành
nghề, thì phải có thêm bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề theo quy định.
Khi nhận thông báo, phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh phải trao giấy biên
GVHD: Dư Ngọc Bích 20
nhận và xác định ngày khi đăng ký bổ sung, thay đổi ngành, nghề kinh doanh vào
bản chính giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp trong thời hạn 7
ngày, kể từ ngày nhận thông báo.
Sau thời hạn 7 ngày mà doanh nghiệp không được đăng ký bổ sung, thay đổi
ngành, nghề kinh doanh, thì doanh nghiệp vẫn có quyền kinh doanh ngành, nghề

đó, trừ trường hợp ngành, nghề đăng ký bổ sung, thay đổi là ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện.
c) Đăng ký thay đổi địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp.
Khi chuyển địa chỉ trụ sở chính đến nơi khác trong phạm vi tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, doanh nghiệp gửi thông báo đến phòng đăng ký kinh doanh cấp
tỉnh.
Nội dung thông báo gồm có: Tên doanh nghiệp, số đăng ký kinh doanh, ngày
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp;
địa chỉ trụ sở chính dự định chuyển đến; Họ, tên, chữ ký và nơi cư trú của người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Khi nhận thông báo, phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh phải trao giấy biên
nhận và xác định ngày ghi đăng ký chuyển địa chỉ trụ sở chính vào bản chính giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh nghiệp trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận
thông báo.
Sau thời hạn 7 ngày nói trên mà doanh nghiệp vẫn không được đăng ký chuyển
địa chỉ trụ sở chính, thì doanh nghhiệp vẫn có quyền chuyển sang trụ sở mới,
nhưng phải gửi thông báo về địa chỉ trụ sở mới cho tất cả các chủ nợ biết trước khi
chuyển địa chỉ.
Khi chuyển địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp sang tỉnh khác, doanh nghiệp
gửi thông báo đến phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đã dăng ký
và phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ sở mới.
Nội dung thông báo gồm: tên doanh nghiệp, số đăng ký kinh doanh, ngày và nơi
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp;
địa chỉ trụ sở chính dự định chuyển đến; họ tên, chữ ký và nơi cư trú của người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiêp.
Kèm theo thông báo gửi đến phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh
nghiệp dự định đặt trụ sở mới, phải có điều lệ công ty và danh sách thành viên đối
với công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên, danh sách cổ đông
sáng lập đối với công ty cổ phần, danh sách thành viên hợp danh đối với công ty
hợp danh.

Trường hợp tên của doanh nghiệp không trùng hoặc không gây nhầm lẫn với
tên của doanh nghiệp đã đăng ký trong phạm vi địa phương nơi doanh nghiệp
chuyển đến, thì phòng đăng ký kimh doanh cấp tỉnh, nơi doanh nghiệp dự định đặt
trụ sở mới, đăng ký việc chuyển đổi địa chỉ trụ sở chính và cấp lại giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được thông báo.
Trường hợp tên doanh nghiệp trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của doanh
nghiệp đã đăng ký trong phạm vi địa phương nơi doanh nghiệp chuyển đến, thì
trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, phòng đăng ký kinh doanh
nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ sở mới phải thông báo bằng văn bản cho doanh
nghiệp biết, đồng thời hướng dẫn doanh nghiệp chọn tên khác và thay đổi các nội
dung có liên quan trong hồ sơ. Trường hợp này phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh
GVHD: Dư Ngọc Bích 21
đăng ký chuyển đổi địa chỉ trụ sở chính khi doanh nghiệp thực hiện đúng yêu cầu
trên. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày được cấp lại giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, doanh nghiệp phải gửi bản sao hợp lệ đến phòng đăng ký kinh doanh cấp
tỉnh nơi trước đây doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh.
Việc thay đổi địa chỉ trụ sở chính không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp.
d) Đăng ký đổi tên doanh nghiệp
Khi đổi tên, doanh nghiệp gửi thông báo đến phòng đăng ký kinh doanh cấp
tỉnh, nơi doanh nghiệp đã đăng ký. Nội dung thông bao gồm: Tên hiện tại của
doanh nghiệp, số đăng ký kinh doanh và ngày cấp giấy chứng nhận đăng kỳ kinh
doanh; địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; tên dự kiến thay đổi; họ tên, chữ ký
và nơi cư trú của người đại diện theo pháp luật.
Khi nhận thông báo, phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh phải trao giấy biên
nhận và xác định ngày ghi đăng ký đổi tên vào bản chính giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh của doanh nghiệp.
Trường hợp tên dự kiến thay đổi của doanh nghiệp không trùng, không gây
nhằm lẫn với tên của doanh nghiệp đã đăng ký, thì phòng đăng ký kinh doanh đăng

ký đổi tên và ghi tên mới vào bản chính giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong
thời hạn 7 ngày.
Nếu tên dự kiến thay đổi bị trùng hoặc nhầm lẫn với tên doanh nghiệp đã đăng
ký thì phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh thông báo bằng văn bản cho doanh
nghiệp biết và hướng dẫn chọn tên khác và đăng ký đổi tên doanh nghiệp như trên.
Việc thay đổi tên của doanh nghiệp không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp.
e) Đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Trường hợp công ty hợp danh tiếp nhận thành viên hợp danh, khai trừ thành
viên hợp danh, có thành viên hợp danh rút khỏi công ty, thì công ty hợp danh gửi
thông báo đến phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh, nơi công ty đăng ký kinh doanh.
Nội dung thông báo gồm có:
- Tên công ty, số đăng ký kinh doanh, ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh;
- Địa chỉ trụ sở chính của công ty;
- Họ tên, nơi cư trú của thành viên hợp danh mới, của thành viên hợp danh bị khai
trừ hoặc tự nguyện rút khỏi công ty;
- Chữ ký cuả tất cả thành viên hợp danh hoặc thành viên hợp danh được uỷ quyền.
Khi nhận thông báo, phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh trao giấy biên nhận và
xác định ngày ghi đăng ký thay đổi thành viên hợp danh vào bản chính giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh của công ty trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận thông
báo.
Trường hợp thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu
hạn và công ty cổ phần, thì công ty gửi thông báo đến phòng đăng ký kinh doanh
cấp tỉnh nơi công ty đã đăng ký.
Nội dung thông báo bao gồm: Tên công ty, số đăng ký kinh doanh, ngày cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; địa chỉ trụ sở chính của công ty; Họ tên,
chức danh, nơi cư trú của người đang là đại diện theo pháp luật của công ty; Họ
tên, chức danh, nơi cư trú của người thay thế làm đại diện theo pháp luật của công
ty; họ tên và chữ ký của chủ tịch hội đồng thành viên, của người đại diện theo

×