Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Bàn về phương pháp tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.43 KB, 28 trang )

Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta những năm gần đây phát triển theo hướng mở dẫn đến
xuất hiện nhiều thành phần kinh tế khiến cho tính cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp tăng rõ rệt. Các doanh nghiệp muốn tồn tại vươn lên, khẳng định vị trí
của mình cần phải thiết lập được cơ chế quản lý và hệ thống cung cấp thông
tin có hiệu quả.
Kế toán là ghi chép, phân loại tổng hợp trên cơ sở các dữ liệu của hoạt
động sản xuất kinh doanh và thông tin cho nhà quản trị nội bộ doanh nghiệp,
vì vậy, kế toán là công cụ quan trọng phục vụ cho hoạt động quản lý của
doanh nghiệp, đặc biệt là kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm được xác định là khâu trọng
yếu của toàn bộ công tác kế toán trong các doanh nghiệp sản xuất.
Giá thành sản phẩm là chi phí sản xuất tính cho khối lượng một đơn vị
sản phẩm sản xuất ( công việc, dịch vụ ) do doanh nghiệp đã sản xuất hoàn
thành. Đây là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp quan trọng phản ánh trình độ
quản lý, sử dụng vật tư, lao động trình độ tổ chức công nghệ sản xuất sản
phẩm, là cơ sở để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đã không chỉ dừng lại
ở chỗ tính đúng tính đủ chi phí trong giá thành sản phẩm mà còn cung cấp
thông tin cho hoạt động quản trị doanh nghiệp. Nhất là trong điều kiện hiện
nay, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm là một mục tiêu
quan trọng giúp doanh nghiệp đưa sản phẩm vào thị trường, tăng khả năng
cạnh tranh và nâng cao thị phần của mình. Do đó lựa chọn cũng như áp dụng
phương pháp tính giá thành sản phẩm một cách khoa học, hợp lý, phù hợp với
đặc điểm tổ chức, hoạt động kinh doanh và công nghệ sản xuất sản phẩm là
một yêu cầu quan trọng trong doanh nghiệp.
Từ tầm sự cần thiết và tầm quan tọng đặt ra với kế toán trong việc hạch
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
1
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp


toán chi phí và tính giá thành sản phẩm. Trên cơ sở vận dụng những kiến thức
đã học em đã lựa chọn đề tài “ Bàn về phương pháp tính giá thành sản
phẩm trong các doanh nghiệp” làm đề tài môn học chính. Đề tài gồm bốn
phần chính:
Chương I: Cơ sở lý luận về tính giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp.
Chương II: Các phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện phương pháp tính giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp.
Chương IV: Kết luận.
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
2
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
TRONG DOANH NGHIỆP
I.Kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất:
1. Khái niệm chung về giá thành sản phẩm:
1.1. Khái niệm và phân loại giá thành:
1.1.1. Khái niệm giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí
về lao động sống và lao động vật hóa có liên quan đến khối lượng công tác,
sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
1.1.2. Phân loại giá thành sản phẩm:
Cũng như mọi đối tượng khác của quá trình sản xuất, giá thành sản phẩm
được phân tích dưới nhiều góc độ. Để phục vụ tốt cho chức năng cung cấp
thông tin và hoạt động quản lý của doanh nghiệp, kế toán đưa ra hai cách
phân loại chủ yếu:
a.Phân loại theo thời điểm và nguồn số liệu tính giá thành sản phẩm:
Căn cứ theo cách phân loại này thì giá thành được chia thành ba loại: Giá

thành kế hoạch, giá thành định mức, giá thành thực tế.
•Giá thành kế hoạch: Là những chi phí mà doanh nghiệp dự tính chi ra
để hoàn thành một khối lượng sản phẩm lao vụ nhất định trước thời điểm sản
xuất kinh doanh. Giá thành kế hoạc được xây dựng dựa trên cơ sở công nghệ
sản xuất của doanh nghiệp cũng như các định mức kinh tế kỹ thuật và sản
lượng dự kiến của doanh nghiệp. Giá thành kế hoạch được vạch ra cho cả kỳ
kế hoạch nên chỉ tiêu này không đổi trong suốt kỳ kế hoạch. Xây dựng giá
thành kế hoạch có vai trò rất to lớn. Đây là căn cứ để doanh nghiệp so sánh
phân tích và đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu quan trọng cần phấn đấu.
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
3
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
•Giá thành định mức: Là một loại giá thành kế hoạch, mang tính chất
của giá thành kế hoạch. Chỉ tiêu này được tính trên cơ sở định mức chi phí
hiện hành trong từng thời điểm nhất định. Giá thành định mức được xây dựng
trước khi tiến hành quá trình sản xuất chế tạo và luôn thay đổi phù hợp với sự
thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch
giá thành. Giá thành định mức là một công cụ quản lý định mức của doanh
nghiệp, là thước đo chính xác kết quả sử dụng tài sản, vật tư và lao động trong
doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đánh giá đúng đắn các giải pháp kinh tế- kỹ
thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh.
•Giá thành thực tế: Là chi phí thực tế phát sinh mà doanh nghiệp bỏ ra
để tiến hành sản xuất một khối lượng sản phẩm lao vụ nhất định. Giá hành
thực tế thường được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất. Giá thành
thực tế phản ánh kết quả phấn đấucủa doanh nghiệp về cả kinh tế, tổ chức, kỹ
thuật và là căn cứ quan trọng đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nhiệp.
Tóm lại, dựa trên cách phân loại này, doanh nghiệp có thể quản lý và
giám sát chi phí một cách chặt chẽ, xác định nguyên nhân gây vượt ( hụt ) so

với định mức chi phí trong kỳ hạch toán để đưa ra các điều chỉnh, kế hoạch,
định mức chi phí phù hợp.
b. Phân loại theo phạm vi phát sinh cho phí tính giá thành sản
phẩm:
Căn cứ theo cách phân loại này thì giá thành sản phẩm được chia thành
hai loại : Giá thành sản xuất và giá thành toàn bộ.
•Giá thành sản xuất: Là chỉ tiêu phản ánh tất cả các chi phí phát sinh
liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm, gắn liền với quy trình công
nghệ sản xuất sản phẩm. Giá thành sản xuất bao gồm chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Giá thành sản
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
4
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
xuất được sử dụng ghi sổ cho sản phẩm đã hoàn thành nhập kho hay đã giao
cho khách hàng. Giá thành sản xuất còn là căn cứ để xác định giá vốn hàng
bán là lại gộp ở các doanh nghiệp sản xuất.
•Giá thành toàn bộ: Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các chi phí phát sinh
liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành toàn bộ bao gồm giá
thành sản xuất, chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng. Giá thành
toàn bộ là cơ sở tính toán lãi trước thuế của doanh nghiệp.
Như vậy, cách phân loại này giúp nhà quản lý biết được kết quả kinh
doanh lãi lỗ của từng mặt hàng, từng loại sản phẩm của doanh nghiệp kinh
doanh. Tuy nhiên, do cách phân loại này phụ thuộc vào tiêu thức phân bổ chi
phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng cho từng mặt hàng, từng loại
dịch vụ nên cách phân loại này chỉ mang ý nghĩa học thuật, nghiên cứu.
1.2. Sự cần thiết của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm trong doanh nghiệp sản suất hiện nay:
Doanh nghiệp sản xuất là một chủ thể độc lập, chủ động trong việc lựa
chọn phương án sản xuất, tự hạch toán kinh doanh, bồi hoàn chi phí, bảo toàn
vốn kinh doanh và có lãi. Muốn vậy, doanh nghiệp không chỉ phải tổ chức

hạch toán chi phí sản xuất đầy đủ, hợp lý mà còn tính toán chính xác giá
thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh chất lượng của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua những thông tin về giá thành thực
tế của từng loại sản phẩm mà doanh nghiệp có thể phaant ích, đánh giá tình
hình thực hiện các định mức, các dự toán chi phí cũng như tình hình sử dụng
tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn của doanh nghiệp và hiệu quả của các dự án,
các giải pháp kinh tế- xã hội – kỹ thuật.
Hơn nữa, ban lãnh đạo còn dựa vào chỉ tiêu này để xác định kết quả
kinh doanh. Có những thông tin về giá thành sản xuất và giá bán, doanh
nghiêp sẽ đánh giá mức độ bù đắp chi phí và hiệu quả sử dụng chi phí sản
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
5
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
xuất. Giá thành sản phẩm cũng là căn cứ để doanh nghiệp tính toán giá vốn
hàng bán, lãi gộp, từ đó xác định lãi trước thuế thu nhập của doanh nghiệp.
Ngoài ra, giá trị sản phẩm dở dang và thành phẩm còn là những chỉ tiêu
quan trọng của bảng cân đối kế toán, phản ánh tình hình tài sản của doanh
nghiệp. Tính giá thành sản phẩm một cách đúng đắn và trung thực sẽ tạo niềm
tin cho người quan tâm và đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện đầy đủ trách
nhiệm với nhà nước.
Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp phải luôn
tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã phù hợp với thị hiếu
của người tiêu dùng, đồng thời với việc hạ giá thành sản phẩm. Đây cũng là
trách nhiệm chính của kế toán giá thành. Bằng việc cung cấp các thông tin
liên quan tới giá thành định mức, giá thành sản phẩm thực tế, kế toán giá
thành có thể hỗ trợ công tác hạ giá thành sản phẩm. Đơn giá tiêu chuẩn, ngân
sách linh hoạt và kết hợp kế toán phần hành khác chính là công cụ của kế toán
giá thành.
Bên cạnh chức năng hỗ trợ hạ giá thành sản phẩm, kế toán giá thành còn

có chức năng lập giá, có nghĩa là căn cứ vào giá thành để xác định giá bán, tỉ
lệ chiết khấu bán hàng… Một trong những căn cứ để doanh nghiệp tính toán
tỉ lệ chiết khấu phù hợp với khách hàng là giá thành sản phẩm trong mối quan
hệ với giá bán. Như vậy, kế toán giá thành cũng góp một phần quant rọng
trong việc ra quyết định của nhà quản trị.
Trước khi ra quyết định quan trọng, ký kết một hợp đồng kinh tế, các dự
án, các giải pháp kinh tế xã hội thì yếu tố đầu tiên mà doanh nghiệp phải tính
đến là chi phí của công trình dự án đó. Từ đó, doanh nghiệp đối chiếu với khả
năng sản xuất, tài chính để đưa ra ý kiến chính thức.
Qua việc tìm hiểu những vai trò của kế toán giá thành đối với mỗi doanh
nghiệp sản xuất, ta khẳng định kế toán giá thành là một khâu quan trọng của
kế toán. Đây là cơ sở để doanh nghiệp lập một báo cáo trung thực, hợp lý
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
6
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
cũng như cung cấp thông tin kịp thời chính xác cho nhà quản trị. Nhưng, một
hệ thống kế toán bản thân nó không tự mang lại kết quả đó mà luôn cần có sự
vận dụng hợp lý từ phía doanh nghiệp.
2. Yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại các
doanh nghiệp hiện nay:
2.1. Yêu cầu và nguyên tắc quản lý:
Để thực hiện tốt chức năng kiểm tra và cung cấp thông tin, tính giá trong
doanh nghiệp nói chung cũng như kế toán giá thành nói riêng phải tuân thủ
yêu cầu chính xác và nhất quán. Yêu cầu chính xác đòi hỏi việc tính giá phải
đảm bảo trung thực, đúng, phù hợp với giá cả đương thời và phù hợp với số
lượng, chất lượng sản phẩm. Nếu việc tính giá không chính xác, thông tin do
tính giá cung cấp sẽ mất tính sát thực, không đáng tin cậy, ảnh hưởng tới việc
đề ra quyết định kinh doanh. Cũng để thực hiện tốt chức năng của mình, kế
toán giá thành phải đảm bảo yêu cầu thống nhất, nghĩa là việc tính giá phải
thống nhất về phương pháp tính toán giữa các kỳ khác nhau. Có như vậy, số

liệu tính toán ra mới có thể so sánh giữa các kỳ và với doanh nghiệp khác.
Ngoài việc tuân thủ các yêu cầu trên, kế toán còn phải quán triệt các
nguyên tắc:
a. Nguyên tắc xác định đối tượng và phương pháp tính giá phù hợp:
Đòi hỏi đầu tiên của công việc quản lý là xác định đúng đối tượng tính
giá, phù hợp với đặc điểm của công nghệ sản xuất và quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp. Xác định đối tượng tính giá thành chính là xác định sản
phẩm, bán thành phẩm công việc, lao vụ nhất định cần phải tính giá.
Bên cạnh đó thì doanh nghiệp phải lựa chọn phương pháp tính giá thành
phù hợp đặc điểm của quá trình sản xuất, đặc điểm nguyên vật liệu, đặc điểm
của sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất. Phương pháp tính giá thành là một
phương pháp hay một hệ thống phương pháp được sử dụng để tính tổng giá
thành và giá thành một đơn vị sản phẩm
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
7
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
b. Nguyên tắc xác định, phân loại chi phí một cách hợp lý:
Từ nội dung giá thành có thể thấy chi phí là một bộ phận quan trọng cấu
thành nên giá thành sản phẩm. Phân loại, phân bổ chi phí một cách khoa học
nhằm bảo đảm các chỉ tiêu tính giá phản ánh được cơ cấu, phát sinh thực của
chi phí cũng như kiểm soát tìm ra nguyên nhân và phân tích biến động của giá
thành sản phẩm. Để phục vụ cho tính giá thành sản phẩm, chi phí sản xuất
thường được chia thành ba loại là chi phí sản xuất, chi phí bán hàng và chi phí
quản lý doanh nghiệp.
Theo thông tư số 63/1999 – TT/BTC ngày 7/6/1999 trong trường hợp đặc
biệt, tỏng năm không có sản phẩm tiêu thụ hoặc doanh thu tiêu thụ không tương
xứng với chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp thì chi phí bán hàng
và chi phí quản lý trong năm được phân bổ cho sản phẩm dở dang và tồn kho,
căn cứ vào chi phí sản xuất dở dang và giá thành sản phẩm tồn kho.
c. Nguyên tắc phải nắm được các cách phân loại giá thành khác nhau

đáp ứng công tác quản lý và hạch tốn:
Để đáp ứng yêu cầu của quản lý, hạch toán, kế hoạch hóa giá thành và
xây dựng giá cả hàng hóa, giá thành được xem xét nhiều góc độ khác nhau,
phạm vi tính toán khác nhau. Mỗi cách phân loại đều có tác dụng khác nhau
đối với công tác quản lý, hạch toán kế hoạch. Giá thành sản phẩm có thể phân
loại theo phạm vi phát sinh chi phí hoặc thời điểm và nguồn số liệu tính giá.
2.2. Nhiệm vụ của kế toán giá thành:
Với những yêu cầu và nguyên tắc trên, kế toán giá thành cần thực hiện
các nhiệm vụ chủ yếu sau:
•Căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất
sản phẩm của doanh nghiệp để xác định đối tượng và phương pháp tính giá
thành thích hợp.
•Vận dụng phương pháp tính giá thành hợp lý để tính tổng giá thành và
giá thành đơn vị của các đối tượng tính giá thành theo đúng các khoản mục
quy định và đúng kỳ tính giá thành xác định.
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
8
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
•Cung cấp kịp thời những số liệu, thông tin tổng hợp về các khoản mục
chi phí và giá thành thực tế cho nàh quản trị doanh nghiệp.
•Định kỳ lập báo cáo về giá thành sản phẩm và tham gia phân tích tình
hình thực hiện kế hoạch, đề xuất phương pháp để tiết kiệm chi phí và hạ thấp
giá thành sản phẩm.
II. Chi phí sản xuất là cơ sở tính giá thành sản phẩm:
1. Chi phí sản xuất là cơ sở tính giá thành sản phẩm:
1.1. Chi phí sản xuất:
Thành phẩm là kết quả của quá trình hoạt động sản xuất. Muốn tiến hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có ba yếu tố cơ bản là
tư liwwuj sản xuất, đối tượng sản xuất và lao động của con người. Đối với
doanh nghiệp sản xuất thì đối tượng sản xuất chính là các nguyên liệu, nhiên

liệu, vật liệu…, tư liệu sản xuất là các nhà xưởng, máy móc, thiết bị và các tài
sản cố định khác. Đồng thời với quá trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong sản
xuất cũng là quá trình doanh nghiệp chi ra những chi phí sản xuất tương ứng.
Tương ứng với việc nguyên vật liệu là chi phí vật liệu trực tiếp, tương ứng với
việc sử dụng tài sản cố định là chi phí khấu hao tài sản cố định và tương ứng
với việc sử dụng lao động là chi phí về tiền lương, tiền trích bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế của công nhân sản xuất,… Do đó muốn tính giá thành sản phẩm
hoàn thành, kế toán phải tính được tổng chi phí đã chi ra để sản xuất và tiêu
thụ số sản phẩm ấy. Vậy chi phí là căn cứ để tính giá thành sản phẩm.
Theo chế độ kế toán mới ban hành ngày 01-01-1996, chi phí sản xuất là
toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hóa mà doanh nghiệp chi ra để
tiến hành các hoạt động sản xuất trong một thời kỳ nhất định. Để phục vụ cho
việc tính giá thành sản phẩm, chi phí thường được chia thành ba loại là chi phí
sản xuất, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.
Trong đó, chi phí bán hàng là chi phí liên quan đến việc tiêu thụ sản
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
9
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
phẩm như chi phí nhân công bán hàng, chi phí dụng cụ bán hàng… Chi phí quản
lý doanh nghiệp bao gồm toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra
liên quan đến việc tổ chức, điều hành, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh.
Những chi phí này dựng để tính giá thành toàn bộ sản phẩm.
Và phần quan trọng nhất trong tổng chi phí là chi phí sản xuất. Chi phí
sản xuất là những chi phí phát sinh liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, chế
tạo sản phẩm, thực hiện lao vụ, dịch vụ trong phạm vi phân xưởng, bộ phận
sản xuất. Chi phí sản xuất bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí
nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
là chi phí về nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu mà đơn vị bỏ ra có liên
quan trực tiếp đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ,
dịch vụ. Chi phí sản xuất được hạch toán vào tài khoản “ chi phí nguyên vật

liệu trực tiếp”. Chi phí nhân công trực tiếp là số thù lao phải trả cho số lao
động trực tiếp sản xuất chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ cùng
với các khoản trích cho các quỹ bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn, bảo
hiểm y tế theo chế độ quy định. Chi phí nhân công trực tiếp được hạch toán
vào tài khoản “ chi phí nhân công trực tiếp”. Chi phí sản xuất chung là toàn
bộ các chi phí phục vụ và quản lý sản xuất gắn liền với từng phân xưởng sản
xuất, bộ phận sản xuất ( trừ chi phí vật liệu và nhân công sản xuất). Chi phí
sản xuất chung là loại chi phí tổng hợp bao gồm các khoản chi phí nhân viên
quản lý phân xưởng, chi phí khấu hao tài sản cố định dựng ở phân xưởng, chi
phí dịch vụ mua ngoài, các khoản chi phí khác bằng tiền ở phân xưởng. Ngoài
ra, chi phí sản xuất chung còn bao gồm các khoản chi phí trả trước, chi phí
phải trả được phân bổ trong kỳ và chi phí sản phẩm hỏng và thiệt hại ngừng
sản xuất theo kế hoạch mà doanh nghiệp chấp nhận tính vào giá thành sản
phẩm Chi phí sản xuất chung được tập hợp theo từng phân xưởng sản phẩm
hoặc bộ phận sản xuất kinh doanh mà hạch toán vào tài khoản “ chi phí sản
xuất chung”. Vòa cuối mỗi kỳ quyết toán, kế toán tiến hành phân bổ chi phí
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
10
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
vào từng đối tượng tính giá thành sản phẩm. Tất các khoản chi phí trên cuối
kỳ được tập hợp vào tài khoản “ chi phí sản xuất kinh doanh dở dang” ( theo
phương pháp kê khai thường xuyên), vào tài khoản “ giá thành sản phẩm”
( theo phương pháp kiểm kê định kỳ) để tính giá thành sản phẩm.
1.2. Chi phí sản xuất dở dang:
Do các doanh nghiệp thường có quá trình công nghệ sản xuất liên tục và
xen kẽ lẫn nhau, nên ở thời điểm cuối tháng, cuối quý, cuối năm thường có
khối lượng sản phẩm dở dang. Sản phẩm dở dang là các chi tiết hoặc bộ phận
sản xuất đang gia công chế biến trên dây chuyền sản xuất hoặc tại đơn vị sản
xuất, bán thành phẩm nhập kho, sản phẩm công việc đã kết thúc giai đoạn sản
xuất cuối cùng nhưng chưa làm thủ tục nhập kho thành phẩm.

Khi có sản phẩm dở dang thì chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ không
chỉ liên quan tới sản phẩm, công việc đã hoàn thành mà còn liên quan tới sản
phẩm, công việc dở dang. Để tính giá đúng và đầy đủ kế toán phải đánh giá
chính xác sản phẩm dở dang. Tuy nhiên đây là một công việc rất phức tạp đòi
hỏi kế toán phải tùy thuộc vào đặc điểm, tình hình cụ thể về tổ chức sản xuất
và quy trình công nghệ, tính chất cấu thành của chi phí sản xuất và yêu cầu
quản lý của từng doanh nghiệp mà xác định phương pháp xác định sản phẩm
dở dang.
Doanh nghiệp có thể đánh giá sản phẩm dở dang phương pháp ước tính
sản lượng tương đương. Theo phương pháp này căn cứ vào số lượng sản
phẩm dở dang để quy đổi sản phẩm dở dang ra sản phẩm đã hoàn thành sau
đó xác định giá trị sản phẩm dở dang
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
Chi phí sản
phẩm dở dang
=
Chi phí nguyên vật liệu chính
phân bổ cho sản phẩm dở dang
+
Chi phí chế biến cho
sản phẩm dở dang
11
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
Doanh nghiệp có thể tính theo phương pháp 50% chế biến( chi phí chế
biến chiếm tỷ trọng thấp trong tổng chi phí). Chi phí chế biến là các chi phí
phát sinh ở phân xưởng bộ phận sản xuất trong doanh nghiệp không kể chi
phí nguyên vật liệu chính và nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, chi
phí nguyên vật liệu phụ.
Doanh nghiệp có thể tính chi phí sản phẩm dở dang bằng chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp hoặc chi phí nguyên vật liệu chính hoặc chi phí trực tiếp còn

các chi phí khác như chi phí sản xuất chung, chi phí nhân công trực tiếp và
các chi phí khác tính vào thành phẩm hoàn thành.
Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể tính theo phương pháp chi phí định
mức hay chi phí kế hoạch. Theo phương pháp này căn cứ vào số lượng sản
phẩm dở dang và chi phí định mức hay chi phí kế hoạch ở từng giai đoạn chế
biến hay từng bước công việc để xác định giá trị sản phẩm dở dang.
Bên cạnh các phương pháp trên, trong thực tế, người ta còn áp dụng các
phương pháp xác định giá trị sản phẩm dở dang như phương pháp thống kê
kinh nghiệm, phương pháp tính theo chi phí vật liệu chính và vật liệu phụ
trong sản phẩm dở dang…
2. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm:
Từ trên, ta thấy giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Chi phí sản
xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động
vật hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh trong một thời kỳ nhất định. Còn giá thành sản phẩm là biể hiện bằng
tiền của toàn bộ lao động sống, lao động vật hóa có liên quan đến khối lượng
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
Chi phí sản
phẩm dở dang
=
Chi phí nguyên vật liệu chính
phân bổ cho sản phẩm dở dang
+
50% chi phí chế biến
cho sản phẩm dở dang
12
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
sản phẩm hoàn thành. Chúng giống nhau về chất. Chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm đều bao gồm những hao phí về lao động sống, hao phí vật

hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình chế biến. Chi phí sản xút biể
hiện về mặt hao phí sản xuaatsm giá thành sản phẩm biểu hiện mặt kết quả
của quá trình sản xuất. Chúng là hai mặt thống nhất của một quá trình.
Tuy nhiên, do chi phí sản phẩm dở dang nên giá thành sản phẩm và chi
phí sản xuất thường khác nhau về lượng. Tính vào giá thành sản phẩm chỉ có
những chi phí gắn liền với sản phẩm hay khối lượng công việc đã hoàn thành
không kể chi phí đã chi ở kỳ nào. Do lượng chi phí sản xuất kỳ này chuyển
sang kỳ sau ( chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ) thường không khớp với lượng
chi phí sản xuất đã chi ra trong kỳ trước ( chi phí sản phẩm dở dang đầu kỳ),
vì vậy chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ không bằng giá thành sản phẩm sản
xuất trong kỳ.
Sơ đồ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
CPSX đã chi ra trong
kỳ trước đó CPSX phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm CPSX kỳ này chuyển sang
kỳ sau
Trên góc độ biểu hiện băng tiền, chi phí sản xuất cũng khác với giá thành
sản phẩm. Đặc biệt trong các ngành công nghiệp, giá thành sản phẩm không
bao gồm các chi phí đã chi ra trong kỳ mà trừ chi phí phân bổ dần cho kỳ sau
và cộng thêm các khoản chi phí thực tế chưa phát sinh trong kỳ được tính
trước vào giá thành hoặc cộng thêm chi phí đã chi ra kỳ trước chưa phân bổ,
kết chuyển sang.
Tóm lại, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
13
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
với nhau. Chi phí sản xuất phản ánh về mặt hao phí còn giá thành sản phẩm
phản ánh mặt kết quả sản xuất. Chi phí sản xuất là cơ sở để kế toán xác định
giá thành sản phẩm một cách trung thực, hợp lý.
Sinh viên : Lê Tỉ Anh

14
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
CHƯƠNG II
CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM SẢN XUẤT
I. Các quy định về tính giá thành sản phẩm sản xuất:
1. Đối tượng tính giá thành sản phẩm:
Xác định đối tượng giá thành là công việc đầu tiên của toàn bộ công tác
tính giá thành sản phẩm của kế toán giá thành. Đối tượng tính giá thành có thể
là các loại sản phẩm, bán thành phẩm, công việc lao vụ do doanh nghiệp sản
xuất ra, cần tính tổng giá thành và giá thành đơn vị. Đối tượng tính giá thành
có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây truyền
sản xuất toàn bộ.
Việc xác định đúng đối tượng tính giá thành là yêu cầu quyết định trong
việc tính trung thực và hợp lý giá thành sản phẩm. Để tính đúng và đủ giá
thành sản phẩm, kế toán phải dựa vào đặc điểm tổ chức, đặc điểm quy trình
công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm, yêu cầu trình độ quản lý và hạc toán
của doanh nghiệp để xác định đối tượng tính giá thàh hợp lý.
Thật vậy, theo cơ cấu tổ chức sản xuất, với doanh nghiệp tổ chức sản
xuất đơn chiếc thì đối tượng tính giá thành sản phẩm là từng sản phẩm đã
hoàn thành của từng công việc đã hoàn thành. Với doanh nghiệp tổ chức hàng
loạt thì đối tượng tính giá thành là từng loại sản phẩm hoàn thành. Xét theo
đặc điểm quy tình công nghệ sản xuất, nếu quy trình công nghệ giản đơn thì
đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành ở giai đoạn cuối cùng của
quá trình công nghệ. CÒn nếu quy trình công nghệ sản xuất chế biến liên tục,
phức tạp thì đối tượng tính giá thành vừa là sản phẩm đã hoàn thành vừa là
bán thành phẩm đã hoàn thành trong từng giai đoạn. Nếu quy trình công nghệ
kiểu song song, đối tượng của tính giá thành vừa là sản phẩm đã lắp ráp hoàn
chỉnh vừa là bộ phận chi tiết sản phẩm.
Sinh viên : Lê Tỉ Anh

15
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
Như vậy, xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm là yếu tố quyết
định trong việc tính đúng và trung thực giá thành sản phẩm.Đối tượng giá
thành sản phẩm là căn cứ tính giá thành, các thẻ tính giá thành sản phẩm, lựa
chọn phương pháp tính giá thành quản lý và kiểm tra tình hình thực hiện kế
hoạch giá thành và tính hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Kỳ tính giá thành sản phẩm:
Kỳ tính giá thành sản phẩm là thời kỳ mà bộ phận kế toán giá thành cần
tiến hành công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành. Cũng như
xác định đối tượng tính giá thành, kỳ tính giá thành sản phẩm tùy theo đặc
điểm tổ chức sản xuất sản phẩm với chu kỳ sản phẩm mà xác định.
Trong trường hợp mô hình tổ chức sản xuất hàng loạt, chu kỳ ngắn, liên
tục thì kỳ tính giá thành sản phẩm vào thời điểm cuối tháng. Tại thời điểm
này, kế toán tập hợp chi phí và áo dụng những phương pháp tính giá thích hợp
để xác định giá thành thực tế một đơn vị sản phẩm và tổng giá thành thực tế
cho từng đối tượng tính giá thành.
Còn trong trường hợp tổ chức sản xuất đơn chiếc, chu kỳ dài hoặc tổ chức
sản xuất theo đơn đặt hàng thì kỳ tính sản phẩm vào thời điểm sản phẩm hay đơn
đặt hàng hoàn thành. Hàng tháng, kế toán vẫn tiến hành tập hợp chi phí sản xuất
theo đối tượng. Khi nhận chứng từ chứng minh sản phẩm, đơn đặt hàng hoàn
thành thì kế toán tính toán giá thành thực tế cho đối tượng tính giá thành.
Xác định kỳ tính giá thành cho từng đối tượng thích hợp sẽ giúp cho
doanh nghiệp tổ chức công việc tính giá thành một cách khoa học, hợp lý,
đảm bảo cung cấp thông tin chính xác, kịp thời và phát huy vai trò kiểm tra
tình hình thực hiện kế hoạch giá thành của kế toán.
3. Nội dung tính giá thành sản phẩm:
Theo thông tư số 63/1999- TT/BTC ngày 7/6/1999 giá thành sản phẩm
có thể chia theo yếu tố hay khoản mục. Giá thành sản phẩm gồm hai loại : Giá
thành sản xuất và giá thành toàn bộ.

Sinh viên : Lê Tỉ Anh
16
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
•Giá thành sản xuất sản phẩm, dịch vụ gồm các khoản mục chi phí trực tiếp:
Chi phí vật tư trực tiếp: Gồm các chi phí về nguyên vật liệu, vật liệu,
nhiên liệu và động lực tiêu dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm, dịch vụ của
doanh nghiệp.
Chi phí nhân công trực tiếp: Các khoản phải trả cho người lao động trực tiếp
như tiền lương, tiền công, các khoản trợ cấp có tính chất lương, chi ăn ca, chi bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn của công nhân trực tiếp.
Chi phí sản xuất chung: Gồm các khoản chi phí chung phát sinh ở phân
xưởng, bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp.
•Giá thành toàn bộ: Gồm giá thành sản xuất và chi phí bán hàng và chi
phí quản lý doanh nghiệp.
II. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm:
Phương pháp tính giá thành sản phẩm là phương pháp tính toán, xác định
giá thành đơn vị của từng loại sản phẩm lao vụ dịch vụ hoàn thành. Do
phương pháp tính giá thành chỉ mang thuần tính kĩ thuật tính toán chi phí cho
từng đối tượng tính giá thành nên kế toán phải tùy theo đặc điểm quy trình
công nghệ sản xuất sản phẩm, yêu cầu và trình độ quản lý, công tác kế toán
doanh nghiệp, đặc trưng của sản phẩm mà lựa chọn phương pháp thích hợp.
Hiện nay, các doanh nghiệp thường áp dụng những phương pháp sau:
1. Phương pháp giản đơn ( trực tiếp) :
Phương pháp này thường áp dụng trong dây truyền sản xuất giản đơn,
khép kín, chu kỳ ngắn, tổ chức sản xuất nhiều và số lượng mặt hàng ít. Theo
phương pháp này, đến kỳ tính giá thành, kế toán dựa vào sổ tập hợp chi phí
sản xuất và kết quả kiểm kê, tính sản phẩm dở dang để tính tổng giá thành
trong kỳ và giá thành đơn vị sản phẩm được tính theo công thức:
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
17

Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
Tổng giá
thành sản
phẩm
=
Sản phẩm dở
dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất
kinh doanh phát
sinh trong kỳ
-
Giá trị sản
phẩm dở dan
cuối kỳ
Giá thành =
Tổng giá thành sản phẩm trong kỳ
Tổng số sản phẩm sản xuất trong kỳ
Thẻ tính giá thành sản phẩm
Sản phẩm:….
Ngày tháng năm đơn vị: đồng
Khoản mục chi phí
Giá trị sản
phẩm dở
dang cuối kỳ
Chi phí
phát
sinh
trong kỳ
Giá trị

sản
phẩm dở
dang
cuối kỳ
Tổng
giá
thành
sản
phẩm
Giá
thành
đơn vị
1- Chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp
2- Chi phí nhân công
trực tiếp
3- Chi phí sản xuất
chung
Tổng cộng
2. Phương pháp hệ số:
Phương pháp hệ số là phương pháp được sử dụng trong một quy trình
sản xuất mà thu được nhiều sản phẩm khác nhau. Phương pháp này căn cứ
vào hệ số quy đổi các loại sản phẩm về sản phẩm gốc.
Theo phương pháp này, đầu tiên, kế toán dựa vào đặc điểm kỹ thuật,
kinh tế để xác định hệ số cho mỗi loại sản phẩm và chọn một loại sản phẩm
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
18
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
làm sản phẩm tiêu chuẩn. Sau khi tập hợp tổng chi phí sản xuất liên quan đến
các loại sản phẩm, kế toán tính giá thành sản phẩm gốc.

Tổng giá thành giá trị sản phẩm chi phí sản xuất giá trị sản
phẩm của tất cả = dở dang + thực tế phát sinh - phẩm dở dang
các loại sản phẩm đầu kỳ trong kỳ cuối kỳ
Giá thành =
Tổng giá thành của tất cả các loại sản phẩm
Tổng số sản phẩm gốc (kể cả quy đổi)
Căn cứ vào giá thành đơn vị sản phẩm gốc, kế toán tính giá thành từng
loại sản phẩm:
Giá thành giá thành hệ số quy đổi
đơn vị = đơn vị x sản phẩm
từng loại sản phẩm gốc từng loại
Kế toán lập thẻ tính giá thành cho sản phẩm A-B:
Thẻ tính giá thành sản phẩm
Tháng… năm…
Nhóm sản phẩm : A-B đơn vị: đồng
Sản phẩm Sản lượng Hệ số Quy ra sản
phẩm tiêu chuẩn
Sản phẩm A
Sản phẩm B
Sản phẩm C
Tổng cộng
Khoản
mục chi
Giá trị
SPDD
Cpsx
phát
Giá trị
SPDD
Tổng

giá
Sản phẩm A Sản phẩm B
Tổng
giá
thành
Giá
thành
đơn vị
Tổng
giá
thành
Giá
thành
đơn vị
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
19
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
Chi phí
NVL trực
tiếp
Chi phí
nhân
công sản
xuất
Chi phí
sản xuất
chung
Tổng
cộng
3. Phương pháp tỷ lệ:

Phương pháp này áp dụng trong doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản
phẩm có quy cách, phẩm chất khâc nhau như các ngành may mặc, đúng
giày…
Theo phương pháp này, kế toán thường tập hợp chi phí sản xuất theo
nhóm sản phẩm và xác định tỷ lệ chi phí giữa giá thành định mức và giá thành
thực tế.
Tổng giá thành Giá thành kế hoạch sản lượng
kế hoạch chung = ( đơn vị x thực tế sản xuất )
các loại sản phẩm sản phẩm I của sản phẩm i
Tỉ lệ chi phí =
Tổng giá thành thực tế của các loại sản phẩm
Tổng giá thành thực tế của các loại sản phẩm
Căn cứ vào tỷ lệ chi phí và giá thành kế hoạch của từng loại sản phẩm để
tính giá thành đơn vị thực tế và tổng giá thành thực tế.
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
20
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
Giá thành giá thành kế hoạch tỷ lệ
đơn vị thực tế = đơn vị x chi
từng loại sản phẩm tưng loại phí
Thẻ tính giá thành của phương pháp này tương tự thẻ tính giá thành theo
phương pháp hệ số.
4. Phương pháp tổng cộng:
Phương pháp tổng cộng thường được sử dugnj trong trường hợp sản
phẩm phải trải qua nhiều giai đoạn chế biến mới hoàn thành. Phương pháp
tổng cộng thường được áp dụng trong các doanh nghiệp da giày, dệt…
Giá thành Chi phí sản xuất chi phí chi phí chi phí sx
xuất sản = dở dang + sx ở + sx ở +… - dở dang
phẩm đầu kỳ bộ phận 1 bộ phận 2 cuối kỳ
Sinh viên : Lê Tỉ Anh

21
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
Thẻ tính giá thành sản phẩm
Sản phẩm:…
Ngày tháng năm Đơn vị: đồng
Khoản mục
chi phí
Giá trị sản
phẩm dở
dang đầu
Chi phí sản xuất phát sinh
trong kỳ
Giá trị sản

phẩm dở dang
cuối kỳ
Giá thành
Px 1 Px2 … Tổn
g
Tổng Đơn
vị
Chi phí NVL
trực tiếp
Chi phí nhân
công trực tiếp
Chi phí sản
xuất chung
Tổng cộng
5. Phương pháp loại trừ sản phẩm phụ:
Phương pháp này được dùng trong trường hợp quy trình sản xuất đông

thời thu được sản phẩm chính và sản phẩm phụ như cấc doanh nghiệp ngành
sản xuất đường, xay xát gạo… Đối với các doanh nghiệp này, để tính giá
thành một cách chính xác kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ.
Tổng giá trị tổng chi phí giá trị giá trị
giá thành = sản phẩm chính + sản xuất + sản phẩm phụ - sản phẩm
sản phẩm dở dang phát sinh thu hồi dở dang
chính đầu kỳ trong kỳ ước tính cuối kỳ
Trong đó giá trị sản phẩm thu hồi ước tính được xác định dựa trên giá trị sản
phẩm phụ có thể sử dụng được, giá trị có thể bán được và chi phí định mức.
Thẻ tính giá thành sản phẩm
Sản phẩm:….
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
22
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
Ngày tháng năm Đơn vị: đồng
Khoản
mục
SPDD đầu
kỳ
Chi phí

phát sinh
SPDD cuối
kỳ
Giá trị sản
phẩm phụ
Giá thành
Tổng Đơn
vị
NVL trực

tiếp
Công nhân
trực tiếp
Sản xuất
chung
Tổng cộng
6. Phương pháp sản xuất liên hợp:
Phương pháp này được áp dụng ở doanh nghiệp có tính chất sản xuất của
đặc điểm quy trình công nghiệp phức tạp đòi hỏi việc tính giá thành sản phẩm
phải có sự kết hợp của nhiều phương pháp như doanh nghiệp ngành hóa chất,
đúng giầy,… Để tính giá thành ở doanh nghiệp này, kế toán phải kết hợp
nhiều phương pháp như phương pháp giản đơn, phương pháp tổng cộng,
phương pháp giản đơn và phương pháp hệ số, phương pháp giản đơn và
phương pháp tỷ lệ,…
Trên đây là sáu phương pháp kế toán cơ bản nhất để tính giá thành sản
phẩm. Sáu phương pháp này là cơ sở quan trọng nhất để doanh nghiệp dựa
vào đặc điểm doanh nghiệp mình, ngành sản xuất mà lựa chọn và sử dụng kết
hợp một hay nhiều phương pháp khác nhau phục vụ nhu cầu thông tin và
quản lý của doanh nghiệp.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHƯƠNG PHÁP
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
23
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
Hệ thống kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Việt
Nam được xây dựng theo nguyên mẫu hệ thống của Liên Xô cũ, theo mô hình
kế hoạch hóa tập trung. Mặc dù, trong thời gian qua,, các cơ quan chức năng
đã xây dựng nhiều biện pháp cải tiến nhằm bắt kịp nhu cầu của nền kinh tế thị
trường và đạt được những kết quả nhất định song cũng còn nhiều vấn đề cần

được quan tâm làm rõ.
1. Xem xét tính chất kịp thời của tổ chức hạch toán giá thành trong
doanh nghiệp hiện nay:
Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất hiện nay đều hạch toán theo phương
pháp kê khai thường xuyên. Tuy nhiên, ngoại trừ phương pháp tính giá thành
theo đơn đặt hàng thì các phương pháp tính giá định kỳ đều có nhược điểm
chung. Đó là tính chưa hợp lý giữa công việc hạch toán và đặc điểm phương
pháp kê khai thường xuyên.
Thật vậy, theo chế độ hiện nay, chi phí sản xuất của nwowccs ta hiện nay
có duy nhất một hệ thống kế toán chi phí thực tế để hạch toán vì vậy cuối kỳ
mới có số liệu để tính giá thành sản phẩm. Trong khi đấy hệ thống kế toán có
hai phương pháp hạch toán hàng tồn kho: Phương pháp kiểm kê định kỳ và
phương pháp kê khai thường xuyên. Theo phương pháp kiểm kê định kỳ thì
cuối kỳ tính giá thành là hợp lý nhưng theo phương pháp kê khai thường
xuyên thì mọi biến động tăng, giảm chi phí phải được phản ánh kịp thời,
thường xuyên. Nhưng theo chế độ về phương pháp kê khai thường xuyên hiện
nay, chỉ đến cuối kỳ, kế oán mới được tập hợp chi phí lên tài khoản “ chi phí
sản xuất kinh doanh dở dang” ( TK 154) và sau khi kiểm kê đánh giá giá trị
sản phẩm dở dang cuối kỳ, giá thành sản xuất thực tế của những sản phẩm
hoàn thành nhập kho trong kỳ mới phản ánh vào tài khoản “ thành phẩm”
( TK 155). Do đó, việc hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm theo
phương pháp kê khai thường xuyên khó có thể cung cấp thông tin giá trị của
các loại tài sản hàng tồn kho ( giá trị sản phẩm dở dang và thành phẩm) trên
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
24
Bàn về phương pháp tính giá thành trong doanh nghiệp
sổ kế toán tại bất kỳ thời điểm nào trong kỳ.
Như vậy, kế toán chi phí và giá thành không thể phản ánh một cách liên
tục tình hình thành phẩm hiện có theo giá trị thực tế vì chỉ có thể biết giá trị
thực tế của các khoản mục chi phí cấu thành nên giá thành sản phẩm sau khi

sản phẩm đã hoàn thành và đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ, kế toán phải
sử dụng một loại giá trị khác không phải là giá trị thực tế và có tính ổn định
trong kỳ.
Hiện nay trên thế giới, trong hệ thống của các nước tiên tiến đều song
song tồn tại hai hệ thống chi phí khác nhau:
- Hệ thống chi phí thực tế
- Hệ thống chi phí thông dụng
Các hệ thống linh hoạt, có thể thấy được điểm này qua sự khác nhau về
thời điểm tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm của chúng.
Hệ thống kế
toán chi phí
NVL trực tiếp
Nhân công
trực tiếp
Sản xuất
chung
Thời điểm tập
hợp chi phí
và tính giá
thành
Thực tế Thực tế Thực tế Thực tế Cuối kỳ
Thông dụng Thông dụng Thông dụng Thông dụng
Bất kì thời
điểm nào
- Hệ thống kế toán chi phí thực tế luôn phù hợp cho bất cứ doanh nghiệp
nào muốn tính giá thành chính xác vào thời điểm cuối kỳ.
- Hệ thống kế toán thông dụng dùng trong các doanh nghiệp muốn
nhanh chóng giá thành sản phẩm tại bất cứ thời điểm nào, đến cuối kỳ điều
chỉnh lại theo giá thành thực tế.
So với hệ thống kế toán Việt Nam thì hệ thống này rất tiến bộ. Bên cạnh

đấy phương pháp này cũng rất dễ hiểu và có thể vận dụng được với trình độ
của đội ngũ kế toán Việt Nam. Song hệ thống này chưa được xem xét một
Sinh viên : Lê Tỉ Anh
25

×