Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Giải pháp phát triển đội ngũ thương nhân trên địa bàn nông thôn nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 153 trang )



Bộ thơng mại
Viện nghiên cứu thơng mại




Báo cáo tổng kết đề tài cấp bộ

Giải pháp phát triển
đội ngũ thơng nhân
trên địa bàn nông thôn nớc ta


Chủ nhiệm đề tài: nguyễn thị thanh hà














6477


24/8/2007

hà nội - 2007


4




MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT DÙNG TRONG BÁO CÁO


APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BOT Đầu tư xây dựng – kinh doanh thu hồi vốn – chuyển giao
CNH Công nghiệp hóa
CTCP Công ty cổ phần
CTTNHH Công ty trách nhiệm hữu hạn
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
DNTN Doanh nghiệp tư nhân
DVPTKD Dịch vụ phát triển kinh doanh
EU Liên minh châu Âu
HĐH Hiện đại hóa
HNKTQT Hội nhập kinh tế quốc tế

HTX Hợp tác xã
KTTN Kinh tế tư nhân
TCTK Tổng cục Thống kê
WTO Tổ chức thương mại thế giới

XHCN Xã hội chủ nghĩa


5

MỞ ĐẦU

Địa bàn nông thôn nước ta có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng trong cuộc
đấu tranh dựng nước, giữ nước và đối với sự phát triển của đất nước. Vì
vậy, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách ưu đãi phát triển kinh tế -
xã hội, trong đó có chính sách ưu đãi đào tạo, đào tạo lại và thu hút nguồn
nhân lực cho địa bàn nông thôn nhằm rút ngắn khoả
ng cách về trình độ phát
triển giữa nông thôn và thành thị.
Riêng đối với nguồn nhân lực trong lĩnh vực thương mại, từ khi thực hiện
sự nghiệp đổi mới, đội ngũ thương nhân trên địa bàn nông thôn đã có những
bước phát triển nhất định, nhất là về số lượng thương nhân trong các thành
phần kinh tế. Từ chỗ thương nhân thuộc thành phần quốc doanh và hợp tác
xã mua bán chiếm vị trí độc tôn, mua bán theo m
ệnh lệnh hành chính, đến
nay đã hình thành đội ngũ thương nhân thuộc nhiều thành phần kinh tế có
quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh và bình đẳng trước luật pháp, đội
ngũ thương nhân này ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và
tiêu dùng trên địa bàn, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng sản xuất hàng hóa.
Từ giữa những năm 90, nhất là từ năm 1997 đế
n nay, Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã thực hiện nhiều biện pháp khuyến khích sản xuất, tiêu thụ sản phẩm,
cũng như các biện pháp kích cầu đối với khu vực nông thôn nhằm duy trì và
nâng cao sức phát triển của khu vực này, đồng thời chuyển dịch mạnh mẽ cơ

cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất và cơ cấu tiêu dùng theo hướng CNH, HĐH. Một
vấn đề đặt ra là các biệ
n pháp tác động cơ từ phía cung và phía cầu ở khu vực
thị trường nông thôn có mang lại kết quả như mong muốn nếu thiếu đi sự
phát triển tương xứng cần thiết của đội ngũ thương nhân. Hoạt động của đội
ngũ thương nhân tại khu vực nông thôn vẫn chưa thực sự đóng vai trò tích
cực trong quá trình phát triển sản xuất và tiêu dùng ở khu vực này. Các
thương nhân vẫn ch
ủ yếu tập trung vào khâu mua - bán hàng hoá sẵn có, mà
thiếu vắng các hoạt động tạo dựng nguồn hàng, đặc biệt là các hoạt động
trong việc nâng cao khả năng thương mại, khuyếch trương thương mại và mở
rộng phạm thương mại cho các sản phẩm của khu vực nông thôn - vốn mang

6
các hạn chế thương mại của sản phẩm xuất xứ từ nền sản xuất nhỏ, tiểu
nông.
Một trong những nguyên nhân là trình dộ phát triển nguồn nhân lực ở địa
bàn nông thôn nói chung và trình độ phát triển của đội ngũ thương nhân nói
riêng còn có một khoảng cách khá xa so với thành thị. Có thể nói đội ngũ
thương nhân ở địa bàn nông thôn nước ta hiện nay chưa đáp ứng được yêu
cầ
u của phát triển nền kinh tế thị trường và của nhiệm vụ phát triển thương
mại, thị trường nông thôn trong điều kiện đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn theo định hướng xã hội chủ nghĩa và bối
cảnh tự do hóa thương mại, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng sâu rộng.
Để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị
trường, thực hiện hội nhập kinh tế
quốc tế dứt khoát phải dựa trên một sự
chuyển dịch về cơ cấu và phải tính đến những quan hệ, xu thế lớn của
thương mại toàn cầu và những đòi hỏi rất mạnh mẽ của khu vực dịch vụ.

“Phát triển mạnh thương mại, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động để
mở rộng thị trường trong nước và h
ội nhập quốc tế có hiệu quả”
1
, là một
chủ trương quan trọng của Đảng nhằm đẩy nhanh quá trình này đồng thời
tạo động lực phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa hiệu quả và bền
vững. Để thực hiện được chủ trương quan trọng này, phải có một đội ngũ
thương nhân mạnh và “tinh”. Tuy vậy, thực tiễn những năm qua cho thấy
đội ngũ thương nhân nói chung, thương nhân trên địa bàn nông thôn nói
riêng số lượng tuy nhiề
u nhưng chất lượng, tính chuyên nghiệp chưa cao.
Chính vì vậy, cần phải có những giải pháp phát triển đội ngũ thương nhân
phù hợp nhằm tạo khung pháp lý, môi trường kinh doanh thuận lợi, khuyến
khích đội ngũ thương nhân Việt nam phát triển, thực hiện được vai trò là
cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng, giữa thị trường trong nước với thị
trường quốc tế.
Một lộ trình mới
được mở ra cho sự giàu có của đất nước phải dựa trên một
nền tảng vững chắc là nguồn lực con người, trí tuệ con người và đạo đức
của con người. Đất nước ta không có nhiều tài nguyên khoáng sản và còn đi
sau về công nghệ, nhưng chúng ta có thể rút ngắn khoảng cách và vượt lên
dòng thời cuộc nếu biết khai thác tốt hơn nữa và đầu tư nhiều hơn nữa vào
nguồn lực con ng
ười Việt Nam. Bên cạnh những khó khăn, chúng ta cũng


1
Nghị quyết Đại hội Đảng IX


7
có những cơ may đó là: dân số đông trên 80 triệu người với khoảng 40 triệu
lao động cần cù khéo tay, có kiến thức văn hoá và có quyết tâm làm giàu;
môi trường chính trị đất nước ngày càng ổn định, các nhà đầu tư không sợ
sự rủi ro; một đội ngũ nhân lực đang và sẽ được đào tạo có trình độ cao;
một đội ngũ doanh nhân trẻ có trí tuệ; một đội ngũ thương nhân năng
động
và khát vọng làm giàu, đó chính là thuận lợi lớn phát triển thương mại và thị
trường.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt nam đã có những quan tâm
và có những chỉ đạo tích cực nhằm tạo môi trường thuận lợi để phát triển
mạnh thương mại và thị trường như: đầu tư phát triển sản xuất, dịch vụ
xuất khẩu; xúc tiến thương mại và mở
rộng thị trường; phát triển nguồn
nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu của tiến trình đổi mới. Tuy nhiên, cho tới
nay, đội ngũ thương nhân Việt nam và nhất là thương nhân trên địa bàn
nông thôn chưa thực sự đáp ứng được những đòi hỏi của hoạt động kinh
doanh theo cơ chế thị trường. Mặc dầu Nhà nước đã đầu tư rất nhiều tiền
vào xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển thương mại nông thôn như xây dựng
chợ, các trung tâm thương mại cụm, xã… đồng thời, Nhà nước cũng đã thực
hiện chính sách trợ cước, trợ giá, miễn giảm thuế cho hoạt động kinh doanh
ở một số địa bàn nông thôn, miền núi khó khăn… nhưng thương mại ở địa
bàn nông thôn vẫn chưa phát triển, hàng hóa của nông dân sản xuất ra vẫn
gặp nhi
ều khó khăn trong tiêu thụ. Một trong những nguyên nhân quan
trọng đẫn đến tình trạng này là đội ngũ thương nhân trên địa bàn nông thôn
nước ta còn nhiều hạn chế.
Phát triển đội ngũ thương nhân trên địa bàn nông thôn là nhân tố quyết định
để phát triển thương mại, thị trường nông thôn, góp phần quan trọng trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và phát

triển thương mại, thị trường cả nước theo định hướng xã hội ch
ủ nghĩa. Vì
vậy, việc nghiên cứu đề tài “Giải pháp phát triển đội ngũ thương nhân
trên địa bàn nông thôn ở nước ta” là rất cần thiết cho cả trước mắt và lâu
dài. Nó vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có tác dụng thực tiễn sâu sắc trong việc
xây dựng đội ngũ thương nhân vừa có đức vừa có tài, ngang tầm với nhiệm
vụ của ngành thương mại trong giai đoạn tới.


8
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
− Làm rõ một số vấn đề lý luận về thương nhân.
− Tổng quan kinh nghiệm phát triển đội ngũ thương nhân của một số
nước, đặc biệt là của Trung quốc và Thái lan và rút ra bài học cho
Việt Nam.
− Phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ thương nhân và hoạt động
của thương nhân trên địa bàn nông thôn cả nước và theo từng khu
vực, so sánh vớ
i yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp
hóa hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quôc tế của Việt nam, từ đó
chỉ ra được những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
− Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển đội ngũ thương nhân trên
địa bàn nông thôn trong thời gian tới cho phù hợp với yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và phát triển
thương mại bền v
ững.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu:
− Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, trên địa bàn nông thôn.
− Hoạt động của thương nhân,

− Các chính sách ảnh hưởng đến sự phát triển thương nhân trên địa bàn
nông thôn nước ta qua các thời kỳ.
* Phạm vi nghiên cứu:
− Về nội dung: Quá trình phát triển của đội ngũ thương nhân trên địa
bàn nông thôn thông qua hoạt động thương mại, dị
ch vụ và sự tác
động của cơ chế chính sách đối với sự phát triển thương nhân trên
địa bàn nông thôn;
− Về không gian: là phạm vi nông thôn cả nước, có phân chia theo
các khu vực đặc thù như nông thôn đồng bằng và miền núi và theo
khu vực các vùng kinh tế của nước ta.
− Về thời gian: Đánh giá thực trạng thương nhân và hoạt động của
thương nhân trên địa bàn nông thôn thời kỳ 1996-2004; giải pháp
phát triển đội ngũ thương nhân cho tới n
ăm 2010.

9
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
− Khảo sát thực tế.
− Thu thập tài liệu (thu thập và nghiên cứu tài liệu trong nước và kinh
nghiệm nước ngoài).
− Sử dụng các phương pháp: tổng hợp, phân tích, so sánh và luận
giải những vấn đề về cơ sở khoa học, hội thảo khoa học.
− Phương pháp chuyên gia (tham khảo lấy ý kiến chuyên gia).
Nộ
i dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận trong việc phát triển đội ngũ thương nhân
Chương II: Thực trạng phát triển đội ngũ thương nhân trên địa bàn nông
thôn thời kỳ 1996-2004

Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển đội ngũ thương nhân trên
địa bàn nông thôn nước ta






10


CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
THƯƠNG NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN NÔNG THÔN

1. Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết của việc phát triển đội
ngũ thương nhân trên địa bàn nông thôn
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Thương nhân
Trong lý luận về kinh tế và quản lý thị trường, có ba phạm trù liên quan chặt
chẽ với nhau là: Thị trường, thương mạ
i và thương nhân.
Khái niệm về thị trường: Thị trường là lĩnh vực cụ thể của lưu thông hàng
hoá là tổng hoà những mối quan hệ mua bán trong xã hội, là nơi diễn ra hoạt
động thương mại, là không gian cho hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá,
tiền tệ, phản ánh tổng hợp quan hệ giữa các bộ phận của nền kinh tế quốc
dân, quan hệ cung và cầu của xã hội. Việc mua và bán đều được di
ễn ra
thông qua thị trường. Thị trường là phạm trù của nền sản xuất và lưu thông
hàng hoá, phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua và người bán,

giữa cung và cầu, và toàn bộ các mối quan hệ, thông tin kinh tế, kỹ thuật
gắn với mối quan hệ đó. Còn có rất nhiều định nghĩa khác về thị trường,
mỗi định nghĩa đều phản ánh mặt này hay mặt khác của bản chất kinh t
ế thị
trường. Nhưng dù nội dung định nghĩa có khác nhau như thế nào đi chăng
nữa, nhưng vẫn không thoát khỏi một ý nghĩa bao quát chung, đó là:
“Thị trường là một tồn tại tất yếu khách quan trong nền sản xuất hàng hoá,
là chiếc cầu nối giữa sản xuất và tiêu thụ, là nơi để các nhà doanh nghiệp có
thể đánh giá, kiểm nghiệm lại các hoạt động kinh doanh của mình”
Kinh tế thị
trường càng phát triển thì hoạt động trên thương trường càng sôi
động, nhộn nhịp. Khi nào và ở đâu sản xuất hàng hoá phát triển, các điều
kiện lưu thông được cởi mở thì khi đó, nơi đó xuất hiện nhu cầu mở rộng
trao đổi và theo đó các hoạt động mua bán, lưu thông hàng hoá tăng lên.

11
Khái niệm về thương mại: Thương mại là quá trình trao đổi hàng hoá, cung
ứng dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ, thông qua tiền tệ làm phương tiện
thanh toán. Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác
2
. Mua bán hàng hoá là hoạt
động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở
hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh
toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.
Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên có nghĩa vụ
thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch
vụ có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụ
ng dịch vụ

theo thỏa thuận.
Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng
hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo
thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm
thương mại.
Các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực
hiện các giao dịch thươ
ng mại cho một hoặc một số thương nhân được xác
định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ
thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại”
3

Khái niệm hoạt động thương mại trong Luật sửa đổi năm 2005 mở rộng
nhiều so với Luật thương mại năm 1997, hoạt động thương mại không chỉ
bao gồm các hành vi thương mại như mua bán hàng hóa và các hoạt động
dịch vụ và xúc tiến thương mại liên quan đến hàng hóa mà bao gồm tất cả
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Do đó, các chủ thể là thương nhân
r
ất rộng lớn chiếm tỷ trọng cao trong các tổ chức doanh nghiệp của nền kinh
tế nước nhà.
Khái niệm về thương nhân: Trong nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều
loại hình thức sở hữu, tất yếu tồn tại các chủ thể kinh doanh thương mại
khác nhau: Nhà nước, tập thể và tư nhân. Các thành phần thương mại cùng
tồn tại trên thị trường, tạo ra thế c
ạnh tranh sống động và là động lực quan
trọng cho sự phát triển của thị trường, phát triển kinh tế xã hội. Sự cạnh
tranh này vừa hướng tới liên kết những nhà kinh doanh, vừa tao ra cơ sở cho


2

Luật Thương mại, Điều 3
3
Luật Thương mại Điều 3

12
sự hoàn thiện các hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao chất lượng phục vụ
nhu cầu tiêu dùng và lành mạnh hóa các quan hệ thị trường.
Hiện nay, ở nước ta, các chủ thể tham gia thị trường thuộc nhiều thành phần
kinh tế, có đăng ký kinh doanh (DNNN, các công ty cổ phần, trách nhiệm
hữu hạn, DNTN, HTX, hộ kinh doanh cá thể) và không phải đăng ký kinh
doanh (các hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối trực tiếp
bán sản phẩm c
ủa họ ra thị trường và những người bán hàng rong, quà vặt,
làm dịch vụ có thu nhập thấp được pháp luật thừa nhận). Luật Thương mại
sửa đổi được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI,
kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 đã định nghĩa về thương
nhân: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá
nhân hoạ
t động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
kinh doanh”
4

Các tổ chức kinh tế được thành lập và hoạt động kinh doanh thương mại
hợp pháp theo qui định của pháp luật gồm: Doanh nghiệp Nhà nước hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước (2004); Doanh nghiệp tư nhân;
Công ty cổ phần; Công ty trách nhiệm hữu hạn; Công ty hợp danh hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp (1999); Các hợp tác xã thành lập và hoạt
động theo Luật Hợp tác xã (2004), các Hợp tác xã và Liên hiệp hợp tác xã
đã đăng ký kinh doanh theo Nghị định số 97/2005/NĐ-CP về
đăng ký kinh

doanh hợp tác xã.
Các cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên có đăng
ký kinh doanh gồm các hộ kinh doanh cá thể đã đăng ký kinh doanh theo
Nghị định Số 109/2004/NĐ-CP ngày 02 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ
Về đăng ký kinh doanh;
Theo định nghĩa trên thì doanh nghiệp hoạt động thương mại là thương
nhân. Tuy vậy, theo cách hiểu thông thường trong dân gian thì “nhân” có
nghĩa là người, “thương” là buôn bán, như vậy “thương nhân” là người làm
công việc buôn bán. Nếu như
“doanh nhân” là người chịu trách nhiệm hay
điều hành một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói chung, thì “thương
nhân” là người chịu trách nhiệm hay điều hành doanh nghiệp thương mại.
Ở nước ta, trước đây trong dân gian thường gọi thương nhân là các nhà
buôn. Nhà buôn (thương gia) khi có mặt trên thương trường, bao giờ cũng


4
Luật Thương mại, Điều 6

13
đứng sau một hoặc nhiều mặt hàng có giá trị. Nhà buôn cũng có nhiều loại,
nhiều thứ bậc và đương nhiên là giữa họ luôn có những cuộc tranh đua sôi
động sòng phẳng, cũng không kém phần quyết liệt và dữ dội. Trong tranh
đua này là sự thắng thua của những cuộc đấu trí và phương kế. Nhưng có
điều đặc biệt, các mặt hàng nào đã xác định được phẩm giá, được thượng đế
ưa chu
ộng thì không mấy khi mất đi, cái mà chỉ có ngày một tốt hơn, vì nó
đã được các nhà buôn mạnh thế và lực, giành lấy quyền sản xuất và buôn
bán.
Nhà buôn cũng là những người hiểu rất sâu sắc và thành thục điều hành các

qui luật của thương trường, và cũng chỉ có họ mới làm được. Nhà buôn
thường rất có ý thức trong việc đào tạo những thế hệ nối nghiệp, cũng chỉ có
nh
ư vậy, cùng với thời gian họ mới phát triển được nhiều đời, nhà buôn
ông, nhà buôn cha, rồi nhà buôn con, nhà buôn cháu chắt đối xứng với
nhiều đời các nhà buôn này là nhiều đời người tiêu dùng và những đời của
người tiêu dùng này càng phát triển nhiều hơn, khi họ tiêu thụ và sử dụng
các sản phẩm đã và đang bán ra đó. Nhờ vậy họ làm cho thương trường trở
nên an ninh, xã hội thái thịnh, ảnh hưởng và tác động củ
a tầng lớp nhà buôn
là rất lớn, họ làm cho tập tính và tâm tính cộng đồng dân cư thay đổi, đi đến
sự phát triển và ổn định về nếp sống. Người tiêu dùng qua việc sử dụng từ
đời này qua đời khác, mặt hàng của họ mà trở nên sang trọng hơn, có văn
hoá hơn. Hàng hóa, nguồn từ cây trồng trên đồng ruộng, nguồn từ sản xuất
trong nhà máy, chảy qua tay tầng lớp các nhà buôn là qua sự tuyển l
ựa, xác
định thứ loại cấp độ, khi đến tay người tiêu dùng thì các sản phẩm ấy có giá
trị chắc chắn. Tầng lớp các nhà buôn đồng thời cũng là tầng lớp các nhà
công nghiệp, và các nhà tài chính. Tầng lớp nhà buôn, đồng thời phát triển
buôn bán họ cũng phát triển công tác từ thiện, bởi họ chính là người hiểu rất
sâu sắc sự ý nghĩa của đồng tiền trong tâm thức và tâm thế. Diện mạo và
chất l
ượng của văn học nghệ thuật, của khoa học kỹ thuật, cũng nhờ có họ
mà được phát triển. Những phát minh lớn nẩy sinh theo nhu cầu của cấp độ
hàng hóa. Họ cũng là nền tảng kinh tế vững chắc của một nhà nước, và mối
quan hệ giữa nhà nước và nhà nước phát triển hay ngưng trệ, cũng nhờ họ
góp phần không nhỏ.
Tóm lại thương nhân có thể là doanh nghi
ệp, tập thể, cá nhân được pháp
luật thừa nhận thông qua việc cấp giấy đăng ký kinh doanh thương mại cho


14
họ. Thương nhân là những người hoạt động thương mại chuyên nghiệp, có
vốn, lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật riêng phục vụ cho hoạt động thương
mại hợp pháp. Thương nhân có thể là một người, có thể là một tập thể có tổ
chức (doanh nghiệp, HTX, công ty).
1.1.2. Đội ngũ thương nhân
Đội ngũ thương nhân là tập hợp những cá nhân, những tổ chức ho
ạt động
trong lĩnh vực thương mại, bao gồm: các hộ kinh doanh cá thể, các doanh
nghiệp thương mại nhà nước, các doanh nghiệp thương mại tập thể, các
công ty trách nhiệm hữu hạn, các công ty cổ phần, các công ty có vốn đầu
tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Như vậy
đội ngũ thương nhân là tập hợp số đông, độc lập, có tổ chức, các thương
nhân.
1.1.3. Phân lo
ại thương nhân
Căn cứ vào loại hình doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thương nhân có
thể phân ra các loại sau: Doanh nghiệp thương mại nhà nước; Doanh
nghiệp thương mại tập thể; Doanh nghiệp thương mại tư nhân; Công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực thương mại;
Hộ kinh doanh cá thể có đăng ký kinh doanh.
 Căn cứ vào địa bàn hoạt động có thể phân ra 2 loại: Thươ
ng nhân thành
thị và thương nhân nông thôn. Thương nhân thành thị là những thương nhân
có hoạt động kinh doanh chủ yếu ở khu vực thành thị. Thương nhân nông
thôn là những thương nhân mà hoạt động kinh doanh thương mại của họ
chủ yếu diễn ra trên địa bàn nông thôn.
Ngoài ra còn có những tiêu thức khác để phân loại thương nhân như: Căn
cứ vào quy mô, giới tính, tuổi tác. Theo quy mô có thương nhân lớn, thương

nhân nhỏ. Thương nhân lớn là những thương nhân có quy mô kinh doanh
lớ
n thường hoạt động trên các lĩnh vực mua buôn, bán buôn không những ở
thị trường trong nước mà còn cả thị trường thế giới. Thương nhân nhỏ là
những thương nhân có quy mô kinh doanh nhỏ, năng lực kinh doanh còn
yếu, hoạt động trong một thị trường hẹp, chủ yếu là bán lẻ. Theo giới tính có
Thương nhân nam và thương nhân nữ. Ở nước ta trong thời gian trước đây
do còn ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến nên số
lượng thương nhân nữ
còn bị hạn chế. Trong thời gian gần đây phụ nữ Việt Nam đã có được nhiều
cơ hội phát triển bình đẳng với nam giới về mọi mặt nói chung và đặc biệt
là lĩnh vực kinh doanh thương mại nói riêng nên số lượng thương nhân nữ
ngày càng tăng nhanh cả về số lượng (năm 2000 chiếm tỷ lệ 21%) cũng như

15
chất lượng, nhiều thương nhân nữ từ những người kinh doanh cá thể đã phát
triển lên thành chủ nhân của những doanh nghiệp thương mại tư nhân. Căn
cứ vào tuổi tác có thương nhân già, thương nhân trẻ. Thương nhân già là
những người đã có nhiều kinh nghiệm trên thương trường, những người này
thường cân nhắc trong lựa chọn mặt hàng, đối tác, phi vụ kinh doanh. Phần
lớn thương nhân già kém năng động và không giám phiêu liêu m
ạo hiểm
trong kinh doanh do đó thường bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh mang lại lợi
nhuận lớn. Đối với các thương nhân trẻ, kinh nghiệm thương trường
thường chưa cao nhưng ưu điểm của loại thương nhân này là giám mạnh
dạn đầu tư kinh doanh lớn, giám chấp nhận phiêu liêu mạo hiểm.
1.1.4. Thương nhân trên địa bàn nông thôn
Địa bàn nông thôn được qui định đến đơn vị hành chính cấp huyện v
ới
cộng đồng dân cư là những người lao động nông nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp gắn với tư liệu sản xuất trên địa bàn. Trong 64 đơn vị hành chính cấp
tỉnh, thành phố thì địa bàn nông thôn và thành thị là xen kẽ nhau, có 536
đơn vị cấp huyện trong cả nước
5
. Việc tách địa bàn nông thôn thành thị rạch
ròi là rất khó, hơn nữa phần lớn các doanh nghiệp thương mại phục vụ sản
xuất nông nghiệp và tiêu dùng của dân cư nông thôn lại đóng ở thị trấn, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh. Vì vậy, trong đề tài này chúng tôi sử dụng một số
số liệu thống kê thuộc địa bàn nông thôn là địa bàn thuộc 536 đơn vị cấp
huyện trong cả nước (
Địa bàn cả nước trừ đi các quận, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh).
Thương nhân trên địa bàn nông thôn là những thương nhân mà hoạt động
kinh doanh thương mại của họ chủ yếu diễn ra trên địa bàn nông thôn,
thường là các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên có đăng ký kinh doanh và có
trụ sở chính hoặc địa điểm kinh doanh (
đối với cá nhân) trên địa bàn nông
thôn. Hoạt động thương mại của thương nhân phải trực tiếp liên quan đến
việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác, phục vụ cho nhu cầu sản xuất,
tiêu thụ và tiêu dùng và nâng cao đời sống của dân cư trên địa bàn nông
thôn. Đội ngũ thương nhân trên địa bàn nông thôn là tập hợp số đông,
độ
c lập, có tổ chức, các thương nhân mà hoạt động kinh doanh thương mại
của họ chủ yếu diễn ra trên địa bàn nông thôn.


5
Thống kê số lượng các đơn vị hành chính Việt nam có đến 31/12/2004 – Tổng cục Thống kê


16
1.2. Đặc điểm của thương nhân
1.2.1. Đặc điểm của thương nhân trong nền kinh tế thị trường
 Thương nhân là những người hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng
hoá. Hoạt động của thương nhân đều tập trung hướng tới khách hàng, coi
khách hàng là nhân vật trung tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để thỏa
mãn nhu cầu của họ.
Quá trình lao động c
ủa thương nhân là tổng hợp quá trình kinh tế, kỹ thuật,
tâm lý, xã hội… đòi hỏi thương nhân phải huy động tổng hợp vốn kiến thức
mà ít có sự phân công chuyên môn hóa như các nhà sản xuất.
So với người sản xuất, hoạt động của thương nhân nhạy bén hơn, nhanh
chóng tiếp cận với những thay đổi của thị trường. Thương nhân có khả năng
phát hiện sớm những cơ hội kinh doanh, t
ừ đó tạo ra sự liên kết với nhà sản
xuất, thúc đẩy, hỗ trợ nhà sản xuất phát triển.
Hoạt động của thương nhân không chỉ thúc đẩy lưu thông hàng hóa mà còn
góp phần thúc đẩy lưu thông tiền tệ, tạo thời cơ cho đầu tư tài chính tiền tệ
và ngân hàng phát triển. Đầu tư vào hoạt động kinh doanh thương mại của
thương nhân thương thu hồi vốn nhanh hơn đầu tư vào s
ản xuất.
 Sự phát triển hoạt động kinh doanh của mỗi thương nhân phụ thuộc rất
nhiều vào sự phát triển hệ thống giao thông vận tải. Lưu thông là hành trình
của hàng hoá trong không gian được giải quyết bằng vận tải, thương nhân
hoạt động kinh doanh hàng hoá dịch vụ có liên quan chặt chẽ với dịch vụ
vận tải. Hàng hoá có được lưu thông một cách thông suốt, nhanh chóng, chi
phí lưu thông thấp hay không đi
ều này phụ thuộc đáng kể vào việc phát
triển dịch vụ vận tải văn minh và cơ sở hạ tầng của ngành đường bộ, đương

sắt, đường hàng không, đường thuỷ.
 Hoạt động kinh doanh thương mại của thương nhân là một loại hình kinh
doanh dịch vụ nên yêu cầu thuận tiện đối với khách hàng là đặc điểm nổi
bật. Đối với tư
liệu, vật tư nguyên liệu phục vụ sản xuất cũng như hàng tiêu
dùng, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng như người tiêu dùng đều
đòi hỏi được đáp ứng một cách thuận tiện nhất. Thương nhân nào đáp ứng
được yêu cầu thuận tiện cho khách hàng thì thương nhân đó thu hút được
khách hàng. Đặc điểm này dẫn đến tình hình có nhiều thương nhân lớn
nhưng cũng không nuốt hết đượ
c những thương nhân nhỏ. Vì vậy bên cạnh
những thương nhân lớn vẫn tồn tại những người buôn bán nhỏ.

17
1.2.2. Đặc điểm của đội ngũ thương nhân Việt nam
Ngoài những đặc điểm chung của thương nhân trong nền kinh tế thị trường,
thương nhân Việt Nam còn có những đặc điểm đặc điểm riêng khác so với
thương nhân các nước khác. Những đặc điểm chính của thương nhân nước
ta là:
 Đội ngũ thương nhân ở nước ta ra đời và phát triển gắn liền v
ới công
cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường của đất nước.
Trước đổi mới, nước ta không thực sự có doanh nghiệp và thương nhân,
mặc dù có tồn tại các xí nghiệp quốc doanh và các cơ sở sản xuất, buôn bán
nhỏ của lớp người được gọi chung là tiểu thương, tiểu chủ. Công cuộc đổi
mới mở ra thời vận mới cho các doanh nghiệp quố
c doanh và nhất là dân
doanh, cho sự ra đời của đội ngũ thương nhân mới Việt Nam.
 Đội ngũ thương nhân ở nước ta đa số tuổi đời khá trẻ, được đào tạo và
rèn luyện trong quá trình đổi mới, có tinh thần yêu nước và tự tôn dân tộc.

Theo kết quả điều tra doanh nghiệp của tổng cục thống kê năm 2004,
khoảng 70% thương nhân lãnh đạo các doanh nghiệp dân doanh ở độ tuổi
d
ưới 45 (đối với doanh nghiệp nữ, tỷ lệ đó là 62%, với doanh nghiệp quốc
doanh là 20 – 25%). Tuổi đời trẻ, tạo nhiều ảnh hưởng tới tính năng động, ý
chí dám chấp nhận rủi ro, thách thức, khả năng học hỏi và sức làm việc của
thương nhân.
Được đào tạo và rèn luyện trong quá trình đổi mới, Đội ngũ thương nhân
Việt Nam ngày nay có lòng yêu nước, gắn bó cuộc sống với vậ
n mệnh và
tương lai của đất nước, của dân tộc, của cộng đồng xã hội. Nhìn chung đa số
họ tôn trọng luật pháp, thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà nước,
sống có tránh nhiệm, có tinh thần tự tôn dân tộc, mong muốn phát triển các
sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam, không thua kém các bạn hàng và
đối thủ nước ngoài.
 Đội ngũ thương nhân ở nước ta đa số có tinh thần doanh nghiệp ý chí
l
ập nghiệp, làm giàu, dám chấp nhận rủi ro, thách thức.
Điều này thể hiện khá rõ trong thực tế cũng như qua những lý do thúc đẩy
họ làm kinh doanh. Đặc biệt trong điều kiện ở nước ta cơ chế thị trường còn
nhiều khiếm khuyết, hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp chưa phát triển, doanh
nghiệp dân doanh còn bị phân biệt đối xử và phải cạnh tranh không cân sức
với các doanh nghiệp qu
ốc doanh và doanh nghiệp nước ngoài, các thương
nhân Việt Nam phải thực sự có ý chí, tinh thần doanh nghiệp cao trên
thương trường. Chính ý chí đó đã tạo nên sức bật cho hàng ngàn thương

18
nhân vươn lên và thành công qua quá trình vật lộn để khởi nghiệp và mở
mang sự nghiệp kinh doanh.

 Đội ngũ thương nhân ở nước ta đa số làm việc rất cần cù, năng động
chịu khó học và vươn tới cái mới.
Các cuộc điều tra cho thấy thương nhân là lớp người làm việc hết sức cần
cù, với cường độ cao, trung bình các thương nhân làm việc từ 10 – 12 giờ
m
ột ngày và 25 – 27 ngày 1 tháng. Cách làm việc của họ rất năng động, linh
hoạt, họ có thể làm nhiều việc khác nhau ở nhiều nơi, trong nhiều môi
trường khác nhau, luôn cố gắng và có khả năng thích ứng với mọi điều kiện,
mọi hoàn cảnh khó khăn. Họ cũng rất chịu khó học tập với ý chí quyết tâm
nâng cao trình độ, kỹ năng quản lý, kinh doanh và có khả năng tiếp thu tốt.
 Đội ng
ũ thương nhân ở nước ta sống có nhân bản, có ý thức trách nhiệm
cao với cộng đồng, có mong muốn được gắn bó trong hội đoàn.
Đa số thương nhân có ý thức trách nhiệm cao đối với doanh nghiệp, với
những người cùng làm việc với mình, họ nhận thức rõ là những quyết định
của họ không chỉ ảnh hưởng dến bản thân, mà còn ảnh hưởng lớn đến cuộc
số
ng của hàng ngàn người lao động làm việc trong doanh nghiệp của gia
đình họ. Do đó, phần lớn thương nhân đối xử tốt, chia sẻ lợi ích với người
lao động, và trong phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam rất ít khi xảy ra
tranh chấp.
Đa số thương nhân cũng ý thức tốt với cộng đồng xã hội, thường xuyên
đóng góp, tham gia các hoạt động nghĩa cử hoặc từ thiện. Doanh nhân ngày
nay cũng hiểu rõ yêu cầ
u phải đoàn kết, hợp tác giữa các Doanh nghiệp Việt
Nam với nhau để bảo vệ lợi ích chung trong cuộc cạnh tranh trên thương
trường. Do vậy, phần lớn họ đều tham gia vào các hội của doanh nghiệp, và
mong muốn phát triển hơn nữa các hội doanh nghiệp, hội nghề nghiệp.
 Đội ngũ thương nhân ở nước ta đa số sống có văn hoá, giữ gìn những
truyền thống, giá trị

tốt đẹp của gia đình, xã hội và dân tộc.
Đa số thương nhân là những người có giáo dục, có nếp sống lành mạnh,
trung thực. Họ gắn bó và có trách nhiệm cao với gia đình, cha mẹ, coi trọng
quan hệ bạn bè, họ hàng, chăm lo đóng góp xây dựng quê hương. Họ có
lòng tự trọng chú ý giữ gìn danh tiếng của gia đình, thanh danh của doanh
nhân. Trong quan hệ kinh doanh quốc tế, họ có ý thức tự tôn dân tộc, cố
gắng làm sao d
ể rạng danh non sông đất nước. Các thương nhân cũng rất
trọng học vấn, quan tâm đầu tư cho giáo dục, đào tạo để nâng cao trình độ,
mở rộng kiến thức cho bản thân, con cái cũng như những người cộng sự. Họ

19
biết quý trọng hiền tài, đạo đức, và ghét những thói hư tật xấu trong kinh
doanh cũng như trong xã hội và cuộc sống đời thường.
1.2.3. Đặc điểm của đội ngũ thương nhân trên địa bàn nông thôn
Thương nhân trên địa bàn nông thôn cũng có những đặc điểm của thương
nhân Việt Nam nói chung, nhưng vì kinh doanh trên địa bàn nông thôn nên
hoạt động của họ có những đặc điểm khác:
 Thương nhân nông thôn còn h
ạn chế về năng lực kinh doanh so với
thương nhân thành thị.
Phần lớn thương nhân nông thôn là những thương nhân nhỏ, trình độ kinh
doanh còn hạn chế, vốn liếng ít, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, thiếu
các phương tiện hiện đại để nắm bắt thông tin thị trường trong nước cũng
như quốc tế.

Thương nhân nông thôn còn chịu ảnh hưởng của tâm lý, thói quen, cách
tính toán tiểu nông.
Thiếu khả năng phân tích hệ thống, toàn diện; thấy cái lợi trước mắt mà
không thấy cái hại lâu dài, thấy cái lợi của một nhóm người và cá nhân mà

coi nhẹ hay quên đi cái lợi của chung, đối phó tạm thời với tình thế mà thiếu
qui hoạch lâu dài.
 Hoạt động của thương nhân nông thôn gắn với sản xuất nông nghiệp và
thị trường nông thôn.
Tiêu thụ
nông sản, các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, cung ứng vật tư nông
nghiệp và các nguyên liệu phục vụ sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở nông
thôn là nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh của thương nhân nông
thôn, chu kỳ kinh doanh một phần phụ thuộc vào thời vụ nông nghiệp.
 Năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh của thương nhân nông thôn
thấp.
Do có sự chênh lệch lớn v
ề trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa nông
thôn và thành thị dẫn đến sự chênh lệch lớn về phát triển thương mại và thị
trường: Sản xuất, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn chưa
phát triển, chưa huy động hết khả năng của mọi thành phần kinh tế. Tỷ lệ
nghèo vẫn còn cao và khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư có xu
hướng gia t
ăng. Nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ ở nông thôn hiện tại so với
thành thị nhìn chung không đa dạng, yêu cầu về chất lượng cũng không đòi
hỏi khắt khe, nhưng về giá cả phải phù hợp với đại đa số những người có

20
thu nhập thấp. Địa bàn nông thôn rộng lớn, thị trường nhỏ lẻ phân tán, sức
mua thấp, hoạt động sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc vào các điều kiên tự
nhiên, thời tiết, thiên tại, địch họa, các sản phẩm nông nghiệp mang tính
mùa vụ dễ hư hỏng. Do đó năng suất lao động, tỷ suất lợi nhuận của thương
nhân không cao.
Tính chất mùa vụ của sả
n xuất ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các

thương nhân, vào vụ thu hoạch các thương nhân cần huy động nhiều vốn để
thu mua, tiêu thụ nông sản vì vậy có lúc nhu cầu về vốn rất cao, nhưng cũng
có lúc vốn lại nhàn rỗi và không phát huy được hiệu quả.
Thương nhân nông thôn, hoạt động trong thị trường có chi phí lưu thông
cao. Do đường giao thông nông thôn hiện nay còn kém phát triển so với
thành phố, sản xuất hàng hoá ở nông thôn còn manh mún và phân tán, dung
lượng thị trường nông thôn còn thấp nên chi phí vận chuyển hàng hoá ở khu
vực này thường cao hơn thành phố và các khu công nghiệp.
1.3. Sự cần thiết phải phát triển đội ngũ thương nhân trên địa bàn nông
thôn ở nước ta.
1.3.1 Phát triển đội ngũ thương nhân để đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ
cấu sản xuất trong nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn.
Thị trường nông thôn đang trong quá trình vận động và phát triển; cơ
cấu
sản xuất đang từng bước được chuyển dịch theo hướng tiến bộ, các vùng
sản xuất hàng hóa tập trung chuyên canh theo hướng chuyên môn hoá đã và
đang hình thành; kinh tế trang trại đang trên đà phát triển; nhu cầu về hàng
hoá (gồm cả vật tư, nguyên liệu ) và dịch vụ ngày càng phong phú hơn;
người tiêu dùng ngày càng yêu cầu chất lượng hàng hoá cao hơn. Phát triển
đội ngũ thương nhân trên địa bàn nông thôn nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triể
n thị trường nông thôn cũng đồng thời là đồng lực thúc đẩy phát triển
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển sang sản xuất hàng hoá đòi
hỏi phát triển lưu thông, do đó không thể thiếu vai trò của thương nhân. Đẩy
mạnh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp bằng việc tăng cườ
ng
phát triển công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn, tiến tới giảm dần tỷ
trọng nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Đa dạng hóa ngành nghề,
nhất là các ngành nghề liên quan trực tiếp tới nông nghiệp như chế biến

nông sản, dịch vụ sản xuất để nâng cao giá trị kinh tế của các sản phẩm

21
nông nghiệp; đẩy nhanh tốc độ xóa đói giảm nghèo, nhất là ở vùng kém
phát triển, vùng sâu, vùng xa, v.v
Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp
Mục tiêu của CNH-HĐH đất nước của Đảng ta không phải chỉ đơn thuần là
quá trình tăng tỷ trọng của công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông
nghiệp trong tổng GDP của nền kinh tế, mà thực chất là quá trình đổi mới
căn bản về cơ cấu sản xuất, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả
và bền vững theo hướng hội nhập,mở cửa của toàn bộ nền kinh tế. Mục tiêu
của CNH-HĐH là phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, theo
h
ướng CNH-HĐH, được xem như là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong
các ngành, các lĩnh vực sản xuất và hoạt động dịch vụ.
Đối với kinh tế nông nghiệp và nông thôn, phải quán triệt sâu, rộng Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa IX) về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn để
chuyển mạnh nền nông nghiệp nước ta sang nền nông nghiệp sản xuất hàng
hóa đa dạng, gắn với phát triển công nghiệp chế biến và ngành nghề phi
nông nghi
ệp, phân công lại lao động ở nông thôn. Sản xuất nông nghiệp
tiếp tục chuyển dịch mạnh cả về cây trồng, vật nuôi và cơ cấu sản phẩm
phù hợp với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, cần phát huy vị trí, vai trò của kinh
tế hộ gia đình, trang trại và của các doanh nghiệp tiêu thụ, chế biến nông
sản thực phẩm. Xây dựng và phát huy vai trò quan tr
ọng của HTX kiểu
mới, làm cầu nối trực tiếp giữa sản xuất nông nghiệp với thị trường.
Đối với kinh tế vùng, tiếp tục chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng

phát huy lợi thế so sánh của từng vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm, trong
đó có các thành phố lớn cần được tiếp tục có các cơ chế, chính sách thuận
lợi để phát triển nhanh và tăng cường liên k
ết kinh tế với các địa bàn nhằm
phát huy vai trò đầu tàu. Ở các vùng nông thôn, gắn chuyển dịch cơ cấu
sản xuất nông nghiệp với phát triển mạnh các ngành nghề truyền thống và
công nghiệp, dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, giảm áp lực dân nông
thôn di chuyển tự do về các thành phố lớn.
Để thực hiện được các mục tiêu trên thì không thể thiếu được vai trò của
thương nhân trong việc cung cấp v
ật tư nguyên liệu đầu vào cho sản xuất
chế biến các sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn và
tìm thị trường tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.

22
Điều nóng bỏng hiện nay là, phải tạo và tìm được thị trường tiêu thụ "đầu
ra" cho các sản phẩm của người nông dân, đó chính là nhiệm vụ của các
thương nhân. Hoạt động của thương nhân không chỉ đóng vai trò trung gian
mà bằng hoạt động năng động và có hiệu quả của mình tác động vào cơ cấu
sản xuất, hướng dẫn và điều tiết sản xuất, làm cho cơ cấ
u và qui mô sản
xuất ngày càng bám chắc và đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng.
1.3.2 Phát triển đội ngũ thương nhân nông thôn để thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Sự phát triển của kinh tế thế giới cho thấy, trong bối cảnh toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế sự giàu mạnh của một quốc gia khởi nguồn từ sự giàu
mạnh của các doanh nghiệp, cụ thể hơn là từ n
ăng lực của những người
đứng đầu doanh nghiệp. Vì thế, khi đất nước ta đang phải đối diện với
những thách thức gay gắt của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế

quốc tế, việc đặt doanh nhân, doanh nghiệp vào trung tâm của sự phát triển
không còn là ý muốn chủ quan mà là đòi hỏi khách quan. Trong thế kỷ XX,
thế giới đã chứng kiến nhiều thành tự
u kinh tế khá ngoạn mục : ở thập niên
60, là sự phát triển của Nhật Bản ; ở thập niên 80, là thành tựu kinh tế của
Hàn Quốc, Hồng Kông, Xin-ga-po Cách thức mà các nước áp dụng để
làm nên những chuyện thần kỳ về kinh tế có thể không giống nhau nhưng
chắc chắn có cùng một điểm chung là có một hệ thống doanh nghiệp hùng
mạnh và một lực lượng doanh nhân giỏi làm nền tảng vững chắ
c cho việc
dựng lên tòa nhà kinh tế khang trang và bền vững. Do vậy, để xây dựng
thành công sự nghiệp CNH, HĐH, chúng ta phải phát triển đội ngũ doanh
nhân nói chung và đội ngũ thương nhân nói riêng đông về số lượng, giỏi về
kinh doanh.
Hoạt động của thương nhân là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, nói
cách khác lợi nhuận gắn liền với thương nhân, là động lực thúc đẩy thương
nhân hoạt động, từ
đó mà tác động thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển.
Trong bất cứ nền kinh tế hàng hóa nào, vai trò của thương nhân cũng vô
cùng quan trọng. Với bản chất năng động truy tìm lợi nhuận làm cho qui
luật cung cầu, qui luật giá trị phát huy công năng sàng lọc mọi hoạt động
kinh tế trong xã hội. Cái cũ không phù hợp bị đào thải, cái mới không
ngừng được sản sinh. Toàn bộ nền kinh tế xã hội bị tác độ
ng phải không
ngừng thay đổi, vươn lên, nhu cầu mới về hàng hóa, sản phẩm mới, dịch vụ
mới được tạo ra, khoa học kỹ thuật có động lực để phát triển.

23
Là một trong những ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, nông nghiệp
luôn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nhất là khi nước ta

đi lên từ điểm xuất phát nông nghiệp. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay,
dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, của kinh tế tri
thức, nông nghiệp càng có một vị trí xứng đáng trong cơ cấu nền kinh tế
,
trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội, tác động tích cực đến các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội và góp phần thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Phần
lớn các quốc gia châu Á phát triển, tăng trưởng nhanh là nhờ xây dựng
trước một nền móng phát triển vững vàng tại nông thôn.
Thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ
động hội nhập kinh t
ế quốc tế và khu vực theo tinh thần đã được xác định
tại Đại hội lần thứ IX và Nghị quyết số 7/NQTƯ của Bộ Chính trị (khóa IX)
nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để
đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội
nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa
đấu tranh và cạnh tranh,
vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức đối với đội ngũ thương nhân.
Trong cơ chế thị trường hiện nay muốn phát triển kinh tế trong nước thì
cần phải hội nhập kinh tế quốc tế. Trong lĩnh vực thương mại thương nhân
là những người trực tiếp đưa sản phẩm nông nghiệp tiểu thủ công nghiệp
của nông thôn ra thị trường th
ế giới, là người nắm bắt được những nhu cầu
về sản phẩm về số lượng cũng như chất lượng để phản ánh lại cho người
sản xuất ở nông thôn, từ đó mà góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hoá ở
nông thôn ngày càng đáp ứng một cách tốt hơn nhu cầu của thị trường thế
giới.
1.3.3 Phát triển đội ngũ thương nhân trên địa bàn nông thôn góp ph
ần tăng
thu nhập, nâng cao mức sống cho người dân trên địa bàn nông thôn, giảm
dần khoảng cách với khu vực thành thị

Cơ chế thị trường đã làm chênh lệch phát triển thành thị nông thôn, chênh
lệch giầu nghèo đang tăng lên nhanh. Mặc dù cuộc sống của mọi người dân
đều được cải thiện với mức độ khác nhau, nhưng trong quá trình này đã có
mức độ sự khác biệt trong chất lượng cuộc sống. Theo s
ố liệu điều tra thống
kê (TCTK) năm 2004 thì mức thu nhập bình quân đầu người của thành thi
(832.500 đồng) và nông thôn (225.000 đồng), chênh lệch 3,7:1, trong đó
76,5% sống ở nông thôn (số liệu 1/4/2004). Hơn thế xu thế doãng cách thu
nhập ngày càng tăng lên : khoảng cách 1999 là 509.400 đồng và 187.900
đồng, chênh lệch 2,7 lần. Lý do là thu nhập ở thành thị tăng rất nhanh, tốc

24
độ tăng 1999-2004 là 16,4% so với khu vực nông thôn cùng kỳ chỉ tăng
6%
Khoảng cách giầu nghèo cũng tăng lên nhanh chóng: Khoảng cách giữa
20% số hộ giầu nhất và 20% số hộ nghèo nhất đã tăng lên từ 6,5 lần năm
1999 lên 8,9 lần năm 2004, trong đó ở những vùng nông thôn, khoảng cách
này nói chung thấp hơn thành thị (6,3 lần so với 9,8 lần), nhưng cũng có
những vùng rất cao và tăng nhanh như Tây Nguyên chênh lệch tăng từ 10,1
l
ần lên 12,9 lần, đồng bằng sông Cửu Long chênh lệch tăng từ 6,1 lần lên
7,9 lần giữa các năm 1999 và 2004 Trong một thời gian dài trước đây, thị
trường tiêu thụ nông sản chủ yếu là trong nước, còn phần xuất khẩu lại
thông qua hệ thống trung gian khá phức tạp, làm cho người sản xuất không
nắm bắt được nhu cầu thị trường, bị ép giá, gây ra tâm lý không an tâm sản
xuất ổn định. Trong những năm qua, việc
đẩy mạnh xuất khẩu nói chung và
xuất khẩu nông sản nói riêng lại chủ yếu dựa vào những khả năng "hiện có"
là chính, tức là đẩy mạnh sản xuất và sử dụng phương thức chuyển dần từ
thị trường nội địa ra thị trường khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, trong nhiều

trường hợp chúng ta chưa tổ chức nghiên cứu kỹ thị trường, do đó mấy nă
m
gần đây đã xẩy ra ngày càng nhiều tình trạng khi sản xuất tăng lên thì nẩy
sinh tình trạng "thừa" do sản phẩm làm ra chưa đáp ứng tốt nhu cầu thị
trường, cả về giá cả, cũng như những tiêu chuẩn
Sản xuất hàng hoá ở nông thôn muốn phát triển được thì khâu quan trọng là
phải tìm được đầu ra cho sản phẩm, chức năng này thuộc về thương nhân,
làm sao tiêu thụ hết
được sản phẩm do nông dân sản xuất ra, không chỉ ở thị
trường trong nước mà còn cả thị trường quốc tế. Phấn đấu nâng mức bán lẻ
hàng hoá và dịch vụ bình quân đầu người hàng năm ở khu vực nông thôn
lên gấp 3 lần so với hiện nay vào năm 2010. Trên cơ sở mở rộng mạng lưới
kinh doanh, xây dựng và phát triển các mô hình tổ chức thị trường nội địa,
áp dụng đa dạng các ph
ương thức hoạt động theo hướng văn minh, hiện đại
và tăng cường xúc tiến thương mại nội địa, đến 2010 phấn đấu tiêu thụ ngày
càng nhiều sản phẩm hàng hoá trong nước làm ra: 90% đối với hàng nông
sản thực phẩm; 80% đối với hàng công nghiệp tiêu dùng
6
.
Phát triển đội ngũ thương nhân trên địa bàn nông thôn theo hướng tăng cả
về số lượng và chất lượng góp phần thúc đẩy lưu thông do đó thúc đẩy sản
xuất phát triển. Các Mác đã nói : " lĩnh vực trao đổi mở rộng ra thì qui mô


6
“Định hướng và giải pháp phát triển thị trường nội địa” -Vụ CSTTTN-Bộ Thương mại

25
trong sản xuất cũng tăng lên, sự phân công trong sản xuất cũng trở nên sâu

sắc hơn"
7
, nó mở rộng qui mô sản xuất, làm cho sản xuất có nhiều hình,
nhiều vẻ và mang tính toàn cầu hóa.
Phát triển đội ngũ thương nhân chịu ảnh hưởng rất lớn của quá trình biến
đổi cơ cấu các ngành sản xuất; ngược lại, xuất phát từ đòi hỏi của nhu cầu
trong nước và thị trường thế giới, từ khả năng phát huy lợi thế so sánh của
hàng hoá nước ta trên thị trường qu
ốc tế mà hoạt động thương mại của
thương nhân lại tác động mãnh mẽ đến cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển
các ngành nghề, đổi mới mặt hàng và nâng cao chất lượng hàng hoá nhằm
tăng tính cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường.
Phát triển đội ngũ thương nhân trên địa bàn nông thôn sẽ tạo thêm công ăn
việc làm, góp phần tạo thêm lực lượng lao động mới có khả năng và trình
độ
đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế hạn
chế việc di cư vào thành phố để tìm việc làm như hiện nay.
2. Đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển đội ngũ
thương nhân trên địa bàn nông thôn
Nghị quyết Trung ương 9 (khóa IX) lần đầu tiên đã nêu yêu cầu xây dựng
đội ngũ doanh nhân(trong đó có thương nhân) cùng với giai cấp công nhân,
nông dân, trí thức, coi
đó là những lực lượng quan trọng trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Chính phủ đã khẳng định doanh nhân là đội quân
chủ lực, xung kích trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Sự quan tâm của
Chính phủ đối với doanh nghiệp, sự nhìn nhận về mặt pháp lý, về mặt xã
hội đối với doanh nhân trong thời gian qua đã tạo cho đội ngũ doanh nhân
Việt Nam những niềm tin và chỗ dựa vững chắc.
Có thể nói quyết định của Chính phủ lấy ngày 13 tháng 10 hằng năm (ngày
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho giới Công thương, năm 1945) làm Ngày

Doanh nhân Việt Nam, đã cho thấy Đảng và Nhà nước đã thấy rõ vai trò to
lớn của cộng đồng doanh nhân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất
nước và đã tôn vinh cộng đồng các doanh nhân của đất nước xứng đáng
với vai trò và đóng góp của họ cho đất nước. Cùng vớ
i sự tôn vinh đó, cả
dân tộc ta đang đặt lên vai cộng đồng các doanh nhân Việt Nam nhiệm vụ
rất nặng nề trên mặt trận xây dựng và kiến thiết đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


7
C.Mác, F.Anghen, Tuyển tập - tập 2

26
Đối với địa bàn nông thôn, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa IX) đã ra Nghị quyết về đẩy nhanh CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010. Với những nội dung chủ yếu: -
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn,
gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướ
ng tăng nhanh tỉ trọng giá trị sản phẩm và lao động các
ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỉ trọng sản phẩm và lao động nông
nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông
thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh,
không ngừng nâng cao đời sống vậ
t chất và văn hóa của nhân dân ở nông
thôn.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển đội ngũ thương nhân trên địa
bàn nông thôn. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong việc cấp đất, hỗ trợ,

khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển nhiều loại hình dịch vụ ở
nông thôn để tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho nông dân.
Kinh tế tư nhân là lực lượ
ng quan trọng có khả năng thu hút vốn và nhiều
lao động để phát triển sản xuất, kinh doanh ngành nghề đa dạng, tăng năng
lực chế biến, tiêu thụ nông sản, làm dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống ở
nông thôn. Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, hướng dẫn kinh tế
tư nhân phát triển.
Khuyến khích, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển kinh tế hợ
p tác và HTX
trên cơ sở liên kết, hợp tác tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi. HTX tập
trung làm dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp; tổ chức thực
hiện tốt việc quy hoạch, hướng dẫn nông dân ứng dụng khoa học, công nghệ
mới, chuyển đổi cơ cấu sản xuất; liên kết với doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế để bán vật tư, tiêu thụ nông sản hàng hóa cho nông dân. Nhà
n
ước hỗ trợ HTX đào tạo cán bộ; có chính sách thuế phù hợp đối với các
hoạt động dịch vụ. Phát triển các quỹ tín dụng nhân dân ở xã để phục vụ
phát triển nông nghiệp, nông thôn. DNNN tập trung thực hiện những việc
mà các thành phần kinh tế khác chưa làm được; hỗ trợ các thành phần kinh
tế khác cùng phát triển. Tổ chức sắp xếp lại hệ thống DNNN, để DNNN
thực hiện tốt vai trò nòng c
ốt trong kinh doanh lúa gạo, phân bón, phát triển
chế biến nông, lâm, thủy sản quy mô lớn, kỹ thuật cao và liên kết kinh tế có
hiệu quả với các hộ nông dân, HTX sản xuất nguyên liệu; giữ vai trò chủ

27
yếu trong việc thực hiện các nhiệm vụ công ích. Đối với khu vực miền núi,
DNNN phải đi đầu trong việc hỗ trợ sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông,
lâm, thủy sản; làm tốt việc xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng ở các địa

bàn quan trọng.
Thực hiện tốt sự liên kết giữa các khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ và giữa
các thành phần kinh tế; tạo đ
iều kiện để nông dân và HTX mua cổ phần của
các doanh nghiệp, tham gia cổ phần ngay từ đầu với các doanh nghiệp;
khuyến khích doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ký hợp đồng với
nông dân (qua các hợp tác xã); hỗ trợ vốn, chuyển giao kỹ thuật, tiêu thụ
sản phẩm do nông dân làm ra với giá cả hợp lý.
Nhà nước hỗ trợ một phần và có chính sách thích hợp huy động các nguồn
vốn để đầu tư phát tri
ển kết cấu hạ tầng phục vụ thương mại (bến cảng, kho
tàng, chợ bán buôn, bán lẻ ); tăng cường thông tin thị trường, xúc tiến
thương mại, tổ chức quản lý chất lượng, xây dựng và bảo vệ thương hiệu
hàng hóa của Việt Nam; khuyến khích hình thành các hiệp hội ngành hàng,
các quỹ hỗ trợ xuất khẩu nông, lâm, thủy sản.
Đường lối Đổi mới của Đảng ta trong nhữ
ng năm qua đã mang lại những
thành tựu to lớn, từ một nền nông nghiệp tự cấp tự túc, lạc hậu vươn lên trở
thành một nền nông nghiệp hàng hoá, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia
và có tỷ suất hàng hoá ngày càng lớn, có vị thế đáng kể trong khu vực và
thế giới. Nước ta đã trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về
xuất khẩ
u 4 mặt hàng : gạo, cà phê, điều, hạt tiêu. Có được những thành tựu
trên đây là có sự đóng góp rất lớn của đội ngũ thương nhân.
3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển đội ngũ
thương nhân trên địa bàn nông thôn và bài học kinh nghiệm
cho Việt nam.
3.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc
Giống như Việt Nam, Trung Quốc đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
trải qua nhữ

ng thăng trầm của công cuộc đổi mới. Mục tiêu phát triển nền
kinh tế thị trường theo hướng cải cách và mở cửa là con đường đúng đắn đã
đưa đất nước Trung hoa thành công và phát triển vượt bậc trong những năm
qua. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc phát triển đội ngũ thương
nhân sẽ là bài học quí báu đối với Việt Nam. Việt Nam và Trung Quốc

×