Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.41 KB, 55 trang )

1
mục lục


Trang


Đặt vấn đề


Nội dung chuyên đề


Phần thứ nhất
một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà nớc


I. Khái niệm về NSNN và chính sách tài khoá.
II. Bản chất, chức năng và vai trò của NSNN nói chung, của Hà
Giang nói riêng trong sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội .

III. Quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta về chính sách động
viên tài chính nói chung và thuế nói riêng cho ngân sách
Nhà nớc.


Phần thứ hai
tình hình về tự nhiên- kinh tế-xã hội và thc trạng
công tác quản lý sử dụng NSNN tỉnh hà giang





I. Điệu kiện tự nhiên- kinh tế-xã hội của tỉnh Hà Giang.
II. Thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN tỉnh Hà Giang
1997- 1999.

III. Đánh giá tình hình công tác quản lý thu thuế trong mấy
năm qua.


Phần thứ ba
phơng hớng và những giải pháp chủ yếu để nâng cao
công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh hà giang




I. Phơng hớng, mục tiêu chung.
II. Những giải pháp chung chủ yếu để nâng cao công tác quản
lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang


Kiến nghị và kết luận.

I. Kiến nghị
II. Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo




2
đặt vấn đề

1. Sự cần thiết của đề tài.
Trong hệ thống tài chính của mỗi quốc gia thì NSNN có vị trí
quan trọng đặc biệt, nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính và có
ý nghĩa quyết định trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nớc, thực hiện CNH,
HĐH đất nớc, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng
xã hội chủ nghĩa thì đòi hỏi có khối lợng vốn vô cùng lớn và phát triển
bền vững. Muốn vậy phải có chính sách tài chính quốc gia tiên tiến phù
hợp, trong đó NSNN là một tong những công cụ quan trọng nhất. Thông
qua công cụ NSNN thực hiện phân phối lần đầu và phân phối lại thu nhập
quốc dân, nhờ đó tập trung một phần quan trọng thu nhập quốc dân vào
NSNN, đảm bảo nguồn vốn cho tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế.
NSNN là công cụ để thực hiện tích luỹ và tập trung vốn, phân phối
và sử dụng vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nớc, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, từng bớc làm thay đổi cơ cấu nền
kinh tế theo hớng đi lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
NSNN giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu
chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. NSNN còn cung cấp
kinh phí cho hoạt động của các lĩnh vực không sản xuất vật chất, duy trì
hoạt động của bộ máy Nhà nớc, giữ ổn định tình hình kinh tế - xã hội,
phấn đấu xây dựng một nền kinh tế phát triển theo hớng CNH, HĐH.
Vì vậy cần phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai trò của
NSNN, trên cơ sở đó tiến hành đổi mới các hoạt động của NSNN cho phù
hợp với điều kiện nền kinh tế thị trờng hiện nay, nhằm đảm bảo nguồn
vốn đáp ứng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc.

Hà Giang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc, có nhiều
tiềm năng thế mạnh. Tuy nhiên cho đến nay vẫn là một tỉnh nghèo nhất
của nớc ta. Điều đó đợc thể hiện rõ nhất trên các mặt kinh tế, xã hội,
3
về các cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là kết cấu hạ tầng, về lực lợng
sản xuất và NSLĐ... đang yếu kém và lạc hậu. Với tình trạng đó thì cha
thể đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH nền kinh tế của tỉnhvà đồng thời cũng
gặp khó khăn trong việc cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân các dân
tộc trong tỉnh. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đó là
Hà Giang còn quá thiếu nguồn vốn vật chất. Vì vậy, để giải quyết mâu
thuẫn trên đây cần phải tiến hành đồng bộ nhiều vấn đề. Một trong những
vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là giải quyết tốt vấn đề ngân sách.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Một số vấn đề về nâng cao công tác quản
lý và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang" để viết luận văn tốt
nghiệp cử nhân chính trị.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phơng pháp và phạm vi của đề tài.
- Mục đích của đề tài: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề về lý luận,
quan điểm của Đảng, thực tiễn của địa phơng để trình bày bản luận văn
tốt nghiệp cử nhân chính trị của mình; đồng thời thông qua sự nghiên cứu
này có thể có đóng góp nhỏ về suy nghĩ của bản thân tôi trong lĩnh vực
quản lý NSNN ở tỉnh Hà Giang.
- Nhiệm vụ của đề tài: Từ mục đích nói trên, đề tài luận văn có các
nhiệm vụ sau:
+ Khái quát một vài nét chung nhất về lý luận của NSNN và vai trò
của NSNN trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của
nớc ta trong TKQĐ lên CNXH.
+ Phân tích, đánh giá những nét lớn về thực trạng kinh tế - xã hội
cũng nh thực trạng quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang hiện nay.
+ Từ hai nhiệm vụ trên, đề tài có nhiệm vụ phải nêu lên đợc
phơng hớng và những giải pháp chủ yếu để quản lý và sử dụng NSNN

của tỉnh Hà Giang tốt hơn trong thời gian tới.
- Phơng pháp của đề tài:
Đề tài này thuộc thể loại nghị luận kinh tế - xã hội. Do đó, trong
quá trình nghiên cứu và thể hiện, luận văn coi trọng phơng pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng
4
thời bám sát vào quan điểm đờng lối của Đảng, chính sách của Nhà
nớc trong lĩnh vực của đề tài nêu ra.
Để thể hiện đề tài, luận văn còn sử dụng tổng hợp phơng pháp
phân tích, thống kê, tổng hợp từ tình hình và các số liệu của thực tiễn, để
từ đó rút ra những nhận xét có căn cứ. Luận văn còn coi trọng tính kế
thừa có chọn lọc thành quả của những công trình, những tác giả đã
nghiên cứu vấn đề này.
- Phạm vi của đề tài:
Vấn đề quản lý và sử dụng NSNN là một vấn đề rộng lớn, khó
khăn và phức tạp, đặc biệt là đối với những địa phơng nh Hà Giang
nền kinh tế còn ở trình độ thấp và phát triển chậm. Tuy nhiên, trong
khuôn khổ có mức độ của luận văn cử nhân chính trị, đề tài chỉ giới hạn
ở phạm vi nghiên cứu công tác quản lý và sử dụng NSNN ở một địa
phơng - đó là tỉnh Hà Giang. Trong đó tập trung làm rõ thực trạng của
quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh và qua đó nêu lên một số giải pháp để
thực hiện quản lý tốt hơn NSNN của tỉnh. Đề tài không đủ điều kiện để
nghiên cứu và thể hiện hết mọi khía cạnh của đề tài nói trên.
3. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần đặt vấn đề, kiến nghị và kết luận, nội dung của luận
văn gồm cả 3 phần chính sau đây:
Phần thứ nhất: Một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà
nớc (NSNN).
Phần thứ hai: Tình hình cơ bản về tự nhiên - kinh tế - xã hội và
thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang.

Phần thứ ba: Phơng hớng và những giải pháp chủ yếu để nâng
cao công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang.



5
Nội Dung Luận Văn
Phần thứ nhất
Phần thứ nhấtPhần thứ nhất
Phần thứ nhất


Một số vấn đề lý luận chung về
ngân sách Nhà nớc (NSNN )

I. Khái niệm về NSNN và chính sách tài khoá.
1. Ngân sách Nhà nớc .
a. Khái niệm NSNN:
Thuật ngữ "NSNN " có từ lâu và ngày nay đợc dùng phổ biến
trong đời sống kinh tế - xã hội và đợc diễn đạt dới nhiều góc độ khác
nhau. Song quan niệm NSNN đợc bao quát nhất cả về lý luận và thực
tiễn của nớc ta hiện nay là:
NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nớc trong dự toán
đã đợc cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền quyết định và đợc thực hiện
trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nớc.
Trong thực tế nhìn bề ngoài, hoạt động NSNN là hoạt động thu chi
tài chính của Nhà nớc. Hoạt động đó đa dạng, phong phú, đợc tiến
hành hầu hết trên các lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế - xã hội.
Tuy đa dạng, phong phú nh vậy, nhng chúng có những đặc điểm chung:
Các hoạt động thu chi của NSNN luôn luôn gắn chặt với quyền lực

kinh tế - chính trị của Nhà nớc, đợc Nhà nớc tiến hành trên cơ sở
những luật lệ nhất định. Đằng sau những hoạt động thu chi tài chính đó
chứa đựng nội dung kinh tế - xã hội nhất định và chứa đựng các quan hệ
kinh tế, quan hệ lợi ích nhất định. Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích
quốc gia, lợi ích chung bao giờ cũng đợc đặt lên hàng đầu và chi phối
các mặt lợi ích khác trong thu, chi ngân sách Nhà nớc.
Quá trình thực hiện các chỉ tiêu thu, chi NSNN nhằm hình thành
quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nớc và là quá trình phân phối và phối lại
6
giá trị tổng sản phẩm xã hội phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nớc trên các lĩnh vực, trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Nh vậy, chúng ta thấy rằng thu, chi của NSNN hoàn toàn không
giống bất kỳ một hình thức thu chi của một loại quỹ nào. Thu của NSNN
phần lớn đều mang tính chất bắt buộc, còn các khoản chi của NSNN lại
mang tính chất không hoàn lại. Đây là đặc trng nổi bật của NSNN trong
bất cứ một Nhà nớc nào. Xuất phát từ quyền lực của Nhà nớc và các
nhu cầu về tài chính để thực hiện chức năng quản lý và điều hành của
Nhà nớc đối với nền kinh tế - xã hội. Do nhu cầu chi tiêu của mình, Nhà
nớc đã sử dụng quyền lực thông qua hệ thống pháp luật tài chính buộc
mọi pháp nhân và thể nhân phải đóng góp một phần thu nhập của mình
cho NSNN, tức là các chủ thể kinh tế thực hiện nghĩa vụ của mình với
Nhà nớc. Sự bắt buộc đó là hoàn toàn khách quan, vì lợi ích của toàn xã
hội chứ không phải phục vụ cho lợi ích riêng của Nhà nớc. Các đối
tợng nộp thuế cũng hoàn toàn ý thức đợc nghĩa vụ của mình trong
việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Nhà nớc. Họ cũng hiểu đợc
vai trò của Nhà nớc trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm
thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội, do nhân dân giao phó. Sự tồn tại
và hoạt động của Nhà nớc chính là yếu tố quyết định tính chất hoạt
động của NSNN, nói lên bản chất của NSNN. Mọi hoạt động của NSNN
đều nhằm vào việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính, nó phản

ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nớc và các chủ thể trong xã
hội, phát sinh do Nhà nớc tạo lập thông qua NSNN. Đó là mối quan hệ
kinh tế giữa phần nộp vào NSNN và phần để lại cho các chủ thể kinh tế
trong xã hội. Phần nộp vào ngân sách sẽ tiếp tục đợc phân phối lại nhằm
thực hiện các chức năng của Nhà nớc và phục vụ cho các nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội.
Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nớc có thể sử dụng các công
cụ sẵn có để bắt buộc mỗi thành viên trong xã hội cung cấp cho mình các
nguồn lực tài chính cần thiết. Song cơ sở tạo lập các nguồn lực tài chính
xuất phát từ sản xuất, mà chủ thể của sản xuất chính là các thành viên
trong xã hội. Mọi thành viên đều có lợi ích kinh tế và đấu tranh bảo vệ
lợi ích kinh tế đó, nghĩa là thông qua quyền lực của mình, Nhà nớc sử
7
dụng các công cụ, chính sách giải quyết hài hoà giữa lợi ích Nhà nớc và
lợi ích của các thành viên trong xã hội. Do vậy muốn có NSNN đúng
đắn, lành mạnh thì phải tôn trọng và vận dụng các quy luật kinh tế một
cách khách quan, phải dựa trên cơ sở đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà
nớc và lợi ích cho các thành viên trong xã hội. Một NSNN lớn mạnh
phải đảm bảo sự cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất kinh
doanh, bao quát hết toàn bộ các nguồn thu, nuôi dỡng nguồn thu để đáp
ứng nhu cầu chi ngày càng tăng.
Nh vậy bản chất của NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế
giữa Nhà nớc và các thành viên trong xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà
nớc huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính, nhằm đảm bảo thực
hiện các chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế, xã hội của Nhà nớc.
Chức năng đầu tiên của NSNN là chức năng phân phối. Bất kỳ một
Nhà nớc nào, muốn tồn tại và duy trì đợc các chức năng của mình,
trớc hết phải có nguồn lực tài chính. Đó là các khoản chi cho bộ máy
quản lý Nhà nớc, cho lực lợng quân đội, cảnh sát, cho nhu cầu văn
hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, chi cho đầu t phát triển v.v... Nhng

muốn tạo lập đợc NSNN, trớc hết phải tập hợp các khoản thu theo luật
định, cân đối chi tiêu theo tiêu chuẩn định mức đúng với chính sách hiện
hành. Đó chính là sự huy động các nguồn lực tài chính và đảm bảo nhu
cầu chi tiêu theo kế hoạch của Nhà nớc, thực hiện việc cân đối thu chi
bằng tiền của Nhà nớc.
Chức năng thứ hai của NSNN là giám đốc quá trình huy động các
khoản thu và thực hiện các khoản chi. Thông qua chức năng này, NSNN
kiểm tra, giám sát quá trình động viên các nguồn thu, tránh tình trạng
trốn lậu thuế, chây ỳ nộp thuế của các đối tợng thực hiện nghĩa vụ nộp
NSNN hoặc bị lạm dụng, làm trái pháp luật, coi thờng pháp luật và các
chính sách động viên khác. Trong khâu cấp phát nếu buông lỏng việc
kiểm tra, kiểm soát chi thì dễ dẫn đến tình trạng làm sai luật định và các
chế độ chi quy định. Đồng thời thông qua kiểm tra, kiểm soát hoạt động
thu chi NSNN giúp ta giám sát việc chấp hành các chế độ, chính sách của
Đảng và Nhà nớc. Thông qua đó đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu quả
8
xã hội của vốn NSNN, hiệu quả của các chủ trơng, chính sách, chế độ
do Đảng và Nhà nớc đề ra.
Nh vậy, hai chức năng phân phối và giám đốc luôn có mối quan
hệ mật thiết với nhau, có vị trí và tầm quan trọng nh nhau, không thể
coi chức năng này hơn chức năng kia, mà phải coi trọng cả hai chức năng
ở mọi lúc, mọi nới trong tạo lập và sử dụng vốn NSNN.
b. Các khoản thu huy động vào NSNN và chi NSNN.
* Các khoản thu NSNN.
- Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí.
Đây là các khoản thu bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của các doanh
nghiệp, các tổ chức và công dân do những yêu cầu tất yếu về kinh tế -
chính trị - xã hội để bảo đảm các hoạt động của bộ máy Nhà nớc, giữ
vững quốc phòng, an ninh và bảo đảm các sự nghiệp xã hội.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nớc.

Đây là các quan hệ thu thực hiện lợi ích kinh tế các loại tài sản và
vốn bằng tiền thuộc sở hữu toàn dân giao cho Nhà nớc quản lý và cho
phép các chủ thể trong nền kinh tế sử dụng. Các quan hệ này cũng là bắt
buộc, nhng dựa trên các yếu tố kinh tế là đảm bảo cho chủ sở hữu thực
hiện đợc lợi ích kinh tế, quyền sở hữu các loại tài sản đa vào quá trình
sản xuất xã hội. Những ai sử dụng nhiều tài sản của Nhà nớc vào mục đích
kinh doanh trên các địa bàn và những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao thì
phải đóng góp nhiều vào NSNN.
Trình độ xã hội hóa càng cao, quy mô sở hữu càng lớn thì nguồn
thu tập trung vào NSNN và những nguồn lực tài chính cũng càng nhiều.
Thực hiện thu đúng, thu đủ từ các hình thức này không chỉ đảm
bảo nguồn lực tài chính cho Nhà nớc, mà còn là hình thức cụ thể thực
hiện quản lý chặt các tài sản thuộc sở hữu Nhà nớc để bảo tồn và phát
triển chế độ sở hữu toàn dân.
- Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân thuộc đối tợng
phải đóng góp theo luật định.
9
- Các khoản viện trợ: Hình thức chủ yếu là viện trợ không hoàn lại,
của các tổ chức, các tổ chức phi chính phủ của các nớc và quốc tế.
Nguồn thu này chủ yếu phụ thuộc vào đờng lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nớc. Đây là nguồn thu nhất thời, không ổn định, không tính toán
trớc một cách chính xác.
- Các khoản do Nhà nớc vay để bù đắp bội chi đợc đa vào cân
đối NSNN.
Khoản thu này đợc thực hiện thông qua quan hệ tín dụng Nhà
nớc trong nớc và quốc tế để sử dụng vào mục đích đầu t phát triển
kinh tế. Đây là nguồn thu không thuộc quyền sở hữu Nhà nớc, đến kỳ
hạn Nhà nớc phải thanh toán. Vì vậy, việc sử dụng hình thức này đòi hỏi
các tổ chức Nhà nớc phải tính toán nhu cầu đầu t, hiệu quả kinh tế - xã
hội của công trình và khả năng thu hồi vốn để trả nợ.

- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
* Các khoản chi lấy từ NSNN.
Chi NSNN là một hệ thống các quan hệ rất đa dạng, phức tạp, bao gồm:
- Các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội.
- Các khoản chi bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động
của bộ máy Nhà nớc.
Đây là những khoản chi bắt buộc trong NSNN của mọi quốc gia
nhằm để giữ vững an ninh tổ quốc, ổn định chính trị - xã hội.
Quy mô khoản chi này tuỳ thuộc vào việc xác định chức năng
nhiệm vụ và tổ chức bộ máy Nhà nớc xuất phát từ tình hình kinh tế -
chính trị - xã hội ở trong nớc và quốc tế. Trên cơ sở xác định quy mô
chi tiêu cần thiết cho lĩnh vực này, tiến hành phân bổ các loại thuế trực
thu và gián thu, thông qua thực thu các sắc thuế mà bảo đảm nguồn lực
tài chính đầy đủ cho nhu cầu này.
- Các khoản chi trả nợ củ Nhà nớc: Tuỳ theo mức độ bội chi của
ngân sách, quy mô và các điều kiện tín dụng Nhà nớc về thời hạn trả nợ
và mức lãi suất mà khoản chi này có tỷ lệ cao hay thấp trong tổng chi
NSNN. ở nớc ta hiện nay, do hậu quả của việc quản lý vốn vay cha
10
tốt, để thất thoát lớn và việc sử dụng hiệu quả thấp, cho nên nợ nớc
ngoài tồn đọng rất lớn, cho nên chi trả nợ nớc ngoài đang là vấn đề căng
thẳng. Khả năng trả nợ thấp, tuy nhiên chúng ta vẫn phải đảm bảo uy tín
trong quan hệ quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần khống chế
nhu cầu chi tiêu trong nớc để dành tiền trả nợ.
Đối với vay từ nguồn trong nớc dới nhiều hình thức, trong đó
chủ yếu là hình thức tín phiếu kho bạc Nhà nớc ngắn hạn và tín phiếu
dài hạn để huy động vốn trong dân vào nhu cầu đầu t. Hớng chủ yếu
của tín dụng Nhà nớc là các khoản vay dài hạn đầu t phát triển kinh tế.
Nhng hình thức này chỉ phát triển trong điều kiện sức mua đồng tiền ổn
định và lãi suất hợp lý đem lại lợi ích ngời cho vay, đồng thời đảm bảo

cho Nhà nớc thanh toán đợc nợ.
- Các khoản chi dự trữ Nhà nớc (từ 3 - 5% tổng số d). Đây là
khoản dự phòng cho những nhu cầu đột xuất bất trắc có thể xảy ra trong
khi thực hiện nhiệm vụ của Nhà nớc.
- Các khoản chi viện chợ và các khoản chi khác theo quy định của
pháp luật.
NSNN bao gồm hai cấp: Trung ơng và địa phơng. Quan hệ giữa
hai cấp này đợc thực hiện theo nguyên tắc chủ yếu là phân định nguồn
thu và nhiệm vụ chi cụ thể; thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dới để bảo đảm sự cân bằng, phát triển cân đối và thực
hiện đợc nhiệm vụ của các vùng, các địa phơng.
NSNN đợc cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí
phải lớn hơn tổng số chi thờng xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng
cao vào đầu t phát triển. Nếu có bội chi thì số bội chi đó phải nhỏ hơn
chi đầu t phát triển, tiến tới cân bằng thu - chi ngân sách. Nếu có vay
để bù đắp bội chi NSNN thì phải trên nguyên tắc tiền vay đợc không sử
dụng cho tiêu dùng mà chỉ sử dụng vào mục đích phát triển và có kế
hoạch thu hồi vốn vay để đảm bảo cân đối ngân sách, chủ động trả nợ
đến hạn. Ngân sách địa phơng đợc cân đối theo quy tắc: tổng số chi
không đợc vợt quá tổng số thu...

11
2. Chính sách tài khoá.
Chính sách tài khoá là chính sách của Nhà nớc trong việc huy
động các nguồn thu vào NSNN và sử dụng nó trong hạn nhất định
(thờng là 1 năm).
Chính sách tài khoá có tác động đến sản lợng thực tế, đến kiềm
chế lạm phát và tình trạng thất nghiệp; có tác động đến điều chỉnh nền
kinh tế, cơ cấu kinh tế. Mục tiêu của chính sách tài khoá là bảo đảm các
nguồn lực tài chính, tạo môi trờng và điều kiện cho phát triển kinh tế -

xã hội. Để đạt đợc mục tiêu đó, chính sách tài khoá cần xử lý nhiều mối
quan hệ, trong đó giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn chủ yếu sau đây
là nội dung cốt lõi của chính sách tài khoá:
+ Mâu thuẫn thu - chi NSNN. Đây là mâu thuẫn vốn có của bất kỳ
một quốc gia nào, đặc biệt gay gắt đối với các nớc kém phát triển. Xuất
phát của mâu thuẫn này là do chi tiêu của Nhà nớc lớn, trong khi nguồn
thu bị hạn chế. Vì vậy, cần có những biện pháp tích cực để khống chế
nhu cầu chi của Nhà nớc. Đồng thời tích cực thu đúng, thu đủ, tận dụng
các nguồn thu.
Để thực hiện cân đối thu - chi, cần giữ vững 2 đối cân đối chủ yếu:
Một là, thu từ các loại thuế trực thu và gián thu phải bảo đảm nhu
cầu chi thờng xuyên của bộ máy Nhà nớc, quốc phòng, an ninh...
Hai là, quy mô đầu t phát triển kinh tế - xã hội phải tơng ứng với
tổng số thu từ thực hiện lợi ích kinh tế các tài sản thuộc sở hữu Nhà nớc
và các nguồn lực huy động đợc trong nớc và ngoài nớc thông qua tín
dụng dài hạn.
+ Mâu thuẫn giữa tập trung vào NSNN với tích luỹ trong các cơ sở
kinh doanh. Vì vậy chính sách tài khoá cần giải quyết tốt mâu thuẫn này,
đó là yêu cầu khách quan của phát triển kinh tế - xã hội.
Mâu thuẫn này hiện nay ở nớc ta đang gay gắt, biểu hiện ở chỗ
tốc độ tăng thu vào NSNN năm sau cao hơn năm trớc và lớn hơn nhiều
lần so với tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân, trong khi tình trạng thất
thu từ thuế còn lớn.
12
+ Mẫu thuẫn giữa tăng trởng kinh tế với việc thực hiện công bằng
xã hội. Nguyên nhân của mâu thuẫn này: từ một mặt NSLĐ xã hội còn
thấp kém, muốn tăng trởng thì phải tích luỹ, do đó tiêu dùng bị hạn chế,
không giải quyết đúng mức những vấn đề xã hội cấp bách. Nếu ngợc lại
thì không đảm bảo thực hiện đợc mục tiêu kinh tế. Mặt khác, do phát
triển kinh tế theo cơ chế thị trờng, sẽ dẫn tới phân hoá giàu nghèo là

không tránh khỏi. Vì vậy, để giải quyết mâu thuẫn trên, chính sách tài
khoá phải thể hiện nội dung điều tiết thu nhập sao cho hợp lý.
II. Bản chất, chức năng và vai trò của NSNN nói chung, của
Hà Giang nói riêng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
1. Bản chất và chức năng của NSNN nói chung.
Nh trên đã trình bày, NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của
Nhà nớc, là công cụ vật chất quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế -
xã hội. Cho nên có thể nói chức năng và nhiệm vụ cơ bản của NSNN là
động viên hợp lý các nguồn thu (đặc biệt là thuế, phí, lệ phí). Đồng thời
tổ chức và quản lý chi tiêu NSNN, thực cân đối thu - chi. Tóm lại, NSNN
có các chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Một là, chức năng phân phối NSNN.
Bộ máy Nhà nớc muốn thực hiện đợc sự hoạt động của mình
một cách bình thờng và ổn định để thực hiện tốt các chức năng, nhiệm
vụ là quản lý mọi mặt của đời sống xã hội của một quốc gia thì nhất thiết
phải có nguồn NSNN đảm bảo.
Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nớc sử dụng các công cụ,
các biện pháp bắt buộc các thành viên trong xã hội cung cấp cho mình
các nguồn lực tài chính cần thiết. Nhng cơ sở để hình thành nguồn lực
tài chính đó là từ sự phát triển kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh. Vì
vậy, muốn động viên đợc nguồn thu NSNN ngày càng tăng và có hiệu
quả thì nền kinh tế nói chung, sản xuất kinh doanh nói riêng phải đợc
phát triển với tốc độ nhanh, bền vững và có hiệu quả cao. Vì vậy, Nhà
nớc trong quá trình quản lý kinh tế - xã hội phải nắm đợc quy luật kinh
tế và tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan. Đồng thời phải bảo đảm
hài hoà các quan hệ lợi ích của các chủ thể của nền kinh tế.
13
Một NSNN vững mạnh là một ngân sách mà cơ chế phân phối của
nó đảm bảo đợc sự cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất
kinh doanh nuôi dỡng nguồn thu, trên cơ sở đó tăng đợc thu để đáp

ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nớc ngày càng tăng lên.
Mặt khác, một NSNN vững mạnh còn phải thể hiện việc phân phối
và quản lý chi đúng đắn, hợp lý và hiệu quả. Nhà nớc sử dụng khối
lợng tài chính từ nguồn NSNN để chi tiêu vào mục đích phát triển kinh
tế - xã hội và chi tiêu cho sự hoạt động của bộ máy Nhà nớc. Nh vậy,
chức năng của NSNN, ngoài việc động viên nguồn thu thì còn phải thực
hiện quản lý và phân phối chi tiêu sao cho có hiệu quả. Đó cũng là một
tất yếu khách quan.
Từ sự phân tích trên đây, ta có thể hiểu đợc bản chất của NSNN -
đó là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nớc với các thành viên
trong xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nớc huy động và sử dụng
các nguồn lực tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện trong các chức
năng quản lý và điều hành nền kinh tế - xã hội của Nhà nớc. Hoạt động
của NSNN luôn luôn gắn liền với thực hiện các chức năng của Nhà nớc.
Hai là, chức năng giám đốc quá trình huy động các nguồn thu và
thực hiện các khoản chi tiêu.
Thực hiện chức năng này, Nhà nớc thông qua NSNN để biết đợc
nguồn thu - chi nào là cơ bản của từng thời kỳ, từng giai đoạn và do đó
có những giải pháp để làm tốt thu - chi. Nhà nớc định ra cơ cấu thu- chi
hợp lý ; theo dõi các phát sinh và những nhân tố ảnh hởng đến thu- chi...
Tóm lại, NSNN có hai chức năng cơ bản- chức năng phân phối và
chức năng giám đốc. NSNN không thể cân đối đợc nếu nh không thực
hiện đầy đủ hai chức năng đó, bởi vì: nếu không có sự giám đốc trong
việc động viên khai thác hợp lý các nguồn thu và do đó sẽ dẫn đến tình
trạng thất thu dới nhiều hình thức. Nếu không thực hiện tốt chức năng
phân phối thì cũng không thể động viên đợc nguồn thu cho NSNN.
Chức năng phân phối và chức năng giám đốc của NSNN đều có vị
trí và tầm quan trọng của nó. Do đó, cần phải coi trọng cả hai chức năng
đó và tổ chức chỉ đạo để các cơ quan chức năng thực hiện tốt hai chức
năng đó của NSNN.

14
2. Quan điểm cơ bản về quản lý và sử dụng NSNN.
Để thực hiện tốt công tác quản lý và sử dụng NSNN, tuỳ theo chức
năng, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành, cần phải quán triệt các quan
điểm sau đây:
+ Trong chính sách tạo vốn của NSNN phải quán triệt t tởng
không tận thu để bao chi, mà phải động viên nguồn thu ngân sách một
cách hợp lý để đáp ứng nhu cầu chi trên cơ sở vừa bồi dỡng và phát
triển nguồn thu, vừa kiểm soát và tập trung khai thác một cách hợp lý và
có hiệu quả các nguồn thu.
+ Thực hiện tốt công tác phân phối và sử dụng vốn NSNN theo
nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả, chấm dứt tình trạng các khoản chi bao
cấp tràn lan của cơ chế cũ trớc đây. Thực hiện phơng châm "Nhà nớc
và nhân dân cùng làm".
+ Thực hiện phơng pháp cân đối ngân sách một cách khoa học để
vừa phát huy tốt các nguồn lực bên trong và tranh thủ cao độ, có hiệu quả
nguồn lực tài chính bên ngoài; vừa phù hợp với pháp luật của Nhà nớc
ta, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế và bảo đảm sự chủ động của NSNN.
+ Đổi mới chế độ phân cấp quản lý NSNN theo hớng giảm bớt
chức năng quản lý kinh tế của chính quyền địa phơng, tránh để tình
trạng phân tán và sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn ngân sách.
+ Ban hành đồng bộ hoá và tiếp tục hoàn thiện luật NSNN. Đồng thời
giáo dục, nâng cao trình độ cho toàn dân, cho các chủ thể của nền kinh tế
cũng nh trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan chức năng trực tiếp
làm công tác quản lý NSNN. Nghiêm chỉnh chấp hành luật NSNN.
3. Vai trò của NSNN trong các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội.
Chúng ta biết rằng, trong cơ chế thị trờng, mọi hoạt động kinh tế,
sản xuất kinh doanh chủ yếu của các thành phần kinh tế, các ngành kinh
tế chủ yếu tuân theo sự điều tiết của các quy luật vốn có của thị trờng.
Nhận thức đợc điều đó, Nhà nớc ta đã có những cơ chế, chính sách hạn

chế sự can thiệp và kiểm soát trực tiếp đối với các hoạt động kinh tế, nhất
là các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nớc ta với chức năng của
mình là thực hiện quản lý hành chính kinh tế bằng các công cụ pháp luật,
15
kế hoạch hoá và các chính sách do Nhà nớc ban hành tuân theo pháp
luật hiện hành do cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội ban hành. Đó
chính là sự đổi mới cơ bản về cơ chế quản lý của Nhà nớc ta: từ chỗ
quản lý, điều hành nên kinh tế một cách trực tiếp đến chỗ quản lý và điều
hành mọi hoạt động kinh tế- xã hội thông qua việc tạo mọi điều kiện,
môi trờng, hành lang (trong đó có cả hành lang pháp lý) để cho nền
kinh tế phát triển vừa tuân theo qui lụt kinh tế khách quan, vừa bảo đảm
sự định hớng XHCN, nhằm nhanh chóng đạt đợc các mục tiêu mà
Đảng ta đã đề ra trong các kỳ đại hội.
Trong tất cả các công cụ để quản lý mọi hoạt động kinh tế- xã hội, Nhà
nớc ta hết sức quan tâm đến công cụ NSNN, vì nó là yếu tố vật chất vô cùng
quan trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN.
Với cơ chế cũ trớc đây, Nhà nớc can thiệp sâu vào hoạt động
kinh tế vi mô. Trong cơ chế mới- cơ chế thị trờng các vấn đề của kinh tế
sẽ đợc giải quyết theo qui luật của thị trờng và các quan hệ cung- cầu.
Nhà nớc chỉ dùng các biện pháp về thuế, các khoản chi ngân sách để
can thiệp nhằm ổn định nên kinh tế và phát triển theo mục tiêu đã định.
Hoạt động của NSNN gắn với hoạt động của nền kinh tế thị
trờng, do đó thu NSNN luôn luôn biến đổi và phụ thuộc vào nhịp độ
phát triển kinh tế và hiệu quả kinh tế. Xu hớng chung là khi nền kinh tế
tăng trởng sẽ làm tăng khả năng tăng khối lợng thu và ngợc lại. Tuy
nhiên, điều cần lu ý ở đây là mức thu NSNN phải gắn với nhịp độ tăng
của nền kinh tế, nếu tận thu quá mức sẽ dẫn tới tình trạng suy thoái do
không kích thích đợc sản xuất và đầu t.
Trong bất kỳ tình huống nào, sức ép chi luôn luôn là gánh nặng
cho NSNN. Đặc biệt là trong giai đoạn đầu khi mà nền kinh tế cha kịp

phát triển, trong khi đó phải nhanh chóng giải quyết nhiều vấn đề bức
xúc của xã hội. Bên cạnh đó chi NSNN còn bị sức ép của tình trạng có
lạm phát cao xẩy ra. Khi có lạm phát cao thì khối lợng ngân sách tăng
chậm hơn nhu cầu chi, vì vậy nếu xử lý không tốt sẽ dẫn đến rối loạn,
gây thiệt hại về nhiều mặt cho nền kinh tế.
Tóm lại, NSNN có vai trò vô cùng quan trọng. Bởi lẽ NSNN có
chức năng huy động nguồn lực tài chính để hình thành các quỹ tiền tệ tập
16
trung, đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nớc. Đồng thời NSNN còn
thực hiện cân đối bằng tiền giữa các khoản thu và các khoản chi tiêu của
Nhà nớc. Đây là vai trò cơ bản của NSNN mà bất kỳ một quốc gia nào
cũng phải thực hiện.
NSNN là một công cụ quản lý quan trọng trong điều chỉnh nền
kinh tế vĩ mô của đất nớc, đặc biệt thể hiện rất rõ trong nền kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Vai trò đó đã đợc thể hiện cụ thể ở
các lĩnh vực sau:
- Về kinh tế: Nhà nớc tạo các môi trờng và điều kiện để xây
dựng cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và
chống độc quyền. NSNN đảm bảo cung cấp kinh phí đầu t xây dựng và
nâng cấp cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp Nhà nớc
thuộc các ngành kinh tế, các lĩnh vực kinh tế then chốt. Trên cơ sở đó
từng bớc làm cho kinh tế Nhà nớc đảm đơng đợc vai trò chủ đạo nền
kinh tế nhiều thành phần.
Mặt khác, trong những điều kiện cho phép thì nguồn kinh phí từ
NSNN cũng có thể đợc sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các
doanh nghiệp thuộc các TPKT khác để các doanh nghiệp đó có cơ sở về
tài chính tốt hơn và do đó có đợc phơng hớng kinh doanh có hiệu quả hơn.
- Về mặt xã hội: Thông qua hoạt động thu, chi NSNN cấp phát
kinh phí cho tất cả các lĩnh vực hoạt động vì mục đích phúc lợi xã hội.
Thông qua công cụ ngân sách, Nhà nớc có thể điều chỉnh các mặt hoạt

động trong đời sống xã hội nh: Thông qua chính sách thuế để kích thích
sản xuất đối với những sản phẩm cần thiết cấp bách, đồng thời có thể hạn
chế sản xuất những sản phẩm không cần khuyến khích sản xuất. Hoặc để
hớng dẫn sản xuất và tiêu dùng hợp lý. Thông qua nguồn vốn ngân sách
để thực hiện hình thức trợ cấp giá đối với các hoạt động thuộc chính sách dân
số, chính sách việc làm, chính sách thu nhập, chính sách bảo trợ xã hội v.v...
- Về thị trờng: Thông qua các khoản thu, chi NSNN sẽ góp phần
bình ổn giá cả thị trờng. Ta biết rằng, trong điều kiện kinh tế thị trờng, sự
biến động giá cả đến mức gây ảnh hởng xấu đến sự phát triển nền kinh tế
có nguyên nhân từ sự mất cân đối cung - cầu. Bằng công cụ thuế và dự trữ
Nhà nớc can thiệp đến quan hệ cung - cầu và bình ổn giá cả thị trờng.
17
Hoạt động thu chi NSNN có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề lạm
phát. Lạm phát là căn bệnh nguy hiểm đối với nền kinh tế. Lạm phát xảy
ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng. Để kiềm chế đợc lạm phát
tất yếu phải dùng các biện pháp để hạ thấp giá, hạ thấp chi phí. Bằng
biện pháp giải quyết tốt thu chi NSNN có thể kiềm chế, đẩy lùi đợc lạm
phát, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
4. Vai trò của NSNN trong việc phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh Hà Giang.
Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới, trình độ dân trí thấp, điều
kiện địa lý phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, lại có nhiều dân tộc cùng
chung sống. Sau chiến tranh giải phóng dân tộc, tỉnh Hà Giang còn chịu
hậu quả nặng nề của 10 năm chiến tranh bảo vệ biên giới. Hầu nh các cơ
sở kinh tế đều bị tàn phá nặng nề, đời sống vật chất, tinh thần của đồng
bào các dân tộc hết sức khó khăn. Tháng 10/1991 khi tách tỉnh, kết cấu hạ
tầng hầu nh không có gì. Trong những năm qua đợc sự quan tâm giúp
đỡ của Trung ơng, nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang đã khắc phục khó
khăn, từng bớc ổn định đời sống, phát triển sản xuất. Đạt đợc những
thành tích đó, ngoài sự lãnh chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nớc từ

Trung ớng đến cơ sở, còn có các nhân tố khác, trong đó có vai trò của
NSNN. Nhờ có nguồn thu NSNN mới đảm bảo chi thờng xuyên cho sự
hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nớc, các đoàn thể và các cơ quan
hành chính sự nghiệp, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng. Nhờ
có NSNN mà phần nào đã đáp ứng đợc nhu cầu các khoản chi cấp bách,
đặc biệt là chi cho đầu t phát triển chiếm tỷ lệ khá cao trong chi ngân
sách. Nhờ đó mà hiện nay ở Hà Giang nhiều cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hoá
xã hội đã và đang đợc xây dựng, tu bổ, nâng cấp và đa vào sử dụng.
Trong nông nghiệp, chi NSNN tập trung cho việc ứng dụng khoa
học- kỹ thuật vào sản xuất, đầu t để tạo điều kiện thực hiện chuyển dịch
cơ cấu cây trồng vật nuôi và cơ cấu mùa vụ v.v... Chẳng hạn đầu t cho
việc lai tạo giống cây con cho năng suất cao. Tuy lâm nghiệp đã chú ý
đầu t để đẩy mạnh trồng mới rừng, bảo vệ và tái sinh rừng, phát triển
mô hình rừng trang trại, vờn rừng, theo phơng thức lâm-nông kết hợp.
18
Trong lĩnh vực văn hoá- xã hội: NSNN đã dành một tỷ lệ thích
đáng cho đầu t xây dựng và phát triển các cơ sở vật chất- kỹ thuật cho
lĩnh vực giáo dục đào tạo, hệ thống trờng chuyên, lớp chọn, trờng dân
tộc nội trú, trờng cao đẳng s phạm. Mặc dù nguồn thu ngân sách còn
hạn chế, nhng tỉnh cũng rất quan tâm đầu t cho lĩnh vực y tế và dân số
kế hoạch hoá gia đình. Cụ thể là đầu t nâng cấp cải tạo các cơ sở khám
chữa bệnh, tạo điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân đợc tốt hơn.
Ngoài ra NSNN còn thực hiện một loạt các chơng trình khác nh:
củng cố mở rộng nâng cấp các đờng giao thông liên huyện, liên xã, đầu
t để xây dựng đờng dây, trạm biến áp để đa điện lới quốc gia về các
huyện vùng cao. Đầu t xây dựng các cơ sở phát thanh, truyền hình, bu
điện... để đáp ứng nhu cầu đời sống văn hoá, tinh thần cho các dân tộc
trong tỉnh. Đồng thời cũng nhằm tạo các phơng tiện tuyên truyền đờng
lối chính sách của Đảng và Nhà nớc, để nhân dân các dân tộc hiểu rõ
đờng lối, chủ trơng của Đảng và Nhà nớc trên tất cả các mặt của đời

sống xã hội, để họ có sự tin tởng và tự giác thực hiện.
Đối với lĩnh vực thu NSNN: thông qua các hình thức hoạt động thu
NSNN mà đã động viên đợc ngày càng nhiều hơn, tốt hơn nguồn lực tài
chính cho địa phơng. Sự động viên đó, một mặt đảm bảo nguồn thu,
tránh thất thu cho NSNN, nhng đồng thời cũng qua đó thực hiện sự bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ đóng góp của nhân dân, của các chủ thể kinh
tế, các TPKT trong tỉnh.
Tóm lại, NSNN có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển
kinh tế - xã hội nói chung. Đối với tỉnh Hà Giang thì vai trò NSNN lại
càng đặc biệt quan trọng. Nhờ có nguồn thu NSNN mà đã tạo điều kiện
về nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế -
xã hội, đảm bảo kinh phí chi tiêu cho các hoạt động của bộ máy chính
quyền và các tổ chức Đảng, đoàn thể, các lực lợng vũ trang an ninh...
Tuy nhiên, hiện nay NSNN của tỉnh còn hết sức nhỏ bé, cha đáp
ứng nhu cầu nói trên. Do đó, chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu để tìm
ra phơng hớng và giải pháp phù hợp, nhằm thực hiện công tác NSNN
tỉnh Hà Giang.

19
Phần thứ hai
Phần thứ haiPhần thứ hai
Phần thứ hai


tình hình cơ bản về tự nhiên - kinh tế - xã hội và thực
trạng công tác quản lý, sử dụng NSNN tỉnh hà giang
i. điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của tỉnh hà giang.

1. Về điều kiện tự nhiên.
* Vị trí địa lý: Hà Giang là tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam,

nằm ở vị trí từ 21
0
23' đến 22
0
10' vĩ bắc và 104
0
25' đến 105
0
34' kinh đông,
cách thủ đô Hà Nội trên 320 km.
Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, có đờng biên giáp
Trung Quốc dài trên 270 km.
Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Lào Cai và Yên
Bái, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang.
Hà Giang có 10 huyện, thị: Bắc Giang, Vị Xuyên, Bắc Mê, Hoàng
Su Phì, Xí Mần, Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc và thị xã Hà Giang.
* Địa hình:
- Hà Giang có địa hình núi cao chia cắt phức tạp, độ dốc lớn, nhiều
dãy núi đá có độ cao trên 2000m, tạo nên nhiều tiểu vùng với các điều
kiện về địa hình, khí hậu, đất đai, nguồn nớc và dân c khác biệt, độc
đáo, có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế đa dạng theo cơ cấu
nông - lâm - công nghiệp với nhiều sản phẩm phong phú, có nhiều cảnh
quan thiên nhiên đẹp để phát triển du lịch, dã ngoại...
- Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên còn không ít khó khăn
do địa hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn, nhiều dãy núi đá nên không ít khó
khăn trong phát triển sản xuất nông nghiệp đặc biệt ở các huyện vùng cao.
* Đất đai:
Tổng diện tích tự nhiên là: 788.437 ha (7884,37 km
2
).

Trong đó:
- Đất nông nghiệp : 106.425,113 ha
20
+ Đất trồng cây hàng năm : 39.817,77 ha
Đất ruộng lúa, mầu : 28.372,09 ha
Đất nơng rẫy : 52.192,03 ha
Đất cây hàng năm khác : 9.353,65 ha
+ Đất vờn tạp : 4.908,20 ha
+ Đất dùng vào chăn nuôi : 1.140,45 ha
+ Đất cây lâu năm : 9.874,87 ha
+ Đất có mặt nớc nuôi thuỷ sản : 683,75 ha
- Đất nông nghiệp : 279.450,7 ha
+ Đất có rừng tự nhiên : 229.587,96 ha
Đất có rừng sản xuất : 34.071,03 ha
Đất có rừng phòng hộ : 177.439,97 ha
Đất có rừng đặc dụng : 17.191,36 ha
+ Đất có rừng trồng : 49.861,09 ha
Đất có rừng sản xuất : 41.030,68 ha
Đất có rừng phòng hộ : 8.793,46 ha
+ Đất cây ơm giống : 1,65 ha
- Đất chuyên dùng : 4.183,33 ha
- Đất ở : 5.973,1 ha
- Đất cha sử dụng : 392.404,74 ha
Đất bằng cha sử dụng : 1.663,77 ha
Đất đồi núi cha sử dụng : 313.165,67 ha
Đất có mặt nớc cha SD : 10,9 ha
Sông suối : 5.500,67 ha
Núi đá không cây : 71.480,88 ha
Đất cha sử dụng khác : 627,9 ha
21

Qua số liệu trên thấy đợc đất đai tự nhiên của Hà Giang rất rộng,
tuy nhiên việc khai thác và sử dụng vào mục đích sản xuất nông, lâm
nghiệp cha đợc nhiều, hiện tại vẫn còn trên 314.828 ha đất bằng và đồi
núi cha sử dụng, đó là nguồn tài nguyên lớn cần phải tập trung đầu t
các nguồn lực nhằm khai thác phục vu chơng trình phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh.
* Về đặc điểm khí hậu thuỷ văn:
Do địa bàn rộng, khí hậu thuỷ văn các vùng phân bố không đồng đều:

các huyện vùng cao: Lợng ma trung bình 2000mm - 2400mm;
Nhiệt độ trung bình 15 - 20
0
C, có tháng mùa đông xuống 3- 4
0
C, có tuyết.
Vùng này khí hậu mang tính ôn đới.
Các huyện vùng thấp: Nhiệt độ trung bình 27
0
C; Lợng ma 4.633
mm/năm. ở huyện Bắc Quang là vùng có lợng ma bình quân cao nhất
nớc. Thông thờng mùa đông Hà Giang chịu ảnh hởng nhiều của gió
mùa đông bắc.
Sông suối: Toàn tỉnh có 7 sông lớn nhỏ: Sông Lô, Sông Gâm, Sông
Chảy, Sông Nho Quế, Sông Niệm, Sông Con, Sông Bạc, còn lại là suối
cạn. Lu lợng nớc sông phụ thuộc lớn vào mùa ma lũ, mùa khô
thờng cạn kiệt, các dòng sông phân bổ không đều, đặc biệt là vùng cao
núi đá, rất ít nớc. Những tháng mùa khô còn trên 100.000 ngời thiếu
nớc sinh hoạt.
* Về thổ nhỡng: Trên địa hình tỉnh Hà Giang hình thành các
nhóm đất chính nh đất phù sa tập trung ở vùng Bắc Quang, nhóm đất đỏ

vàng ( có tác dụng tốt phát triển cây công nghiệp ăn quả) ở Vị Xuyên,
Bắc Quang, Thị xã Hà Giang, Xín Mần, Hoàng Su Phì, nhóm đất phù sa
cổ trên cao nguyên Đồng Văn và các huyện vùng cao.
* Tài nguyên khoáng sản: Qua khảo sát điều tra Hà Giang phát
hiện đợc 28 loại khoáng sản khác nhau nh ( Ăngtimon, vàng, chì, kẽm,
sắt, Măngan, thuỷ ngân..., nớc khoáng) với số lợng 149 mỏ và các
điểm quặng. Hiện nay đang tiến hành thăm dò khai thác các loại khoáng
22
sản nh Măngan, Firit, Kẽm, Thiếc, đồng, chì, sắt, vàng, nớc khoáng...
khoáng sản có nhiều triển vọng nếu đợc đầu t thăm dò khai thác thích hợp.
2. Điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang
* Dân số và lao động: Dân số toàn tỉnh tính đến 1/4/1999 có:
60,268 vạn ngời với 22 dân tộc, trong đó 90% là đồng bào dân tộc thiểu
số. Trong đó dân tộc Mông chiếm 31,3%; Tày 26,5%; Dao 15,3%; Kinh
11,8% còn lại các dân tộc ít ngời khác.
Hà Giang có 9 Huyện và 1 thị xã tỉnh lỵ, trong đó có 7 Huyện
vùng cao biên giới thì có 4 huyện đặc biệt khó khăn trong 9 Huyện khó
khăn nhất cả nớc. Hiện nay toàn tỉnh có 128/191 xã thuộc diện xã đặc
biệt khó khăn (vùng III).
* Về sự phân vùng kinh tế:
Xuất phát từ điều kiện, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Hà
Giang hình thành làm 3 vùng kinh tế - xã hội và mỗi vùng có các tiềm
năng thế mạnh khác nhau:
- Vùng cao núi đá gồm 4 huyện phía Bắc là Mèo Vạc, Đồng Văn,
Yên Minh, Quản Bạ. Đây là vùng khó khăn nhất so với cả nớc. Diện tích
toàn vùng này là 2.353 km
2
, độ cao trung bình: 1000 - 1600m; Dân số:
203.027 ngời, khí hậu đất đai phù hợp với trồng cây ôn đới, dợc liệu. Sản
xuất nông nghiệp chủ yếu là trồng ngô một vụ trên đất hốc đá, chăn nuôi là

bò, ngựa, dê, ong và gia cầm. Trong vùng có tiềm năng về khoáng sản.
Khó khăn lớn của vùng: Khí hậu khắc nghiệt của mùa đông kéo
dài, nhiệt độ thấp 5 - 10
0
C, có năm tuyết rơi, sơng muối ảnh hởng tới
phát triển nông nghiệp, là vùng cao núi đá tình trạng thiếu nớc sinh
hoạt, nghiêm trọng nhất là trong những tháng mùa khô lên tới 10 vạn
dân. Thu nhập bình quân chỉ đạt 70 - 80 USD/ngời/năm. Tỷ lệ ngời mù
chữ thất học vẫn còn rất cao, địa hình hiểm trở, diện tích canh tác manh
mún, giao thông đi lại khó khăn.
- Vùng cao núi đất gồm 2 huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần; diện
tích vùng này là 1460 km
2
, độ cao trung bình 500 - 900 m; Dân số:
105.083 ngời, khí hậu thích hợp với những cây ôn đới, thuận lợi cho
23
phát triển rừng, nuôi ong, trồng cây công nghiệp nh chè, thông nhựa,
trẩu, đậu tơng... cây lợng thực chính là lúa, ngô, chăn nuôi chủ yếu là
trâu, bò, ngựa, dê... và gia cầm.
Khó khăn lớn nhất của vùng này là độ dốc rất lớn, hệ thống giao
thông dễ sạt lở và sinh lầy trong mùa ma lũ. Thu thập bình quân 80 -90
USD/ngời/năm, về văn hoá xã hội cũng khó khăn tơng tự nh vùng cao.
- Vùng thấp gồm 3 huyện, thị xã: Bắc Quang, Bắc Mê, Vị Xuyên
và thị xã Hà Giang. Diện tích tự nhiên là 4071 km
2
, độ cao trung bình
100 - 500 m; dân số: 294.574 ngời. Đây là vùng phù hợp với cây nhiệt
đới phát triển nh cam, quýt, dợc liệu, cây công nghiệp nh chè, cà phê,
quế, dâu tằm, đậu tơng, lạc... cây lơng thực chủ yếu là lúa nớc, ngô.
Chăn nuôi: trâu bò, dê, cá và gia cầm. Trong vùng có cửa khẩu quốc gia

Thanh Thuỷ rất thuận lợi cho giao lu kinh tế, văn hoá với Trung Quốc,
có điều kiện về xuất nhập khẩu và phát triển thơng mại, dịch vụ...
Đây là vùng thuận lợi nhất của tỉnh, song vẫn là khu vực còn
những khó khăn về đời sống kinh tế - xã hội. Thu nhập bình quân ở mức
100 - 130 USD/ngời/năm. Hầu hết hệ thống thuỷ lợi, kênh mơng cha
đợc kiên cố hoá.
* Thực trạng sản xuất nông, lâm nghiệp của tỉnh trong những năm vừa qua:
- Một số kết quả chung về phát triển kinh tế xã hội của tỉnh:
Thực hiện đờng lối của Đảng và chính sách của Nhà nớc, trong
đó vấn đề quan trọng có tính chiến lợc lầu dài là chủ trơng phát triển
kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý
của Nhà nớc theo định hớng XHCN. Trong quá trình xây dựng và phát
triển kinh tế Tỉnh đã phát huy đợc cơ bản các thành phần kinh tế tham
gia trong sản xuất kinh doanh, khẳng định hộ nông dân là một đơn vị tự
chủ trong kinh tế... đồng thời đã thực hiện tốt các chính sách của Đảng
và Nhà nớc nhất là Nghị quyết 22 NQ Trung ơng của Bộ Chính trị, và
Nghị quyết 72CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ Trởng về một số chính
sách phát triển kinh tế xã hội miền núi, các Quyết định 327CP về sử
dụng đất trống đồi núi trọc, và các chính sách vay vốn, trợ giá trợ cớc
vận chuyển và đảm bảo các hàng thiết yếu cho miền núi, chơng trình
24
06CP về không trồng thuốc phiện và cai nghiện ma tuý; chơng trình y tế
và giáo dục VHXH đã trực tiếp thúc đẩy kinh tế xã hội ở địa phơng.
Về sản xuất: Trong những năm qua nền kinh tế của tỉnh phát triển
tăng dần, đã duy trì nhịp độ tăng trởng GDP từ 9 - 10,0% ( Năm 1994
GDP tăng 9,1% thì năm 1999 tăng 10,3%). GDP bình quân đầu ngời
tăng từ 685.000 đồng năm 1994 lên 1.535.000 đồng năm 1999, chất
lợng và hiệu quả của nền kinh tế nông lâm nghiệp lạc hậu mang tính tự
cấp tự túc của những năm trớc đây thì vài ba năm nay sản xuất hàng hoá
đã bắt đầu phát triển, đã hình thành đợc một số vùng sản xuất tập trung.

Cơ cấu kinh tế đợc chuyển dịch đúng hớng.
+ Tỷ trọng các ngành nông lâm nghiệp trong GDP giảm từ 63%
năm 1994 xuống còn 61,8% năm 1995 và đến năm 1998 là 52,60%, năm
1999 là 51,46%. Nông lâm nghiệp phát triển tơng đối toàn diện, nhiều
giống cây, con có chất lợng và năng suất cao đợc đa vào sản xuất đại
trà, việc đa những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo nên sự
chuyển biến rõ rệt trong sản xuất. Sản lợng lơng thực quy thóc tăng từ
14,5 vạn tấn năm 1994 lên 18,4 vạn tấn trong năm 1999 tăng gần 4 vạn
tấn. Chăn nuôi phát triển khá năm sau đều tăng hơn năm trớc từ 4 - 5% năm.
+ Tỷ trọng ngành công nghiệp + xây dựng từ 17,02% năm 1994
lên 21,3% năm 1999. Trong công nghiệp từ chỗ hầu nh cha có gì, sản
xuất quy mô thiết bị nhỏ bé lạc hậu nay đã bắt đầu đợc mở mang xây
dựng phát huy tác dụng nh: Nhà máy Xi măng 4 vạn tấn/năm, dây
truyền Nhà máy gạch 15 triệu viên/năm, nhiều cơ sở chế biến chè, chế
biến nông sản thực phẩm.. ra đời thu hút sản phẩm nông nghiệp và tạo
công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động. Nguồn điện lới đã tới 10/10
huyện, thị trên toàn tỉnh...
+ Tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 19.9% năm 1994 lên 27,13% năm
1999. Các hoạt động lĩnh vực thơng mại, dịch vụ, tiền tệ tín dụng cơ bản
đáp ứng đợc các nhu cầu, phát triển cho các thành phần kinh tế thu ngân
sách tăng từ 24 tỷ đồng năm 1994 lên 64 tỷ đồng năm 1999... Giá trị hàng
hoá xuất khẩu và có tính chất xuất khẩu đạt 6,1 triệu USD/năm...
25
+ Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Đã có bơc phát triển khá về số
lợng chất lợng, góp phần to lớn trong việc phát triển nền kinh tế xã hội
theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ
đang từng bớc đợc nâng cấp, mở rộng nhựa hoá. Đến nay có 232 km
đờng quốc lộ và 91 km đờng tỉnh lộ đợc nhựa hoá. Đờng cửa khẩu
quốc gia Thanh Thuỷ, cửa khẩu tiểu ngạch đợc khai thông... Đặc biệt
đến nay có 183/191 xã có đờng về đến trung tâm xã...

Công tác thuỷ lợi có những chuyển biến mạnh. Từ những công
trình trớc đây còn tạm bợ, cha đợc kiên cố hoá, khả năng tới 22.000
ha thì đến nay đã có 215 công trình lớn nhỏ đợc sửa chữa nâng cấp,
cộng với 5283 công trình siêu nhỏ do dân tự làm với năng lực tới đạt
trên 28.000 ha.
+ Sự nghiệp y tế - Giáo dục - phát thanh , truyền hình trên địa bàn
tỉnh đã từng bớc đợc phát triển mở rộng, đã xoá đợc tất cả các xã
trắng không có trạm xá và từng bớc xây dựng kiên cố vững chắc. Tỉnh
đợc công nhận đạt tiêu chuẩn quốc gia về hoàn thành phổ cập giáo dục
tiểu học và chống mù chữ trên địa bàn toàn tỉnh vào năm 1999. Tỷ lệ phủ
sóng phát thanh đạt 67,7%, sóng truyền hình đạt 61% năm 1999. An
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội đợc đảm bảo. Từ những kết quả
chung nêu trên đã có tác dụng kích thích môi trờng thuận lợi cho sản
xuất kinh tế phát triển, có nhu nhập đời sống dần tăng lên. Tỷ lệ đói
nghèo giảm từ 35% năm 1998 xuống còn 22% năm 1999, tỷ lệ hộ khá
giàu đạt 3-4%, các khoản thu cho NSNN cũng tăng lên.
- Thực trạng của cơ cấu ngành và sản xuất nông, lâm nghiệp trong
những năm qua của địa phơng:
+ Về nông nghiệp: Là một ngành kinh tế truyền thống đồng thời là
ngành quan trọng hàng đầu trong các ngành kinh tế của tỉnh. Trên cơ sở
về tiềm năng đất đai, khí hậu, đợc sự đầu t giúp đỡ của Chính phủ, sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, Chính quyền tỉnh cộng với sự vợt khó đi
lên của nhân dân các dân tộc trong những năm gần đây bộ mặt nông thôn
và đời sống nhân dân đã có nhiều chuyển biến phát triển rõ nét. Sản xuất
nông, lâm nghiệp năm sau đều cao hơn năm trớc.

×