Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Xây dựng các giải pháp về thức ăn cho chăn nuôi lợn xuất khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.05 KB, 26 trang )



Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Viện khkt nông nghiệp miền nam



Báo cáo tổng kết đề tài nhánh

Một số giải pháp về thức ăn
để chăn nuôi lợn xuất khẩu
_____________________________________

thuộc đề tài cấp nhà nớc mã số kc 06.06
nghiên cứu một số giải pháp khoa học công nghệ và thị
trờng nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thịt lợn
Chủ nhiệm đề tài: ts . đỗ văn quang

















6482-20
27/8/2007

hà nội - 2007


0

VIỆN KHOA HỌC KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP MIỀN NAM
PHÒNG NGHIÊN CỨU THỨC ĂN VÀ DINH DƯỠNG GIA SÚC
D #" E


CHUYÊN ĐỀ


XÂY DỰNG CÁC GIẢI PHÁP VỀ THỨC ĂN
CHO CHĂN NUÔI LỢN XUẤT KHẨU


THUỘC ĐỀ TÀI CẤP NHÀ NƯỚC:
“ Nghiên cứu một số giải pháp Khoa học công nghệ và thị trường nhằm đẩy mạnh
xuất khẩu thịt lợn”
MÃ SỐ: KC.06.06.NN
NGƯỜI THỰC HIỆN:
ThS. Phạm Tất Thắng, TS. Đỗ Văn Quang





Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 11 năm 2004

1
CHUYÊN ĐỀ

XÂY DỰNG CÁC GIẢI PHÁP VỀ THỨC ĂN
CHO CHĂN NUÔI LỢN XUẤT KHẨU

ThS. Phạm Tất Thắng, TS. Đỗ Văn Quang

I – LỜI MỞ ĐẦU
Ngành chăn nuôi ở nước ta ngày càng được đầu tư phát triển mạnh theo hướng sản xuất
hàng hóa. Đi đôi với việc phát triển chăn nuôi là sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp
sản xuất thức ăn. Mặc dù vậy, sản lượng thức ăn hiện nay vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho chăn
nuôi, đồng thời phải phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, trong khi đó nguồn
nguyên liệu tại chỗ chưa được khai thác triệt để. Việc nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật
trong chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chưa được chú trọng nhiều, việc sử dụng thức ăn
công nghiệp tuy chưa đáp ứng đủ nhu cầu nhưng hiệu quả lại không cao.
Những năm gần đây, các nhà khoa học của nước ta đã có một số công trình nghiên cứu
đánh giá về tài nguyên thức ăn, bao gồm điều tra đánh giá về số lượng, sản lượng, thành phần hoá
học và giá trị dinh dưỡng của thức ăn, đưa ra được bảng thành phần và giá trị dinh dưỡng của
thức ăn (776 loại thức ăn cho loài nhai lại, 531 loại thức ăn cho lợn và 370 loại thức ăn cho gia
cầm), đây là những số liệu làm cơ sở cho việc tính toán cân đối công thức thức ăn một cách chính
xác. Một số nghiên cứu đã đạt được những kết quả nhất định về khai thác tài nguyên thức ăn như
sử dụng phế
phụ phẩm trồng trọt, phế phụ phẩm chế biến công nghiệp, cỏ và thức ăn xanh, những
thành tựu trong nghiên cứu và phát triển thức ăn công nghiệp, những thành tựu về nghiên cứu

thức ăn bổ sung và áp dụng những tiến bộ kỹ thuật của thế giới về thức ăn bổ sung trong chăn
nuôi, những thành tựu về nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng của vậ
t nuôi. Những thành tựu này góp
phần quan trọng vào việc tăng năng suất và hiệu quả sử dụng thức ăn của vật nuôi, tăng giá trị sản
phẩm chăn nuôi.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu và áp dụng những thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất thức ăn chăn nuôi ở nước ta còn nhiều hạn chế, sử dụng thức ăn cho chăn nuôi còn lãng phí

2
và chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao, chưa chú ý đến ảnh hưởng của thức ăn đến chất lượng sản
phẩm, chưa đáp ứng được nhu cầu cho xuất khẩu, hơn nữa chưa khai thác triệt để nguồn nguyên
liệu sẵn có ở địa phương nhằm giảm giá thành sản phẩm, vì thế giá thành sản phẩm thức ăn cũng
như sản phẩm chăn nuôi ở nước ta luôn cao hơn so với các nước trong khu vực.
Dinh dưỡng và thức ăn là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển chăn nuôi, dinh
dưỡng và thức ăn tốt thì sẽ phát huy tối đa tiềm năng di truyền của động vật. Dinh dưỡng và thức
ăn sạch thì mới có sản phẩm chăn nuôi sạch đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.
Chính vì các vấn đề trên mà việc nghiên cứu đưa ra các giải pháp về thức ăn chăn nuôi để
đáp ứng nhu cầu xuất khẩu là việc làm cần thiết ở nước ta hiện nay. Để thực hiện được các giải
pháp về thức ăn cho chăn nuôi lợn xuất khẩu, cần thiết phải đi theo đúng trình tự về xác định nhu
cầu dinh dưỡng cho từng lứa tuổi, sử dụng các nguyên liệu sẵn có tại địa phương, thay thế các
nguyên liệu đắt tiền bằng nguyên liệu rẻ tiền nhằm hạ giá thành thức ăn và giá thành sản phẩm,
đồng thời các cơ sở chăn nuôi phải tự chủ động sản xuất thức ăn phục vụ cho chăn nuôi của
mình, có như thế mới chủ động được giá trị dinh dưỡng của thức ăn và giá thành sản phẩm.

II – MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI LỢN
1. Xác định nhu cầu dinh dưỡng
Các thành phần như năng lượng, axit amin, khoáng, vitamin là những chất dinh dưỡng
cần thiết để duy trì, phát triển, sinh sản và tiết sữa của lợn. Sự tổng hợp cơ, mô mỡ, xương, lông,
da và các thành phần khác của cơ thể, kết quả của việc tăng cường đạm, chất béo, nước… phụ
thuộc vào việc cung cấ

p đầy đủ các chất dinh dưỡng trong khẩu phần. Lợn cần được cung cấp các
chất dinh dưỡng thiết yếu với lượng thích ứng, hợp khẩu vị và sử dụng có hiệu quả nhằm đạt
được năng suất tối ưu.
Trong những năm qua, tuy đã có các nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng cho các loại lợn ở
nước ta, song chủ yếu dựa trên các tiêu chuẩn của nước ngoài và nghiên cứ
u trên các giống lợn
có năng suất và chất lượng thấp. Việc nghiên cứu xác định nhu cầu dinh dưỡng cho từng giống
lợn, từng lứa tuổi theo mục đích sử dụng là việc làm cần thiết hiện nay, nhất là khi hàng loạt các
giống lợn có năng suất và chất lựơng cao mới được nhập nội hay lai tạo gần đây.
* Các bước nghiên cứu xác định nhu cầu dinh dưỡng của lợ
n

3
- Nghiên cứu xác định thành phần dinh dưỡng của tất cả các loại thức ăn ở từng vùng lãnh
thổ, theo từng mùa vụ.
- Xác định chính xác khả năng và tỷ lệ tiêu hóa từng loại thức ăn đối với lợn.
- Cân đối công thức thức ăn cho từng đối tượng lợn dựa trên tỷ lệ tiêu hóa các loại nguyên
liệu đã được xác định.
- Xác định khả năng ăn thức ăn của từng loại lợn và các yếu tố ảnh hưởng đến lượng thức
ăn ăn vào, từ đó xác định xem tỷ lệ dinh dưỡng nào là thích hợp nhất cho sinh trưởng, phát triển
theo từng lứa tuổi của lợn.
- Kết luận và đưa ra kiểm chứng ở sản xuất, từ đó khuyến cáo các nhà sản xuất thức ăn
cũng như các nhà chăn nuôi áp dụng.
* Xác định nhu cầu các chất dinh dưỡng cho lợn
a) Nhu cầu năng lượng
Nhu cầu năng lượng cho lợn bao gồm nhu cầu cho duy trì, cho tăng trưởng, mang thai,
tiết sữa.
- Nhu cầu năng lượng cho duy trì: ME
m
(kcal/ngày) = 600 x Pt

0,648
(Pt là tổng lượng đạm
của cơ thể tính bằng kg) – Whittermore và Morgan (1990)
- Nhu cầu năng lượng cho tích luỹ nạc từ 6,8 đến 14 McalME/kg, cho tích luỹ mỡ từ 9,5
đến 16,3 McalME/kg.
- Nhu cầu năng lượng cho lợn từ 15 kg đến 110 kg có thể áp dụng công thức:
DE ăn vào (kcal/ngày) = 13,162 x (1 – e
-0,0176BW
)
b) Nhu cầu protein và axit amin
Protein là một trong các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể động vật. Protein của thức
ăn, sau khi tiêu hóa và phân giải thành các axit amin và được tái tổng hợp ở các tế bào đặc trưng
cho cơ thể gia súc làm cho gia súc sinh trưởng, phát triển bình thường, vì thế việc cung cấp các
axit amin với khối lượng và tỷ lệ chính xác sẽ xác định được tỷ lệ protein khẩu phần một cách
thích hợp. Nhu cầu protein không đồng đều đối với tất cả các loại lợn mà thay đổi theo giống,
giới tính, tình trạng sức khoẻ, nhiệt độ môi trường, mật độ đàn và các yếu tố khác. Ngày nay
người ta thường dùng khái niệm protein lý tưởng để xác định nhu cầu protein cho lợn, loại
protein này đáp ứng tối đa và phù hợp nhất so với nhu cầu của gia súc, protein này không những

4
có tỷ lệ tiêu hóa cao mà còn có chứa các axit amin thiết yếu với tỷ lệ thích hợp nhất so với nhu
cầu của lợn.
Để xác định được nhu cầu protein của lợn, cần phải xác định chính xác tỷ lệ tiêu hóa
protein và giá trị sinh vật học của protein. mỗi chỉ tiêu này đều có nhiều yếu tố ảnh hưởng, biết
được các yếu tố này, người ta mới biết cách tác động để cải thiện năng suất của vật nuôi và tiết
kiệm thức ăn.
Việc xác định nhu cầu protein cho lợn cần phải hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng đến tiêu hóa
và hấp thu protein:
- Sự biến tính protein: Có nhiều tác nhân gây biến tính protein như nhiệt độ, pH, kim loại
nặng, một số dung môi alchol, formol, sự oxy hóa, tia cực tím, tia rơngen… Một số trường hợp

biến tính có lợi như HCl của dịch vị, axit lactic gây kết tủa casein trong sữa để cho men pepsin
tiêu hóa protein này tốt hơn, một số biến tính có hại như khi gặp nhiệt độ cao phá huỷ cấu trúc
bậc hai của protein để lộ ra những axit amin nhạy cảm như lysin, arginin, histidin, tryptophan….
gây ra phản ứng với đường khử có sẵn trong thức ăn làm mất khả năng lợi dụng của cơ thể đối
với axit amin đó.
- Các chất ức chế tiêu hóa trong thức ăn: Quan trọng nhất là các chất kháng dinh dưỡng
trong đậu nành như antitrypsin có thể gây huỷ hoại lớp nhung mao, làm giảm sản lượng enzyme
trong ruột, β - conglycinin và lectin làm giảm thời gian vận chuyển thức ăn, làm giảm hấp thu
dưỡng chất ở thành ruột non, chất ức chế men trypsin sẽ ngăn cản hoạt động của men tiêu hóa,
hemaglutinin có thể làm tăng sự mất mát protein nội sinh.
c) Nhu cầu khoáng chất
Các chất khoáng bao gồm canxi, photpho, clo, đồng, iôt, sắt, magiê, mangan, kali, selen,
natri, lưu huỳnh, kẽ
m, crom. Chức năng của các chất khoáng này đa dạng, tham gia cấu tạo tế bào
hay chức năng điều hòa hoạt động ở các tế bào. Nhu cầu tối thiểu đối với từng chất khoáng khác
nhau ở các giai đoạn sinh trửơng và phát triển khác nhau. Nhu cầu khoáng trong khẩu phần bị
ảnh hưởng bởi giá trị sinh học của chất khoáng trong nguyên liệu làm thức ăn. Sử dụng chất
khoáng trong thức ăn cho lợ
n cần chú ý đến một số chất khoáng có khả năng gây ngộ độc cho lợn
như arsenic, chì, thủy ngân, antimony.

5
- Can xi và phốt pho giữ vai trò chính trong việc phát triển và duy trì bộ xương và thực
hiện nhiều chức năng khác. Việc cung cấp đủ Ca và P ở dạng tiêu hóa với tỷ lệ thích hợp, đồng
thời với việc cung cấp đầy đủ vitamin D cho lợn là việc rất quan trọng.
- Natri, kali, clo là các ion chính ảnh hưởng đến sự cân bằng chất điện giải và trạng thái
axit – bazơ của con vật. Magiê là một đồng yếu tố trong nhiều hệ enzyme và là một yếu tố cấu
thành của xương. Lưu huỳnh tham gia vào cấu trúc một số axit amin như methionin, cystin.
- Các chất khoáng vi lượng như crom tham gia trong quá trình trao đổi chất của
carbohydrace, lipid, protein và axit nucleic. Coban là thành phần của vitamin B12 nhưng với hàm

lượng cao coban có thể gây ngộ độc cho lợn. Đồng cần thiết để tổng hợp hemoglobin, tổng hợp
và kích hoạt một số ezyme oxy hóa cần cho trao đổi chất. Iôt tham gia vào thành phần của
hormon tuyến giáp, đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa trao đổi chất. Sắt tham gia vào
thành phần của hemoglobin, myoglobin ở cơ, transferrin của huyết thanh, uteroferrin của nhau
thai, lactoerin của sữa và ferritin, hemosiderin của gan. Và một số chất khoáng khác là những
chất khoáng không thể thiếu trong cơ thể lợn. Chính vì vậy, khi cân đối khẩu phần ăn cho lợn
phải chú ý đến việc cung cấp đầy đủ các chất khoáng.
d) Nhu cầu vitamin
Vitamin là những hợp chất hữu cơ, nhu cầu cần một lượng nhỏ nhưng nó rất quan trọng
cho sự sinh trưởng, phát triển bình thường của lợn. Nhu cầu vitamin ở các đối tượng gia súc khác
nhau thì khác nhau. Vì vậy, khi cân đối khẩu phần ăn cho lợn phải tính toán đủ nhu cầu vitamin
cho lợn.
Tiêu chuẩn ăn và nhu cầu từng chất dinh dưỡng cho lợn, có thể dựa theo NRC 1998 hay
TCVN 1992 hoặc tham khảo khuyến cáo của các nhà khoa học trong nước.

2. Thực hiện cân bằng các axit amin để giảm thiểu hàm lượng protein trong thức ăn
Ngày nay, quan niệm về dinh dưỡng protein chính là dinh dưỡng các axit amin. Rất nhiều
nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng khẩu phần có tỷ lệ protein thấp nhưng được cân bằng
axit amin thiết yếu thì có hiệu quả tốt hơn những khẩu phần có mức protein cao nhưng không cần
bằng axit amin. Ưu điểm chính của khẩu phần được cân bằng axit amin là có tác dụng làm giảm
nitơ bài thả
i nhưng lại không ảnh hưởng đến tăng trọng và tích luỹ nitơ trong cơ thể, đồng thời

6
cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng do làm giảm năng lượng hao hụt nhờ sự giảm bài thải nitơ
qua đường bài tiết và mất mát qua thân nhiệt.
Một số khuyến cáo như Yen (1986) cho rằng mức 17,5; 15,6 và 16,8% protein thô trong
thức ăn là phù hợp cho lợn đực, đực thiến và cái sinh trưởng giai đoạn 20 – 50 kg và 14,3; 12,0
và 13,1% protein thô trong thức ăn cho giai đoạn 50 – 90 kg. Bellego (2002) cho rằng mức
protein trong khẩu phần 15,6 và 13,3% cho mỗi giai đoạn có bổ sung axit amin đã cho tăng trọng

tương đương với mức protein 20,1 và 17,5% tương ứng mà không bổ sung axit amin. Một số
nghiên cứu trong nước cũng đã khẳng định việc giảm hàm lượng protein thô trong khẩu phần
nhưng được cân đối các axit amin như lysin, methionin, threonin, tryptophan đã mang lại hiệu
quả cao hơn so với tỷ lệ protein cao nhưng không được cân bằng axit amin. Nghiên cứu của Lã
Văn Kính và ctv. (2004) trên lợn thịt đã xác định:
- Khi cân bằng 3 axit amin: lysin, methionin, methionin + cystin thì mức 17% protein
trong thức ăn cho giai đoạn 20 – 50 kg và 14,5% protein trong thức ăn cho giai đoạn 50 – 90 kg
là phù hợp.
- Khi cân bằng 5 axit amin: lysin, methionin, methionin + cystin, threonin, tryptophan thì
mức 15,5% protein trong thức ăn cho giai đoạn 20 – 50 kg và 13% protein trong thức ăn cho giai
đoạn 50 – 90 kg là phù hợp.

3. Sử dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có của địa phương, thay thế nguồn nguyên liệu đắt
tiền bằng bằng nguyên liệu rẻ tiền
Theo số liệu Cục khuyến Nông - khuyến Lâm năm 2002 s
ản lượng thức ăn công nghiệp
cả nước đạt 3,2 triệu tấn, tăng 18,5% so với năm 2001 nhưng cũng chỉ đáp ứng khoảng 30-35%
nhu cầu thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh cho gia súc gia cầm. 65-70% lượng thức ăn còn lại do dân tự
trộn, trong đó sử dụng rất nhiều nguồn thức ăn tại chỗ, sẵn có tại địa phương (tấm, cám gạo,
khoai mì…). Tuy nhiên do nguồ
n thức ăn tại chỗ sử dụng chưa hợp lý nên hiệu quả sản xuất còn
thấp, giá thành sản phẩm cao. Hiện tại giá thành sản xuất thịt heo, gia cầm và trứng của Việt Nam
cao hơn so với các nước trong khu vực và là nguyên nhân chính làm cho thịt lợn của ta không
xuất khẩu được. Trong các yếu tố làm giá thành sản phẩm chăn nuôi cao thì thức ăn chiếm tỷ
trọng cao nhất (khoảng 70% giá thành sản phẩm). Giá th
ức ăn của ta cao hơn các nước trên thế

7
giới 20%, cao hơn các nước trong khu vực như Thái lan, Trung quốc, Malaysia tới 30%. Một
trong các nguyên nhân làm giá thức ăn cao là do ta phải nhập nhiều nguyên liệu, đặc biệt là

nguồn thức ăn giàu protein (khoảng 200.000 tấn bột cá, 500.000 tấn khô đậu nành, 10.000 tấn
axít amin, vitamin /năm ). Do vậy việc giảm giá thành thức ăn là yêu cầu rất bức bách và hướng
giải quyết là tăng cường sử dụng nguồn thức ăn giàu protein tại chỗ, sẵn có ở địa phương.
Đã có một số nghiên cứu trong nước về việc thay thế các nguyên liệu đắt tiền bằng các
nguyên liệu rẻ tiền nhưng vẫn đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng cho lợn:
- Thay thế bắp bằng khoai mỳ: theo kết quả nghiên cứu của Lã Văn Kính và ctv. (2004)
khoai mỳ là cây lương thực đứng hàng thứ tư sau cây lúa, bắp và cây khoai lang ở nước ta. Khoai
mỳ trồng thích hợp với mọi loại đất, nhưng thích hợp nhất là đất cát pha. Nó được trồng nhiều ở
trung du Bắc bộ, Trung bộ và vùng miền Đông Nam bộ. Trước đây khoai mỳ là một trong những
cây lương thực chủ lực của con người, nhưng ngày nay nó được dùng chủ yếu làm thức ăn cho
chăn nuôi. Nếu so sánh giá trị dinh dưỡng thì một tấn hỗn hợp gồm 85% khoai mỳ và 15% khô
dầu đậu phộng có giá trị tương đương với một tấn bắp, mà giá thành khoai mỳ chỉ bằng ½ giá bắp
cho nên sử dụng khoai mỳ vẫn rẻ hơn nhiều. Chính vì khoai mỳ là nguồn thức ăn cung cấp năng
lượng cho chăn nuôi sẵn có và rẻ tiền, nên đã có nhiều nhà nghiên cứu trong và và ngoài nước tập
trung nghiên cứu.
Nguyễn Nghi và ctv (1991) cho heo ăn khẩu phần có 0; 15; 30 và 45% khoai mỳ đã rút ra
kết luận: khẩu phần có 30 – 45% khoai mỳ cho tăng trọng cao hơn đáng kể so với đối chứng
(không có khoai mỳ) và lô có 15% khoai mỳ, chi phí thức ăn cho một kg tăng trọng ở lô 45%
khoai mỳ cũng thấp hơn. Phạm Sỹ Tiệp và ctv (1999) cho rằng có thể sử dụng 30; 45; 53% khoai
mỳ có bổ sung thêm 36; 30,9; 22,8% đậu nành rang cho các giai đoạn 13 – 30; 31 – 60 và 61 – 80
kg mà heo vẫn đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên việc sử dụng khoai mỳ trong
khẩu phần cần phải dùng các biện pháp xử lý như phơi khô, sấy để là giảm lượng HCN có sẵn
trong khoai mỳ, theo Dương Thanh Liêm và ctv (2002) thì hàm lượng HCN trong khoai mỳ xắt
lát phơi khô là 27 mg/1kg, trong bột củ khoai mỳ là 10,8 mg/1kg và liều gây độc tối thiểu của
HCN tự do trên động vật là 2 – 2,3 mg/kg trọng lượng cơ thể, nếu tính trên thực liệu để làm thức
ăn thì mức ngộ độc ≥ 200 mg HCN/1 kg thức ăn là nguy hiểm cho động vật.

8
Mondonedo (1928) đã thay thế 20% bắp bằng khoai mỳ và nuôi heo trong 75 ngày, đã
đưa ra kết luận heo ăn khẩu phần khoai mỳ có tăng trọng cao hơn heo ăn khẩu phần bắp 8%,

giảm tiêu tốn thức ăn 9% và quầy thịt cũng tốt hơn. Theo Woodman và ctv (1931), Mazn (1960)
thì heo ăn khẩu phần có 20 – 40% khoai mỳ cho tăng trọng tương đương với khẩu phần có 20 –
40% bắp. Oyenuga và Opeke (1957) dùng 40% khoai mỳ trong khẩu phần heo giai đoạn tăng
trưởng và 55% cho giai đoạn kết thúc đã đưa ra kết luân khoai mỳ có giá trị dinh dưỡng tương
đương lúa miến và bắp. Shimada (1970) dùng bột khoai mỳ thay thế bắp trong khẩu phần là 0 –
22 – 44 – 66% cho heo từ 30 – 90kg đã kết luận rằng sử dụng khoai mỳ đến 40% trong khẩu phần
không làm heo chậm lớn, tuy nhiên ở mức 66% làm giảm sút cả về tăng trọng và hiệu quả sử
dụng thức ăn. Peraza và ctv (1970) nhận thấy trong khẩu phần khoai mỳ có thể đạt tới 60% mà
không bất lợi và cho phép đạt tăng trọng từ 800 gam/ngày đối với heo từ 30 – 90 kg. Nghiên cứu
của Mason và Gomes, 1970 đã chứng minh là có thể thay hoàn toàn ngũ cốc bằng bột khoai mỳ
mà không có ảnh hưởng đáng kể nào tới tăng trọng và hiệu quả sử dụng thức ăn khi mà khẩu
phần được cân đối phù hợp. Serres và ctv (1973) đưa ra kết luận heo có thể đạt được tăng trọng
800 gam/ngày với khẩu phần 75% khoai mỳ nhưng tăng trọng này bị ảnh hưởng bởi chất lượng
protein bổ sung, tăng trọng cao nhất khi protein bổ sung có nguồn gốc động vật. Portellar và ctv
(1974) đã xác nhận rằng sức lớn của heo cho ăn khẩu phần có 55% khoai mỳ có thêm hoặc không
thêm 1% mỡ bò cho kết quả tăng trọng /ngày của các lô là 850 gam (có bổ sung mỡ bò)và 760
gam (không bổ sung mỡ bò), hệ số chuyển hóa thức ăn lần lượt là 2,24 và 2,56. nghiên cứu của
Balagopalan và ctv (1988) cho thấy khẩu phần có 40% khoai mỳ đã kích thích lượng thức ăn ăn
vào của heo con nhiều hơn là khẩu phần có 20% bột khoai mỳ. Nếu khử hết hàm lượng HCN thì
sử dụng các mức độ bột khoai mỳ trong khẩu phần khác nhau đã không ảnh hưởng đáng kể tới
tăng trọng, thức ăn ăn vào và hiệu quả sử dụng th
ức ăn so với các loại ngũ cốc phổ biến khác
(Gomez và ctv, 1994). Lượng bột khoai mỳ ăn vào của heo nuôi thương phẩm nói chung biến
động tùy thuộc vào sự cung cấp hàm lượng protein bổ sung (Pezez, 1997). Một số nghiên cứu
cho thấy khi sử dụng khẩu phần có tỷ lệ bột khoai mỳ cao (60 – 75%) thì heo có triệu chứng tiêu
chảy, yếu chân, triệu chứng ở da, … kết quả của việc thiếu kẽm trong khẩu phần (Hutagalung,
1972; Balagopalan và ctv, 1988). Công bố của Dimaculangan (1997) cho thấy sử dụng 30 – 40 %
khoai mỳ trong khẩu phần heo thịt giai đoạn sinh trưởng và vỗ béo có bổ sung bột cá, khô nành,

9

các axít amin tổng hợp đã không ảnh hưởng tới tăng trọng heo nhưng cải thiện từ 2,5 – 21,5% chi
phí thức ăn/kg tăng trọng so với lô không sử dụng khoai mỳ.
Có thể thay thế 50% bắp bằng khoai mỳ trong khẩu phần ăn cho heo thịt mà vẫn không
ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của heo, tương đương với các khẩu phần thay thế 0%
và 25% bắp bằng khoai mỳ về các chỉ tiêu sinh trưởng nhưng chi phí thức ăn lại rẻ hơn; tăng
trọng đạt 604,5 gam/con/ngày, hệ số chuyển hóa thức ăn 3,09 kg TĂ/kg tăng trọng, chi phí thức
ăn 7136,3 đồng/kg tăng trọng.
- Sử dụng khô dầu cao su, khô dầu bông: Thành phần hóa học của hạt cao su không vỏ là
21,8% protein thô; 47,65% béo thô; 3,46% xơ thô; 0,17%Ca; 0,3% P; 3939 kcal/kg ME
heo
; 3122
kcal/kg ME

. Khô dầu cao su là một sản phẩm thu được sau khi ép hạt cao su lấy dầu, thành
phần hóa học chính gồm có: 30-35% protein thô; 5,78% béo thô; 7,88% xơ thô; 0,4%Ca; 0,51%
P; 2753 kcal/kg ME
heo
; 2635 kcal/kg ME

. Trong các loại thức ăn giàu protein thì hạt cao su và
khô dầu hạt cao su là một nguồn thức ăn phong phú về sản lượng. Theo số liệu thống kê năm
2001, cả nước có trên 420.000 ha cây cao su, với mật độ trung bình 400 cây/ha và sản lượng hạt
ước tính từ 300 kg/ha thì có thể thu được sấp sỉ 130.000 tấn hạt, tương đương với 65.000 tấn
khô dầu cao su sau khi tách vỏ, ép dầu. Thực tế hầu hết lượng hạt và khô dầu cao su này đang bị
bỏ phí hoặc một phần được thu lượm làm chất đốt, trong khi đó cả hai đều là nguồn thức ăn tiềm
năng cung cấp protein rất tốt cho heo do có lợi thế là sẵn có và rẻ tiền. Có hai lý do mà khô dầu
cao su chưa được sử dụng rộng rãi trong chế biến thức ăn gia súc, thứ nhất là do thành phần axít
amin không cân đối, nghèo methionine, lysine; lý do thứ 2 quan trọng hơn là do trong nhân có
chứa nhiều hợp chất cyanogenic glycoside, khi thủy phân tạo ra axít hydrogen-cyanide (HCN) là
m

ột chất độc cho gia súc gia cầm (Stosic and Kaykay, 1981). Như vậy rất cần thiết có một
phương pháp chế biến hợp lý để giảm hàm lượng HCN trong khô dầu cao su tới mức an toàn cho
gia súc gia cầm, cũng như áp dụng các phương pháp khoa học trong cân bằng dinh dưỡng để tận
dụng được nguồn thức ăn đầy tiềm năng này và có thể sẽ góp phần không nhỏ trong chiến lược
hạ giá thành sản phẩm chăn nuôi.


10
4. Sử dụng các chất bổ sung và các chế phẩm thảo dược thay thế kháng sinh trong thức ăn
Các chất kích thích sinh trưởng được trộn vào thức ăn cho heo phần lớn thuộc loại “phi
dinh dưỡng” và không đáp ứng trực tiếp nhu cầu các thành phần dinh dưỡng cho vật nuôi nhưng
chúng có tác động kích thích sinh trưởng của vật nuôi để cải thiện năng suất và mang lại hiệu quả
kinh tế cao hơn.

4.1.1 Những bất lợi của việc sử dụng kháng sinh trong thức ăn
* Tạo ra các dòng vi khuẩn lờn thuốc
- Do hiện tượng thu nhận thêm mã di truyền tạo cho vi khuẩn có thêm những tính chất di
truyền mới trong đó có tính đề kháng với kháng sinh.
- Do đột biến nhiễm sắc thể trong tế bào: Bình thường cứ 1 tỷ tế bào sẽ có 1 tế bào bị đột
biến mà thời gian sản sinh một thế hệ vi khuẩn là mỗi 20 phút nên sau 24 giờ, vi khuẩn có ít nhất
1 triệu lần đột biến chống lại những tác nhân bên ngoài trong đó có kháng sinh. Các gene đột biến
đề kháng với kháng sinh có khả năng truyền lại cho thế hệ sau và tạo ra những dòng vi khuẩn lờn
thuốc.
Theo Lâm Hồng Tường (1997), sự đề kháng thuốc của vi trùng có thể do quá trình thích
ứng chọn lọc hoặc do di truyền từ thế hệ trước. Một số vi sinh vật, sau một thời gian tiếp xúc với
kháng sinh, trở nên thích ứng được và “chai lỳ” (Persisting), không chuyển hóa, không nhân lên
nữa, chúng trở thành dạng kháng thuốc không di truyền, tuy nhiên, chúng có thể phục hồi trở lại
dạng cũ và nhân lên được. Một số vi trùng bị mất cấu trúc đích đặc hiệu, chẳng hạn như vi trùng
nhạy cảm với penicilline bị mất vách, trở thành dạng “L”, sẽ kháng lại loại kháng sinh có cơ chế
ức chế vách tế bào vi trùng. Theo nghiên cứu của Dương Thanh Liêm và Kevin Liu (2001) một

trong những loài vi khuẩn gây bệnh phổ biến nhất trong chăn nuôi là E.coli, nó có rất nhiều typ
gây bệnh và luôn biến đổi đến mức người ta khó có thể chế được vaccin để phòng ngừa một cách
hữu hiệu. E.coli vừa biến đổi DNA trong nhân tế bào, vừa truyền đạt rất nhanh các Plasmide
chống lại kháng sinh để tạo ra thế hệ sau kháng thuốc nhanh chóng hơn. Năm 1954, Smith phát
hiện chủng E.coli ở bê kháng sulfamid, streptomycin, chloramphenicol. Năm 1957 Smith và
Crabb phát hiện nh
ững vùng không dùng tetracyclin làm thức ăn bổ sung thì không có hiện tượng
kháng thuốc.

11
Chủng vi khuẩn Loại kháng sinh Năm sử dụng
đầu tiên
Năm phát hiện
kháng thuốc
S. aureus Penicillin 1940 1958
S. aureus Methicillin 1960 1968
S. aureus Gentamycin 1964 1968
* Đào Huyên (2002)
Theo kết quả nghiên cứu của Trường Đại học Nông – Lâm thành phố Hồ Chí Minh ở
Tiền Giang và Vũng Tàu cho biết E.coli kháng lại tất cả các loại kháng sinh thường sử dụng
trong chăn nuôi như penicillin, erothromycin, tetracyclin, lincomycin, ampicillin, baxitracin,
amoxilin, chloramphenicol, flumequin, neomycin, kanamycin, colistin, gentamycin, norfloxacin
(Đào Huyên, 2002). Hệ quả quan trọng nhất của việc dùng kháng sinh trong chăn nuôi là làm
phát triển tính đa dạng kháng thuốc của vi sinh vật gây bệnh. Nghiên cứu mới đây của Viện
Pasteur –TP.Hồ Chí Minh cho biết hiện tượng lờn thuốc của vi khuẩn đã trở nên báo động, có tới
70% vi khuẩn S. Pneumoniae kháng co-trimoxazole, 66% kháng erythromycine, 32% kháng
penicilline G, 24% kháng chloramphenicol; với vi khuẩn Hinflienzae thì có 58% kháng co-
trimoxazole , 42% kháng chloramphenicol, 36% kháng ampicilline; với vi khuẩn S.aureus thì có
98% kháng penicilline G, 80% kháng erythromycine, 8% kháng gentamycine; Còn đối với vi
khuẩn E.coli thì 48% kháng co-trimoxazole, 46% kháng ampicilline và 26% kháng

chloramphenicol (theo báo Sài gòn giải phóng số ra ngày 5/11/2001). Một trong những nguyên
nhân gây ra sự đề kháng ngày càng mạnh của các vi khuẩn gây bệnh trên người chính là việc sử
dụng kháng sinh một cách bừa bãi để trị bệnh cho ngừơi và không khoa học trong việc phòng và
trị
bệnh cho gia súc. Kháng sinh sử dụng trong thức ăn gia súc và những tồn dư của nó trong sản
phẩm chăn nuôi sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm bệnh của con người khi con người sử dụng các sản
phẩm này. Mà nguyên nhân là do khả năng kháng thuốc của các dòng vi khuẩn gây bệnh ở động
vật và chúng cũng có khả năng lan truyền sang con người và kết qủa là khi con người bị nhiễm
bệnh sẽ làm cho khả năng chữa tr
ị khó, lâu dài và phức tạp hơn (ERS, 1996b., IOM, 1998).
* Tồn dư kháng sinh là nguy cơ cho sức khỏe cộng đồng
Kháng sinh tồn dư trong sản phẩm chăn nuôi sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm bệnh của con
người khi con người sử dụng các sản phẩm này. Mà nguyên nhân là do khả năng kháng thuốc của

12
các dòng vi khuẩn gây bệnh ở động vật cũng có khả năng lan truyền sang con người và kết qủa là
khi con người bị nhiễm bệnh sẽ làm cho khả năng chữa trị khó, lâu dài và phức tạp hơn (ERS,
1996b., IOM, 1998).
Theo kết quả điều tra của các cơ quan kiểm tra dư lượng hóa chất, các nước đều phát hiện
có tồn dư kháng sinh trong sản phẩm chăn nuôi. Van Dresser và Wileke cho biết trong sản phẩm
chăn nuôi của Mỹ có tồn dư streptomycin, penicillin, oxytetracyclin, sulfonamid. Năm 1997, cơ
quan kiểm tra tồn dư hóa chất Hàn Quốc cho biết có 6% số mẫu trong tổng số 45.000 mẫu thịt bò,
heo, gia cầm có tồn dư tetracyclin, sulfonamid. Năm 2000, Úc kiểm tra và phát hiện phần lớn số
mẫu thịt bò, heo, gà được kiểm tra có tồn dư sulfonamid (Đào Huyên, 2002).
Ở Việt Nam, theo điều tra của Lã Văn Kính và ctv. (2001) thì số mẫu tồn dư kháng sinh
trong thịt heo chiếm 75%, trong gan heo chiếm 66,7% trong tổng số mẫu nghiên cứu, lượng tồn
dư từ 3,67 đến 122 ppm, cao gấp hàng chục đến hàng chục nghìn lần tiêu chuẩn quốc tế. Theo
Đinh Thiện Thuận và ctv. (2002) thì tỷ lệ tồn dư chloramphenicol chiếm 65,62%, chlotetracyline
chiếm 60%, norfloxacin chiếm 29,11%, tylosin chiếm 28,57% và oxytetracylin chiếm 21,21%
trong các mẫu gan, thận và cơ của heo, lượng tồn dư cao hơn 2,5 đến 166 lần so với tiêu chuẩn

của Malaysia.
* Làm rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột
Thông thuờng khi sử dụng những kháng sinh có hệ phổ rộng nhất là khi dùng qua đường
uống sẽ tiêu diệt cả những vi khuẩn có ích trong đường ruột, từ đó hệ vi sinh vật trong đường ruột
bị thay đổi mà hậu quả của nó là gây tiêu chảy nặng, kéo dài và thiếu các vitamin E, K do vi
khuẩn đường ruột tạo ra.

4.1.2 Những sản phẩm từ dược thảo
Theo Robert A. Swick (1997) thì hầu hết thực vật đều có chứa chất bảo vệ để bảo vệ
chúng khỏi sự tấn công của vi khuẩn, nấm mốc; tương tự như ở động vật có khả năng đáp ứng
miễn dịch để bảo vệ bản thân chúng. Những chất chiết xuất từ thảo mộc có nhiều dạng phân tử
khác nhau nhưng sau khi được tách chiết và cô lập thì chúng đều thể hiện khả năng kháng khuẩn
tốt. Cây dượ
c thảo có chứa các saponin, alkaloid, ester, quinon, isobutylamid, những ester axit
carbocylic phenol và terpenoid có tác dụng thúc đẩy sinh trưởng và điều biến miễn dịch. Cây

13
dược thảo được dùng để bổ sung vào thức ăn có tác dụng thúc đẩy sinh trưởng cho gia súc, gia
cầm.
Wheeler và Wilson (1996) sử dụng chất bào chế từ thảo mộc, Nebsui, trong thức ăn cho
heo đã kết luận rằng thảo dược có ra tác dụng tốt trong kiểm soát bệnh lỵ, kích thích sinh trưởng,
đã cải thiện hệ số chuyển hóa thức ăn và làm giảm tỷ lệ mắc bệnh.
Weeler et al. (1997) dùng Livol là chế phẩm thảo mộc chứa Andrographis paniculata,
Boerhaavia diffusa, Terminalia arjuna, Citrusllus colocynthis, Eclipta alba, Terminalia chebula,
Aphanamixis rohituka, Ichnocarpus frutescens, Phyllanthus niruri, Fumaria parviflora,,
Achyranthes aspera, Azadirachta indica, Sida cordifolia, Swertia chirata, Tephrosia purpurea và
Canscora decussata bổ sung vào khẩu phần ăn của heo đã làm tăng tỷ lệ sinh trưởng của heo
(31,58% so với đối chứng), giảm tỷ lệ tiêu chảy (15,82% so đối chứng) và giảm hệ số chuyển hóa
thức ăn (5,14% so đối chứng).
Dumanovski và Urbanczyk (2000) làm thí nghiệm sử dụng thức ăn gồm bã quả nho, bột

thịt xương có bổ sung Kostovit Forte Premix và chất chiết từ thảo mộc trên heo vỗ béo, đã kết
luận rằng có thể sử dụng thảo dược thay thế tốt kháng sinh trong thức ăn cho heo.
Theo kết quả nghiên cứu của Lã Văn Kính và Phạm Tất Thắng (2004) sử dụng các chế
phẩm thảo dược với các chất hoạt tính chính là berberin, cineol và cucumin, bổ sung vào thức ăn
cho heo thịt đã cho kết quả tốt, có thể sử dụng thay thế kháng sinh trong thức ăn nhằm phòng
bệnh và kích thích tăng trưởng cho heo thịt.

4.1.3 Các chất khoáng hữu cơ
Khoáng là một trong những chất dinh dưỡng cần thiết cho gia súc, nó đóng vai trò quan
trọng trong các quá trình sinh lý, sinh hóa của cơ thể, duy trì sự sinh trưởng, phát triển của gia
súc. Trong cơ thể, một số chất khoáng ở dưới dạng các muối hòa tan trong dịch nội, ngoại bào,
máu và bạch huyết, tham gia trực tiếp hay gián tiếp trong việc duy trì các thông số của các dịch ở
mức ổn đị
nh. Đặc biệt các ion Na
+
, K
+
và Cl
-
được coi là 3 chất điện giải có vai trò sinh lý rất
quan trọng trong việc duy trì áp suất thẩm thấu của dịch nội, ngoại bào và cân bằng axit – bazơ
trong cơ thể động vật.

14
Na và Cl là các cation và anion chủ yếu ngoài tế bào ở trong cơ thể. Cl là anion chính
trong dịch dạ dày. Theo Meyer và ctv. (1950), Alcatara và ctv. (1980), Cromwell và ctv. (1981a),
Froseth và ctv. (1982a), Honeyfield và Froseth (1985) Kornegay và ctv. (1991) thì nhu cầu Na
của heo choai và heo vỗ béo không lớn hơn 0,8 – 0,1% trong khẩu phần và nhu cầu Cl không quá
0,08% đối với heo choai. Miller (1980) cho rằng hầu hết các nguyên lệu thức ăn có chứa tới 90 –
100% Na và Cl có thể hấp thu được. Thiếu Na hoặc Cl làm giảm tốc độ và hiệu quả sinh trưởng

của heo, trong khi đó nồng độ ion Na cao là nguyên nhân các phản ứng sinh lý bất lợi cho sự rối
loạn trong sự cân bằng nước.
Kali là chất khoáng có nhiều nhất trong tế bào cơ (Stant và ctv. 1969). K tham gia trong
cân bằng chất điện giải và hoạt động cơ thần kinh. Nó cũng là cation đơn hóa trị để cân bằng
anion bên trong tế bào và là một phần của cơ chế sinh lý bơm Na – K.
Na, K, Cl là các ion chính ảnh hưởng đến sự cân bằng chất điện giải và trạng thái axit –
bazơ của con vật. Trong mọi trường hợp, sự cân bằng khoáng khẩu phần được biểu thị bằng
miliequivalent (mEq) của Na+K-Cl (Mongin, 1981). Theo Austic và Calvert (1981), Golz và
Crenshaw (1990), Haydon và ctv. (1993) thì sự cân bằng tối ưu chất điện giải trong khẩu phần ăn
cho heo là 250 mEq của các ion dương tỏa ra (Na+K-Cl)/kg. Tuy nhiên theo Patience và ctv.
(1987), Kornegay và ctv. (1994) thì sự tăng trưởng tối ưu đạt được khi cân bằng khẩu phần có từ
0 tới 600 mEq/kg. Khi khẩu phần thiếu Na, K hoặc Cl thì mối tương quan giữa Na+K-Cl không
dự đoán được một cách chính xác mức độ khẩu phần để đạt tăng trưởng tối ưu (Mongin, 1981).
Paulicks et al. (1996) sử dụng potassium diformate làm chất kích thích sinh trưởng bổ sung
với tỷ lệ 0,9% trong thức ăn cho heo thịt và đã kết luận rằng, việc bổ sung potassium diformate
trong thức ăn cho heo thịt đã cải thiện 2% lượng thức ăn ăn vào, tăng 4% tăng trọng và giảm 3%
tiêu tốn thức ăn cho mỗi kg tăng trọng. Tác giả cũng
đã làm thí nghiệm so sánh giữa lô bổ sung
1,8% potassium diformate với lô bổ sung 40 ppm tylosin và với lô bổ sung 1,2% potassium
diformate + 150 ppm Cu. Kết quả cho thấy các chỉ tiêu về tăng trọng và tiêu tốn thức ăn cho mỗi
kg tăng trọng ở lô bổ sung 1,8% potassium diformate tương đương so với lô bổ sung tylosin. Tác
giả kết luận rằng hoàn toàn có thể thay thế sử dụng kháng sinh làm chất kích thích sinh trưởng
cho heo bằng cách sử dụng potassium diformate

15
Overland et al. (1999) đã kết luận rằng bổ sung 1,2% potassium diformate trong thức ăn
cho heo thịt đã làm giảm lượng vi sinh vật có hại trong đường tiêu hóa và giảm 0,4 đơn vị pH ở
tá tràng của heo

4.1.4 Các axit hữu cơ

Các axit hữu cơ như axit formic; fumaric; lactic; propionic; citric và phosphoric được bổ
sung vào thức ăn có tác dụng như các chất kháng khuẩn, ức chế hoạt động của các vi khuẩn có
hại, kích thích heo ăn nhiều, tăng khả năng sinh trưởng của heo (Robert A. Swick, 1997). Theo
nghiên cứu của Giesting D.W và R.A.Easter (1985), Kirchgessner Roth (1982) bổ sung các axit
hữu cơ với tỷ lệ từ 1% đến 2% tùy loại vào khẩu phần đã làm tăng hoạt lực của men pepsin và
làm giảm sự phát triển của các vi sinh vật có hại trong đường tiêu hóa.

4.1.5 Những chất tiền sinh học
Các sản phẩm như Lactobacillus, Bacillus, Saccharomyces (và nhiều vi sinh vật khác)
được dùng như là những chất thúc đẩy sinh trưởng (Robert A. Swick, 1997).

4.1.6 Enzyme
Là những chất xúc tác có nguồn gốc từ những vi sinh vậ
t có khả năng tiêu hóa những
thành phần thức ăn. Chúng đẩy mạnh sinh trưởng bằng cách thoái biến những chất có hại trong
thức ăn (như các polysaccharid tiêu hóa kém hoặc các protein kháng nguyên) (Robert A. Swick,
1997).
Năm 2000, Lã Văn Kính và ctv. Đã làm thí nghiệm bổ sung men Porzyme 9300 vào khẩu
phần cơ sở là tấm – cám gạo cho heo nuôi thịt đã cải thiện 3,42% tăng trọng, hệ số chuyển hóa
thức ăn giảm 3,37%, có thể hạ 4% mật độ dinh dưỡng trong khẩu phần, tiết kiệm 5,6% chi phí
thức ăn
Đỗ Hữu Phương (2003) làm thí nghiệm bổ sung men Porzyme 9302 vào thức ăn cho heo
thịt đã cải thiện tăng trọng 3,52 – 5,93%, giảm tiêu tốn thức ăn 3,70 – 7,41%, giảm chi phí thức
ăn 3,47 – 6,95% so với không bổ sung Porzyme 9302.


16
4.1.7 Những tác nhân điều biến miễn dịch
Đây là những thành phần điều biến và kích thích có chọn lọc đáp ứng miễn dịch. Một số
polysaccharid (như glucan, peptidolycan và fructo – oligosaccharid) hiện đang được sử dụng như

những chất kích thích miễn dịch. Những sản phẩm này sản sinh trở thành tế bào con men và
những sinh vật khác như Brevibacterium lactofermentum. Beta – glucan có tác dụng đẩy mạnh
sinh trưởng và làm giảm tỷ lệ hao hụt heo con do bệnh tật, giảm tỷ lệ tiêu chảy do streptococcus
suis (Robert A. Swick, 1997).

4.1.8 Carotenoid
Các carotenoid có tác dụng thúc đẩy sinh trưởng, kích thích miễn dịch và đẩy mạnh sinh
sản cho vật nuôi. Trong khẩu phần có bổ sung 2 ppm astaxanthin đã nâng cao tăng trọng 5% và
cải thiện hệ số chuyển hóa thức ăn 2%. Beta caroten phối hợp với vitamin E, biotin, axit folic và
vitamin C có tác dụng cải thiện năng suất sinh sản heo (Robert A. Swick, 1997).

4.1.9 Các peptid chuyển hóa
Những tác nhân như là nhân tố sinh trưởng biểu mô và poly peptid YY của tuyến tụy tăng
cường sự hấp thu glucose và amino axit khi được đưa vào trong xoang ruột. Những peptid này có
chức năng làm tăng số lượng những “thể vận chuyển dưỡng chất” có trong màng tế bào niêm mạc
(Robert A. Swick, 1997).

5. Tự cân đối khẩu phần, sản xuất thức ăn tại chỗ để hạ giá thành chi phí
Hầu hết các cơ sở chăn nuôi heo ở nước ta đều phải mua thức ăn h
ỗn hợp hoàn chỉnh hay
thức ăn đậm đặc từ các cơ sở sản xuất thức ăn, họ không biết chính xác thành phần của thức ăn
đó và trong thức ăn đó có các chất kích thích sinh trưởng, các chất độc hại hay không. Họ không
thể quyết định được chất lượng sản phẩm thịt heo của mình sản xuất ra, đồng thời họ cũng không
thể quyết định được giá thành của sản phẩm của mình trong khi chi phí thức ăn chiếm 65 – 70%
giá thành sản xuất heo thịt, vì thế việc các nhà chăn nuôi tự chủ động sản xuất thức ăn để phục vụ
cho đàn heo của cơ sở mình có thể góp phần quyết định đến giá thành sản phẩm. Hơn nữa, việc
tự sản xuất thức ăn sẽ chủ động cân đối được nhu cầu dinh dưỡng cho từng loại heo và vấn đề

17
quan trọng là biết được trong thức ăn do mình sản xuất ra gồm có những thành phần gì, tránh

được các yếu tố bất lợi liên quan đến chất lượng sản phẩm sau này như các chất tồn dư độc hại
trong thịt, đây là yếu tố quyết định đến chất lượng thịt có thể đáp ứng được nhu cầu cho xuất
khẩu.

III. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới cũng như các nhà khoa học trong
nước cho thấy, có nhiều giải pháp về thức ăn chăn nuôi, đáng chú ý nhất là sử dụng các chất bổ
sung trong thức ăn vừa có tác dụng kích thích tăng trưởng vừa có tác dụng phòng ngừa dịch bệnh,
đồng thời sản phẩm không có tồn dư các chất nguy hại đến sức khoẻ con người.
Thực hiện các giải pháp về thức ăn cho chăn nuôi lợn xuất khẩu phải đáp ứng được đồng
thời các vấn đề:
- Thức ăn và dinh dưỡng phải gắn liền giữa chăn nuôi và bảo vệ môi trường.
- Thức ăn và dinh dưỡng phải gắn liền với an toàn thực phẩm.
- Thức ăn và dinh dưỡng phải đáp ứng tính đa dạng sinh học và thị trường tiêu thụ.
- Thức ăn và dinh dưỡng phải gắn hiệu quả kinh tế giữa sản xuất thức ăn với chăn nuôi.
- Thức ăn và dinh dưỡng phải phù hợp với mô hình và qui mô sản xuất.
Với sự phát triển mạnh mẽ của ngành chăn nuôi và sản xuất thức ăn gia súc của nước ta
hiện nay, việc nghiên cứu và áp dụng các giải pháp về thức ăn chăn nuôi, đảm bảo có một nguồn
thức
ăn sạch, an toàn và giá thành hạ là một việc rất cần thiết để đạt được tiêu chuẩn “thịt sạch”
đáp ứng nhu cầu thị trường và cho xuất khẩu. Việc khuyến cáo các giải pháp về thức ăn chăn
nuôi cho các nhà sản xuất thức ăn và các nhà chăn nuôi là việc làm cần thiết hiện nay.



18
PHỤ LỤC
MỘT SỐ TIÊU CHUẨN CƠ BẢN VỀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI

1. Tiêu chuẩn thức ăn hỗn hợp cho lợn ngoại (TCVN 1547 – 1994)

Chỉ tiêu 10 – 20 kg 20 – 50 kg 50 – 90 kg
Hình dáng, màu sắc, mùi vị Màu sắc và mùi vị đặc trưng của nguyên
liệu phối chế, không có mùi men mốc, hôi
thối và mùi lạ khác.
Độ ẩm % khối lượng không lớn hơn 14
Phần còn lại trên mắt sàng có đường kính lỗ 2
mm, % khối lượng không lớn hơn
6 10
Năng lượng trao đổi, kilocalo, không nhỏ hơn 3200 3000 3000
Hàm lượng protein thô, %, không nhỏ hơn 19 17 14
Hàm lượng xơ thô, %, không lớn hơn 5 6 7
Hàm lượng canxi, %, không lớn hơn 0,8 0,7 0,5
Hàm lượng photpho, %, không lớn hơn 0,6 0,5 0,35
Hàm lượng natri clorua, %, không lớn hơn 0,5
Hàm lượng lysin, %, không nhỏ hơn 1,1 0,8 0,7
Hàm lượng methionin, %, không nhỏ hơn 0,6 0,5 0,4
Cát, sạn, %, không lớn hơn 1 2 2
Vật ngoại lai sắc cạnh Không được phép
Sâu bọ sống trong 1kg thức ăn, không lớn hơn 15 20 20

2. Nhu cầu dinh dưỡng của lợn thịt
(Tính trong 1 kg thức ăn theo hướng dẫn của NRC 1998)
Chỉ tiêu 10 – 20 kg 20 – 50 kg 50 – 90 kg
Năng lượng trao đổi (kcal/kg) 3.265 3.265 3.265
Protein thô (%) 20,9 18,0 15,5

19
Lysine (%) 1,15 0,95 0,75
Methionine (%) 0,30 0,25 0,20
Threonine (%) 0,74 0,61 0,51

Tryptophan (%) 0,21 0,17 0,14
Lượng thức ăn ăn vào (kg/ngày) 1,000 1,855 2,575


3. Hướng dẫn sử dụng một số dược phẩm trong thức ăn chăn nuôi heo
(Theo hướng dẫn của CFR - Code of Federal Food)
Tên thuốc Liều
(g/tấn)
Hướng dẫn sử dụng Ngưng thốc
(ngày)
Apramycin 150 Phòng chống bệnh tiêu chảy trên heo cai sữa do E.
Coli
28
Arsanilic acid 45-90 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn
cho heo sinh trưởng
55
Bacitracin
Methylne
10-30 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn
cho heo sinh trưởng và vỗ béo
Không

Disalicylate
250 Phòng trị bệnh lỵ heo sinh trưởng và vỗ béo , ở
những nơi chưa có bệnh lần nào
Không
250 Sử dụng cho heo bầu để phòng ngừa những rối loạn
tiêu hóa trên heo con bú mẹ
Không
10-50 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn

cho heo sinh trưởng và vỗ béo
Không
Bacitracin Zin 20 Cải thiện tăng trọng cho heo sinh trưởng và vỗ béo Không
20-40 Cải thiện hiệu qủa sử dụng thức ăn cho heo sinh
trưởng và vỗ béo
Không
Bambermycine 2 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn.
Sử dụng như thức ăn cơ bản
Không
2-4 Cải thiện tăng trọng. Sử dụng như thức ăn cơ bản Không

20
Cabadox 10-25 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn. 70
50 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn,
phòng chống bệnh lỵ và rối loạn tiêu hóa
70
10-50 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn. Không
50-100 Cải thiện tăng trọng, phòng rối loạn tiêu hóa, giảm
stress
Không
Chlotetracyclin 100-200 Điều trị vi khuẩn gây rối loạn đường ruột Không
200 Hạn chế tiến triển của bệnh leptospirosis Không
400 Hạn chế vi khuẩn leptospirosis, giảm tỷ lệ sảy thai
và giảm heo con sơ sinh chết khi có leptospirosis
hiện diện
Không
Chlotetracyclin
+ sulfathiazole
+ procain
penicillin

100
100
50
Sử dụng dưới dạng thức ăn nhóm C để giảm viêm
tử cung, trị vi khuẩn đường ruột, lỵ heo. Cải thiện
tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn cho heo
dưới 35kg, tăng đề kháng khi bị stress
15
Chlotetracyclin
+ sulfathiazole
+ procain
penicillin
100
100
50
Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn
cho heo từ cai sữa tới 6 tuần. Cải thiện tăng trọng
cho heo từ 6-16 tuần sau cai sữa, tăng đề kháng
phòng bệnh viêm teo mũi, viêm tử cung, vi khuẩn
đường ruột
7
Efrotomycin 3.6 Cải thiện hiệu qủa sử dụng thức ăn Không
3.6-14.5 Cải thiện tăng trọng Không
Erythromycin 10-65 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn
heo sau cai sữa (10-65) và heo trưởng thành (10)
Không
Hygromycin 12 Phòng trị nhiễm giun tròn, đũa, kim 15
Ivermectin 300 Phòng trị nhiễm giun tròn, đũa, kim, thận, phổi,
rệp, ghẻ
5

Levamisole 0.36/Ib Phòng trị nhiễm giun tròn, đũa, kim, thận, phổi, 3
20 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn. Không

21
Lincomycin 40 Phòng chống bệnh lỵ heo, sử dụng như thức ăn căn
bản cho những nơi có lịch sử vể bệnh lỵ nhưng
chưa xuất hiện triệu trứng
Không
100 Điều trị bệng lỵ heo, liều 100g/tấn được sử dụng
như thức ăn căn bản trong 3 tuần cho tới khi hết
bệnh, sau đó sử dụng liều 40g/tấn
6
Oleandomycin 5-12 Cải thiện tăng trọng và sử dụng thức ăn heo sinh
trưởng
Không
25-50 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn.
50 Phòng bệnh vi khuẩn đường ruột, tiêu chảy heo
con, lỵ heo

Oxytetracyclin 100 Phòng bệnh vi khuẩn đường ruột, tiêu chảy heo
con, lỵ heo

50-150 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn
khi có hiện diện bệnh viêm teo mũi

500 Giảm sảy thai khi có mầm bệnh leptospirosis, cải
thiện năng xuất heo con sơ sinh, giảm thải
leptospirosis qua nước tiểu, cải thiện tăng trọng.
Cho ăn 7-30 ngày trước khi heo nái đẻ
5

Penicillin 10-50 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn. Không
Roxarsone 23-35 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn. 5
182 Điều trị bệnh lỵ heo, cho ăn liên tục 6 ngày 5
Thiabendazole 46-90.8 Phòng nhiễm gian tròn 30
10 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn. Không
Tiamulin 35 Điều trị bệnh lỵ heo 2
200 Điều trị bệnh lỵ heo, sử dụng 2 tuần sau đó dùng
mức 35g
7
10-40 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn. Không
Tylosin 40-100 Phòng bệnh lỵ heo

22
100 Điều trị lỵ heo
Tylosin
Sulfamethazin
100 Duy trì tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn khi
có bệnh viêm teo mũi, phòng viêm phổi
15
10 Cải thiện tăng trọng và hiệu qủa sử dụng thức ăn. Không
Virginiamycine 25 Phòng chống bệnh lỵ heo, cho những nơi có lịch sử
vể bệnh lỵ nhưng chưa xuất hiện triệu trứng
Không
100 Trị bệnh lỵ heo trong 2 tuần cho những heo không
sinh sản trên 50kg
Không

Theo hướng dẫn của Cơ quan quản lý thuốc Hoa Kỳ
Tên thuốc sử dụng Tỷ lệ trộn (g/tấn) Thời gian ngưng
thuốc (ngày)

Apramycin sulfate 150 28
Arsanilic acid 45-90 5
Bacitracin methylene disalicylate 10-250 0
Bacitracin zinc 20-50 0
Bambermycin 2-4 0
Carbadox 10-50 42
Chlotetracycline 10-400 0-14
Chlotetracycline – sulfamethazine-penicilline 7-15
Chlotetracycline – tiamuline 2/14
Diclorvos 334-500 0
Fenbendazole 9mg/kg BW 0
Hygromycin B 12 15
Ivermectin 1.8-11.8 5
Levamysole 0.08% 3
Lincomycin hydrochloride 20-200 0
Neomycin 25mg/kg BW/ngày 3

23
Neomycin-terramycin 35-140 / 50-100 5-14
Oxytetracycline 10-50 5-14
Penicillin procaine 10-50 0
Pyrantel tartrate 1
Roxarxone 0.0025-0.02% 5
Tetracycline 0/14
Tiamulin 10-200 0-7
Tilmicosin 181-363 7
Tylosin phosphate 10-100 0
Tylosin-sulfamethazine 100 15
Virginiamycin 5-100 0


4. Thời gian ngưng thuốc tối thiểu của một số kháng sinh
(tham khảo )
Tên kháng sinh Công dụng Ngưng thuốc
Flumequyl Trị hô hấp, tiêu hóa, máu 7 ngày
Enrofloxacin Đặc trị hô hấp, tiêu hóa 5 ngày
Neomycine sulphate Đặc trị hô hấp, tiêu hóa 3 ngày
Flumequin Trị tiêu hóa, tụ huyết trùng 15 ngày
Chlotetracycline Trị hồng lỵ, hô hấp, suyễn 7 ngày
Clopindol, menadione Trị cầu trùng 5 ngày
Colistine Trị tiêu hóa Không
Gentamycine Trị hô hấp, đường máu, tiêu hóa 12 ngày
Oxytetracycline Trị tiêu hóa, hô hấp, chống viêm 8 ngày
Lincomycine, Trị tiêu hóa, hô hấp 14 ngày
Flumequyl Trị đường máu, hô hấp, tiêu hóa 7 ngày
Gentamycin Trị tiêu hóa, hô hấp 7 ngày
Norfloxacin Trị tiêu hóa, hô hấp 7 ngày

×