TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
================
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ
CHIẾN LƯỢC THÂM NHẬP CỦA CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC
GIA VÀO CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ CÁC HÌNH
THỨC THỦ ĐOẠN CHUYỂN GIÁ CỦA CÁC CÔNG TY ĐA
QUỐC GIA Ở CÁC NƯỚC NHẬN ĐẦU TƯ
Sinh viên thực hiện:
Hán Thu Thảo 12 1111 0594 STT: 113
Lê Thị Phương Nhung 12 1111 0507 STT: 92
Trần Thị Giang Thu 12 1111 0635 STT: 116
Lớp: Pháp 3 - K51 – KTĐN
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Lan.
PHẦN MỞ ĐẦU
Hà Nội, tháng 10 năm 2013
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và cách mạng khoa học-
công nghệ, hoạt động của các Công ty đa quốc gia – MNCs (Multinational Coporations)
hay MNEs (Multinational enterprises) đã, đang và sẽ là lực lượng chủ đạo thúc đẩy quá
trình toàn cầu hoá, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội trên toàn thế
giới. Chúng là lực lượng chủ chốt trong truyền tải khoa học công nghệ và kĩ thuật tiên
tiến, cơ cấu lại nền kinh tế thế giới và cũng là hình mẫucủa các tổ chức sản xuất hàng hoá
hiện đại.Vì vậy, các công ty đa quốc gia đang càng ngày càng thâm nhập một cách mạnh
mẽ vào tất cả các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế đang và kém phát
triển.
Quá trình toàn cầu hoá đã thúc đẩy sự phát triển và phụ thuộc lẫn nhau của nền kinh
tế giữa các quốc gia, đồng thời dẫn đến những thay đổi sâu sắc và lớn lao trong nhiều lĩnh
vực của nền kinh tế thế giới.Các Công ty đa quốc gia đã ngày càng phát huy được vai trò
to lớn của mình trong nền kinh tế thế giới.Các Công ty lớn mạnh có nguồn tài chính dồi
dào để phục vụ cho quan hệ công chúng và vận động hành lang chính trị, có các nhà
chính trị đại diện cho nêncũng có thể có ảnh hưởng lớn đến quan hệ quốc tế và nền kinh
tế khu vực. Nói cách khác, trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, các Công ty đa quốc gia
đóng vai trò then chốt.
Trong toàn cầu hoá kinh tế thế giới, Công ty đa quốc gia là động lực quan trọng cho
sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá trên toàn thế giới nói chung và cho từng quốc
gia nói riêng. Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia, chúng góp phần nâng cao trình độ khoa
học kỹ thuật, làm biến đổi cơ cấu kinh tế ngành thông qua chuyển giao và nâng cao trình
độ công nghệ, mở rộng thị trường, nâng cao trình độ quản lý góp phần tăng trưởng cho
các nền kinh tế. Các Công ty đa quốc gia cũng có tác động tích cực đến các hoạt động
thương mại, đầu tư trực tiếp, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cũng như phát
triển các nguồn lực khác.
Một trong số những vấn đề mà người ta nghĩ đến khi nhắc đến các Công ty đa quốc
gia chính là hiện tượng chuyển giá. Chuyển giá là một trong những vấn đề còn
khá mới mẻ trong hoạt động
thương mại ở Việt Nam, nhưng gần đây các giao dịch có yếu
tố nước ngoài ngày càng xuất hiện nhiều dấu hiệu của hiện tượng chuyển giá. Hiện tượng
này không chỉ gây thiệt hại cho chính phủ nước chủ nhà do bị thất thu thuế, giảm phần lợi
2
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
nhuận của bên góp vốn của nước chủ nhà (do giá trị góp vốn của họ thấp) mà còn ảnh
hưởng tiêu cực đến thương mại quốc tế. Do các quy luật của thị trường tự donên chuyển
giá đã gây ra không ít nhiễu loạn trong quá trình lưu thông. Điều này dẫn đến tình trạng
cạnh tranh không lành mạnh.
Sự thâm nhập của các Công ty đa quốc gia ngày càng nhiều vào nền kinh tế các nước
đang phát triển là một xu hướng tất yếu, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế; đồng thời, cũng đặt nền kinh tếcác nước này, trong đó có Việt Nam, trước nhiều thách
thức.Bên cạnh những ảnh hưởng không tốt (họ du nhập những ý tưởng và hình ảnh khiến
cho một số chính phủ và tôn giáo lo ngại về sự bất ổn cho xã hội), thì các Công ty đa quốc
gia lại mang lại một lợi ích to lớn cho các quốc gia sở tại như đóng thuế, tạo công ăn việc
làm, cung cấp sản phẩm và dịch vụ mà trước đó không có, trên hết là nguồn vốn, công
nghệ và kiến thức. Chính sự quốc tế hóa hoạt động kinh doanh của các Công ty đa quốc
gia mà nguyên nhân chủ yếu tác động đến sự hình thành và phát triển của các luồng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Với các câu hỏi đặt ra như: Chiến lược thâm nhập của các Công ty đa quốc gia tác
động tới nền kinh tếcác nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam như thế nào? Chúng
ta cần có giải pháp gì đểhạn chếnhững tác động tiêu cực và khai thác có hiệu quả tác động
tích cực từ các Công ty đa quốc gia?Các hình thức và thủ đoạn “chuyển giá” mà các Công
ty đa quốc gia áp dụng vào các nước nhận đầu tư? Làm rõ được những nội dung này thực
sựlà vấn đề quan trọng và cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.Chính vì lí do đó,
nhóm em đã chọn đề tài: ”Chiến lược thâm nhập của các Công tyđa quốc gia vào các nước
đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các Công ty đa quốc gia ở
các nước nhận đầu tư” làm tiểu luận môn Tài chính tiền tệ.
Bài tiểu luận bao gồm ba chương: chương I khái quát, đưa ra những nhận định
chung nhất về Công ty đa quốc gia, để từ đó hiểu được và có cái nhìn tổng thể về các
chiến lược thâm nhập vào các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá của chúng sẽ
được giới thiệu trong chương II và III, với những tác động tích cực cũng như những hệ
lụy mà chúng mang lại cho nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế các quốc gia mà
chúng có trụ sở.
3
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
MỤC LỤC
I. Tổng quan về công ty Đa quốc gia
II.
4
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
Phần I
Tổng quan về Công ty đa quốc gia
1. Khái quát về Công ty đa quốc gia:
1.1. Nguyên nhân ra đời của Công ty đa quốc gia:
Tiền thân của các Công ty đa quốc gia là Công ty quốc gia.Công ty quốc gia này
mang quốc tịch của một nước và vốn đầu tư vào Công ty này thuộc quyền sở hữu của
các nhà tư bản nước sở tại.Việc kinh doanh của họ ngày càng phát triển, hàng hóa và
dịch vụ được sản xuất ra ngày càng nhiều và chất lượng cao hơn. Từ thập niên 80, cùng
với xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, các Công ty quốc gia tiến hành sáp nhập
với nhau tạo thành Công ty đa quốc gia, nhằm mục đích:
Phục vụ mục tiêu lớn nhất là tối đa hóa giá trị tài sản Công ty nhờ việc khai thác các
tiềm năng tại chỗ như: không ngừng tìm kiếm các nguồn nguyên liệu và nhân công với
giá cả so sánh, tìm kiếm những ưu đãi về thuế, bảo vệ tính độc quyền đối với công nghệ
hay bí quyết sản xuất ở một ngành không muốn chuyển giao cũng là lý do mở rộng khu
vực sản xuất.
Sự liên kết giữa các Công ty quốc gia nhằm tăng khả năng bảo vệ trước những rủi ro.
Ví dụ, rủi ro trong mua bán hàng hóa như vận chuyển, bảo hiểm, chu kỳ cung cầu,… Rủi
ro trong chuyển dịch tài chính như: rủi ro khi chính sách của chính quyền địa phương thay
đổi, các rủi ro về tỷ giá lạm phát, chính sách, quản lý ngoại hối, thuế, khủng hoảng nợ…
Giảm thiểu sự không ổn định của chu kỳ kinh doanh nội địa, chống lại chính sách bảo hộ
mậu dịch ở các nước, bảo vệ thị phần, giảm chi phí trung gian đáp ứng nhanh nhu cầu
người tiêu dung.
Cuối cùng là, các Công ty đa quốc gia có thể sử dụng các công nghệ chế tạo trực
tiếp sản xuất theo bằng sáng chế (một bên là nhà cung cấp cho phép sử dụng bằng sáng
chế, một bên trả phí định kỳ cố định và gia tăng theo sản xuất), điều này cho phép họ
độc quyền sản xuất và trực tiếp bán sản phẩm ở nước ngoài.
Cạnh tranh gay gắt thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật, nhiều ngành kỹ nghệ
mới ra đời như công nghệ sinh học, điện tử, người máy…đòi hỏi nhiều vốn, nhiều kỹ
5
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
thuật cao cấp, Công ty một quốc gia không thể đủ sức đáp ứng cho nên sự ra đời của
Công ty đa quốc gia là cần thiết.
1.2. Khái niệm Công ty đa quốc gia:
• KN1: MNC (Multinational Corporation): Là khái niệm để chỉ các Công ty sản
xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Viết tắt là MNC, có ngân sách vượt
cả ngân sách của nhiều quốc gia. Công ty đa quốc gia có ảnh hưởng lớn đến các mối
quan hệ quốc tế và các nền kinh tế của các quốc gia. Các Công ty đa quốc gia đóng
một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa.
• KN2: Công ty đa quốc gia là Công ty có hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc
cung cấp dịch vụ thông tin không chỉ nằm gói gọn trong lãnh thổ của một quốc gia
mà hoạt động sản xuất kinh doanh và cung cấp dịch vụ trải dài ít nhất ở hai quốc gia
và có Công ty có mặt lên đến hơn trăm quốc gia khác nhau
• KN3: Công ty đa quốc gia (MNC) là tổ chức sản xuất kinh doanh dịch vụ và
khoa học kỹ thuật được thành lập dựa trên các hiệp định Chính phủ hoặc hợp đồng
hợp tác kinh doanh giữa các tổ chức tư nhân ở các nước khác nhau.
1.3. Các loại hình Công ty đa quốc gia (cấu trúc):
• Công ty đa quốc gia “theo chiều ngang” sản xuất các sản phẩm cùng loại hoặc
tương tự ở các quốc gia khác nhau (ví dụ: McDonalds).
• Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc” có các cơ sở sản xuất ở một số nước nào
đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của nó ở một số nước khác (ví dụ:
Adidas).
• Công ty đa quốc gia “nhiều chiều” có các cơ sở sản xuất ở các nước khác nhau
mà chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc (ví dụ: Microsoft)
2. Đặc điểm của Công ty đa quốc gia:
2.1. Quy mô, doanh thu và phạm vi hoạt động lớn
Sở hữu của các Công ty đa quốc gia là sở hữu có tính chất đa chủ và đa quốc tịch
thể hiện ở sự tham gia của nhiều chủ sở hữu ở các nước khác nhau đối với tài sản của
6
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
Công ty được phân bổ trên phạm vi toàn cầu. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong
Công ty đa quốc gia nhằm mục tiêu quan trọng nhất là giải quyết những khó khăn về
vốn phục vụ kinh doanh. Vì vậy sau khi thành lập Công ty đa quốc gia, các Công
tythành viên phát triển nhanh hơn, tài sản có quyền sở hữu cũng tăng lên khá nhanh, từ
đó tổng tài sản cũng tăng lên đáng kể.
Các Công ty đa quốc gia thường sở hữu các yếu tố có tính cốt lõi và quyết định đối
với quy trình sản xuất: vốn đầu tư, bí quyết công nghệ, các kỹ năng quản trị và mạng
lưới hoạt động toàn cầu. Do đó, tạo khả năng sinh lợi rất lớn và mang tính tiên phong
nhằm tạo lợi thế cạnh tranh vượt trội so với các đối thủ. Các Công ty đa quốc gia cũng
thường thu hút một lượng lớn lao động ở chính quốc và các quốc gia khác.
2.2. Các Công ty đa quốc gia là Công ty đa ngành, tức là hoạt động trong nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực:
Hoạt động trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực như tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, nghiên cứu ứng dụng về khoa học công nghệ…là xu hướng có tính quy luật cùng
với sự phát triển của các Công ty đa quốc gia. Ví dụ, Mitsubishi ban đầu chỉ hoạt động
trong lĩnh vực cơ khí chế tạo nhưng nay đã hoạt động trong các lĩnh vực như khai
khoáng, luyện kim, hóa chất, luyện kim, ngân hàng,…
Với sự kết hợp ngày càng chặt chẽ giữa các lĩnh vực có liên quan trong hoạt động
sản xuất kinh doanh và sự liên kết giữa nghiên cứu khoa học và sản xuất đã tăng thêm
lợi thế so sánh cho các Công ty đa quốc gia trong việc mở rộng địa bàn hoạt động và
gia tăng lợi nhuận.
2.3. Sự đa dạng về cơ cấu tổ chức và sở hữu vốn:
Về cơ cấu tổ chức, được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện và hiệp thương.
Cần nhấn mạnh, Công ty đa quốc gia không phải là một doanh nghiệp, không có tư
cách pháp nhân độc lập. Do đó các mệnh lệnh hành chính không được sử dụng trong
điều hành các Công ty đa quốc gia. Các doanh nghiệp là thành viên của Công ty đa
quốc gia đều có pháp nhân độc lập, có cơ quan quyền lực cao nhất như hội đồng thành
viên, đại hội cổ đông.
7
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
Sở hữu vốn của Công ty đa quốc gia cũng rất đa dạng. Trước hết vốn trong Công ty
đa quốc gia là do các Công ty thành viên làm chủ sở hữu, bao gồm cả vốn tư nhân và
vốn nhà nước. Quyền sở hữu vốn trong Công ty đa quốc gia cũng tùy thuộc vào mức
độ phụ thuộc của các Công ty thành viên vào Công ty mẹ.
2.4. Đặc điểm xu hướng phát triển:
Thay đổi trong lĩnh vực đầu tư: trong hoạt động đầu tư của mình có sự chuyển
dịch từ công nghiệp khai thác tài nguyên sang công nghiệp chế biến sản phẩm, đem lại
giá trị cao hơn; từ công nghiệp thâm dụng lao động nhiều chuyển sang đầu tư vào các
ngành sử dụng nhiều kĩ thuật và công nghệ mới và sang các ngành dịch vụ điện tử,
dịch vụ thương mại, tài chính ngân hàng, y tế, giáo dục…
Các Công ty đa quốc gia ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển của
kinh tế thế giới: Hiện nay các Công ty đa quốc gia chiếm đến 2/3 trị giá thương mại
quốc tế, chiếm 4/5 tổng giá trị đầu tư FDI; 9/10 thành quả nghiên cứu khoa học và
chuyển giao kĩ thuật của thế giới; chiếm 95% hoạt động XNK lao động quốc tế… và
các Công ty đa quốc gia đóng vai trò trọng yếu trong đẩy nhanh quốc tế hóa đời sống
kinh tế toàn cầu, biến mỗi nước trở thành một bộ phận của kinh tế thế giới.
Mở rộng các hình thức liên kết kinh tế để tăng cường khả năng cạnh tranh: Để mở
rộng phạm vi thế lực, tăng sức cạnh tranh phù hợp với bước phát triển mới của kinh tế
và kĩ thuật, cùng với chiến lược sáp nhập, các Công ty đa quốc gia lớn còn đẩy mạnh
hoạt động liên hợp. Đó là sự thiết lập quan hệ hợp tác giữa hai hoặc nhiều Công ty đa
quốc gia ngang sức cùng hoặc khác quốc tịch nhằm thực hiện mục tiêu nào đó.
Đa dạng hóa và chuyên môn hóa cao độ là một xu hướng chiến lược mới của mỗi
Công ty đa quốc gia: Các Công ty thông qua sản xuất nhiều chủng loại sản phầm hoặc
thỏa mãn nhiều lĩnh vực dịch vụ khác nhau để giảm bớt rủi ro, tìm kiếm cơ hội kinh
doanh mới, đối phó với tình trạng kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, nhu cầu thị trường
giảm sút. Một số khác lại “ thu hẹp chiến tuyến”, loại bỏ các hoạt động sản xuất “ngoại
vi”, dốc toàn lực phát huy thế mạnh chuyên môn của mình.
8
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
3. Vai trò của các Công ty đa quốc gia:
3.1. Vai trò tích cực của các Công ty đa quốc gia:
• Thúc đẩy Thương mại quốc tế phát triển:
Một trong những vai trò nổi bật của Công ty đa quốc gia là thúc đẩy thương mại
quốc tế phát triển, thúc đẩy nhanh quá trình nhất thể hóa nền kinh tế thế giới.Công ty
đa quốc gia chi phối hầu hết chu chuyển hàng hoá giữa các quốc gia bởi các kênh lưu
thông xuyên quốc gia của mình. Một đặc điểm nữa là trao đổi giữa các chi nhánh trong
nội bộ Công ty đa quốc gia của các nước ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng giá trị thương mại nhiều nước. Trong những năm gần đây, với chiến lược đa
quốc gia và tạo ra các liên kết giữa thương mại và đầu tư giữa các nước với nhau.
• Thúc đẩy đầu tư nước ngoài: thông qua việc các Công ty đa quốc gia
đầu tư vốn vào các nước đang phát triển:
Trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiện qua kênh đẩu
tư nước ngoài của các Công ty đa quốc gia. Các Công ty đa quốc gia thúc đẩy nhanh
quá trình tự do hóa đầu tư nước ngoài thông qua tham gia sâu rộng vào quá trình quốc
tế hóa sản xuất. Các cản trở về đẩy mạnh tự do hóa đầu tư đã được tháo bỏ, để các
nước trên thế giới cùng được tham gia vào quá trình tự do hóa kinh tế quốc tế. Với lợi
thế của mình về nhiều vốn, kỹ thuật hiện đại, quản lý tiên tiến và mạng lưới thị trường
rộng lớn, các Công ty đa quốc gia luôn tích cực đầu tư ra nước ngoài nhằm tối đa hóa
lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Xu hướng sát nhập, mua lại và thôn tính các Công ty
khác của các Công ty đa quốc gia tăng nhanh hơn là hình thức xây dựng doanh nghiệp
mới để mở rộng đầu tư ra thị trường ngoài nước. Chính xu thế gia tăng này là nguyên
nhân quan trọng gây bùng nổ đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra chúng ta cũng phải nói tới sự tích lũy về vốn ở các nước chủ nhà. Với thế
mạnh về vốn các Công ty đa quốc gia đóng vai trò là động lực thúc đẩy tích luỹ vốn
của nước chủ nhà. Nước chủ nhà có thể tăng cường thu hút vốn FDI đầu tư vào nước
mình. Vai trò này của Công ty đa quốc gia cũng được thể hiện qua nhiều khía cạnh.
9
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
Tóm lại, Công ty đa quốc gia đóng vai trò rất to lớn trong hoạt động đầu tư quốc
tế. Xét trên góc độ nền kinh tế toàn cầu thì Công ty đa quốc gia thúc đẩy lưu thông
dòng vốn FDI trên phạm vi toàn thế giới. Mặt khác, ở góc độ từng quốc gia riêng thì
Công ty đa quốc gia góp phần làm tăng tích luỹ vốn cho nước chủ nhà.
• Làm thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế:
Ngày nay, kinh tế thế giới càng phát triển thì vai trò của các Công ty đa quốc gia
cũng ngày càng cao. Với tỷ trọng lớn trong thương mại thế giới thì các Công ty đa
quốc gia chính là chủ thể chính làm thay đổi cơ cấu hàng hoá và cơ cấu đối tác trong
thương mại thế giới.
• Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm:
Các Công ty đa quốc gia đóng vai trò quan trọng đối với phát triển nguồn nhân lực
và tạo việc làm ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Một vai trò quan
trọng khác phải nhắc tới là Công ty đa quốc gia tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho lực
lượng lao động phụ nữ ở các nước đang phát triển.Hơn nữa tiền lương và điều kiện lao
động ở các Công ty đa quốc gia thường cao hơn tiền lương và điều kiện lao động ở các
Công ty nội địa.
• Công ty đa quốc gia với hoạt động chuyển giao công nghệ:
Công nghệ là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường và giứ
thế độc quyền. Do đó, trong quá trình thực hiện đầu tư ra nước ngoài các Công ty đa
quốc gia thường có những phương thức và những kênh riêng để thực hiện hoạt động
chuyển giao công nghệ của mình.Không chỉ nắm giữ trong tay phần lớn công nghệ tiên
tiến của thế giới các Công ty đa quốc gia còn biết cách sử dụng và khai thác các công
nghệ đó một cách có hiệu quả nhất nhằm duy trì vị trí độc quyền trên thị trường, mở
rộng phạm vi ảnh hưởng và khả năng lũng đoạn thị trường.
Thông qua hoạt động sản xuất, thương mại các Công ty đa quốc gia đã không
ngừng có những phát minh, sáng chế và phổ biến những kinh nghiệm về quản lý, các ý
tưởng mới, và các sáng tạo khác trên phạm vi toàn cầu. Có thể nói tính sáng tạo là đặc
trưng riêng của các Công ty đa quốc gia mà không tổ chức nào có được. Tuy nhiên, quá
trình chuyển giao công nghệ thường đi kèm với quá trình độc quyền hoá. Do đó, các
nước đang phát triển trong quá trình tiếp nhận công nghệ cần nhận thức rõ vai trò của
10
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
các Công ty đa quốc gia đồng thời có những đối sách thích hợp để vừa phát huy tối đa
tác dụng tích cực của Công ty này đối với nền kinh tế vừa hạn chế sự kìm hãm của
chúng.
3.2. Ảnh hưởng tiêu cực:
Tác động tiêu cực từ nguồn vốn đầu tư của các Công ty đa quốc gia đối với các nước
đang phát triển được thể hiện qua nhiều khía cạnh:
Thứ nhất, các Công ty đa quốc gia gặt hái nhiều lợi nhuận ở các nước đang phát triển
nhờ vị trí siêu độc quyền của họ trong các nền kinh tế này.Tuy nhiên phần lớn các khoản
lợi nhuận này được chuyển ra nước ngoài cho Công ty mẹ chứ không được tái đầu tư ở
nước chủ nhà.
Thứ hai, các Công ty đa quốc gia còn tính giá phí quá cao khi chuyển giao công nghệ
cho Công ty con.Các Công ty con phải phụ thuộc nhiều vào máy móc, thiết bị, linh phụ
kiện hơn so với các Công ty trong nước. Các Công ty đa quốc gia làm tăng sự phụ thuộc
của nền kinh tế các nước đang phát triển vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa
của các Công ty này. Các Công ty đa quốc gia tiến hành đầu tư, lập nhiều khu công
nghiệp, các nhà máy chế tạo sản phẩm. Các quy trình đều do các Công ty mẹ nắm giữ và
được chuyển giao dần dần cho các nước đang phát triển. Đồng thời các Công ty đa quốc
gia cũng nắm giữ những đường dây tiêu thụ hàng hóa từ các nước phát triển.Chính vì vậy
nước đang phát triển càng dựa nhiều vào đầu tư nước ngoài của các Công ty đa quốc gia
thì sự phụ thuộc về kinh tế ngày càng lớn.
Thứ ba, các Công ty đa quốc gia thường được vay ưu đãi từ ngân hàng ở nước chủ
nhà nhiều hơn so với các Công ty trong nước.Đây cũng được coi là một trong những
nguyên nhân dẫn đến khả năng cạnh tranh của Công ty trong nước luôn kém hơn các
Công ty đa quốc gia này. Một khía cạnh khác nữa là đầu tư vào các nước đang phát triển
của các Công ty đa quốc gia có thể xảy ra tình trạng khiến các Công ty nội địa đi tới phá
sản do các Công ty đa quốc gia có thế mạnh về tài chính, kỹ thuật và đôi khi còn được
hưởng những ưu đãi lớn hơn so với Công ty nôi địa.Như vậy các nước này cần phải xây
dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng, cơ chế luật pháp đảm bảo cho doanh nghiệp trong
nước không bị bất lợi hơn các doanh nghiệp nước ngoài.
11
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
Thứ tư, nhiều Công ty đa quốc gia còn không góp phần thúc đẩy kỹ năng kinh doanh
ở nước chủ nhà, bởi lẽ họ thâm nhập vào thị trường các nước đang phát triển bằng con
đường mua lại doanh nghiệp trong nước hoặc sử dụng nguồn lực vượt trội của mình để
loại bỏ đối thủ cạnh tranh trong nước.
Thứ năm, nhiều nhà máy khai thác tài nguyên thuộc các Công ty đa quốc gia còn gây
ô nhiễm môi trường cho các nước đang phát triển.VDoanh nghiệphư người dân ở Ilo,
Peru bị mắc bệnh về đường hô hấp và nhiều vấn đề sức khỏe khác do ô nhiễm không khí
và nguồn nước từ một nhà máy đúc đồng thuộc 3 tập đoàn lớn của Mỹ, mỗi ngày nhà máy
này thải vào không khí 2000 tấn Sunphuadioxit, gấp 10 – 15 lần so với mức cho phép ở
Mỹ. Các nhà phê bình còn cho rằng nhân công ở các nhà máy này chỉ được trả lương rất
thấp, điều kiện làm việc, quy định về y tế, an toàn lao động đều thấp hơn so với Mỹ. Các
Công ty đa quốc gia trong một số trường hợp cũng thông qua đầu tư nước ngoài để “ xuất
khẩu ô nhiễm môi trường từ các nước phát triển – nơi mà luật pháp và các biện pháp
cưỡng chế bảo vệ môi trường khác chặt chẽ - sang các nước đang phát triển – nơi mà luật
pháp và các biện pháp cưỡng chế, luật bảo vệ môi trường không hữu hiệu.
Thứ sáu, tình trạng phân phối thu nhập không đều ở các nước nhận đầu tư cũng là
một tác đông tiêu cực cần phải nhắc tới ở đây.Thường tiền lương của nhân công, lao đông
làm trong các Công ty liên doang bao giờ cũng cao hơn mức trung bình ở địa phương.
Thứ bảy, một tác động tiêu cực khác của các Công ty đa quốc gia là can thiệp vào nền
chính trị của các nước nhận đầu tư thông qua một số cách khác nhau. Tuy vậy, thường thì
các Công ty đa quốc gia đánh giá cao sự ổn định chính trị của một nước, như vậy họ có
thể yên tâm đặt lòng tin và đầu tư vào nước đó. Ngoài ra các Công ty đa quốc gia còn có
ảnh hưởng tới cơ cấu xã hội của nước nhận đầu tư. Khi các Công ty đa quốc gia đầu tư
vào một nước thì sẽ tạo ra việc làm, thu nhập cho số đông người dân nước đó, những
người đó có thu nhập và địa vị ổn định trong xã hội, còn lại một phần lớn những người
không hòa nhập vào xã hội công nghiệp và do đó tạo ra sự phân cấp trong xã hội khá rõ
rệt.
12
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
Phần II
Chiến lược thâm nhập thị trường của Công ty đa quốc gia
Trong những thập kỷ vừa qua các Công ty đa quốc gia (MNCs) đã đầu tư hàng tỷ
USD ra nước ngoài theo hình thức đầu tư song phương: Hoa Kỳ đầu tư vào Cộng đồng
kinh tế Châu Âu và ngược lại; Nhật Bản đầu tư vào Hoa Kỳ và ngược lại; Canada đầu tư
trực tiếp vào Hoa Kỳ và ngược lại,….
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, MNCs đã chuyển hướng đầu tư vào các nước
đang phát triển và những nước đang chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị
trường. Ví dụ trong giai đoạn 1991-1995, Công ty Volkswagen đã đầu tư 6 tỷ USD vào
nhà sản xuất ô tô Skoda của Cộng Hoà Czech; hoặc Opel (Đức) đã đầu tư xây dựng một
nhà máy sản xuất ô tô trị giá 680 triệu USD tại Đông Đức. Sự chuyển hướng đầu tư này
bắt nguồn từ một số lý do như sau: triển vọng sinh lời tại những thị trường này cao dù
rằng những rủi ro về kinh tế và chính trị còn lớn; các chương trình tư nhân hóa được tiến
hành rộng khắp tại các nước Nam Mỹ và đây là một cơ hội cho MNCs thâm nhập vào khu
vực này; mặt khác, sự tăng trưởng mạnh mẽ và đầy triển vọng của Nhật Bản trong thập
niên 80 của thế kỷ 20 đã dẫn đến việc đầu tư vốn của Nhật ra thị trường nước ngoài. Với
sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học - công nghệ, hoạt
động của MNCs đang và sẽ là lực lượng chủ đạo thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, tác
động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trên phạm vi quốc tế. Chúng là lực
lượng chủ chốt trong truyền tải khoa học, kỹ thuật và công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế
thế giới, và là mẫu hình thực hiện kiểu tổ chức sản xuất hàng hoá hiện đại.
Với các câu hỏi đặt ra như: Quá trình thâm nhập của MNCs tác động tới nền kinh tế
các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam như thế nào? Chúng ta cần có giải pháp gì
để hạn chế những tác động tiêu cực và khai thác có hiệu quả tác động tích cực từ MNCs?
Làm rõ được những nội dung này thực sự là vấn đề quan trọng và cấp thiết, có ý nghĩa cả
về lý luận và thực tiễn.
13
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
1. Khái quát về thâm nhập thi trường:
Thâm nhập thị trường của MNCs là chiến lược của những Công ty (doanh nghiệp)
lớn, có phạm vi hoạt động ở nhiều quốc gia bằng việc mở rộng thị trường dưới nhiều
hình thức, nhằm hướng tới mục tiêu chiếm lĩnh thị trường sản phẩm để thu lợi nhuận độc
quyền.
MNCs hoàn toàn khác biệt với những Công ty nội địa (những Công ty giới hạn hoạt
động của mình chỉ ở thị trường nội địa) ở chỗ MNC không bao giờ giới hạn hoạt động của
mình trên cơ sở thị trường nội địa.MNC đưa ra quyết định dựa trên cơ sở vì lợi ích của nó
hơn là lợi ích quốc gia. Thậm chí MNC sẵn sàng chuyển giao ngân quỹ và tạo ra công ăn
việc làm tại hải ngoại thay vì tại quốc gia nó ra đời nếu như nó tìm được lợi nhuận hấp
dẫn hơn ở thị trường nước ngoài. Ví dụ IBM đã biệt phái khoảng 120 chuyên gia và 10 tỷ
USD sang EC để đầu tư cho hoạt động kinh doanh viễn thông tại đây trong vòng một năm
(Robert B. Reich, “Who is them?” Harvard Business review, March-April 1991, p.77)
thay vì đầu tư tại Hoa Kỳ.
Chiến lược này không chỉ được một mình IBM áp dụng. Nhiều Công ty khác trong
qúa trình đầu tư của mình đã tạo nên nhiều công ăn việc làm tại thị trường hải ngoại. Ví
dụ tại Nhật Bản, Xerox đã có trên 12.000 lao động, Texas Instrument có hơn 5.000 lao
động, Hewlett – Parkard có trên 3.000 lao động. Nói chung nhiều Công ty Hoa Kỳ đã thuê
một lực lượng lao động là người Nhật một cách đáng kể. Tình trạng của các Công ty
ngoại quốc kinh doanh tại thị trường Hoa Kỳ cũng đã nói lên một điều tương tự. Cụ thể,
năm 1990 có khoảng 640 Công ty tại Hoa Kỳ thuộc sở hữu hoàn toàn, hoặc một phần bởi
người Nhật, và những Công ty này đã sử dụng khoảng 160.000 công nhân là người Mỹ,
và hơn 100 liên doanh Nhật – Mỹ cũng đã thiết lập trong năm 1990. Đến cuối thế kỷ thứ
20, có trên 800.000 nhân công Hoa Kỳ làm việc tại các Công ty Nhật Bản. Nếu xét tổng
quát thì các Công ty có nguồn gốc nước ngoài cho đến năm 1989 đã sử dụng khoảng 3
triệu nhân công người Mỹ. Cũng trong năm 1989, số lượng công việc được tạo ra bởi các
Công ty sản xuất có nguồn gốc nước ngoài đã cao hơn số lượng công việc được tạo ra bởi
các Công ty có nguồn gốc Hoa Kỳ.
14
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
Đôi khi một số dự án kinh doanh quốc tế lại sử dụng nhân công từ hàng loạt nước
khác. Ví dụ, một loại xe hơi thể thao của Mazda, loại MX – 5 Miata, được thiết kế tại
California, nhưng chi tiết được tạo ra tại Anh, lắp ráp tại Michigan và Mehico, loại xe hơi
này lại sử dụng các bộ phận điện tử được sáng chế tại New Jersey và được chế tạo tại
Nhật Bản. Tương tự như vậy, loại xe ăn khách của Chevrolet – Geo Metro – được thiết kế
tại Nhật Bản, và chế tạo tại Canada bởi một nhà máy do Công ty Suzuki sở hữu. Hoặc
trong trường hợp của Boeing thì loại máy bay này được thiết kế tại bang Washington và
Nhật Bản, nhưng lắp ráp tại Seatle với chóp đuôi làm từ Canada, một số chi tiết phần đuôi
lại được sản xuất tại Trung Quốc và Italy, và đầu máy thì được làm từ Anh. Nói cách
khác, MNC tiến hành các hoạt động và thoả thuận sao cho nó có lợi nhất, thậm chí điều
này sẽ dẫn đến sự hợp tác của nhiều Công ty thuộc từ 3 cho đến 4 quốc gia khác nhau.
Điều này là một thực tế hiển nhiên được tiến hành bởi MNCs bất kể quy mô của nó là lớn
hay nhỏ.
15
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
2. Các hình thức thâm nhập thị trường:
Quá trình này thường thể hiện qua một trong 6 hình thức sau: xuất khẩu; dự án trao
tay (turnkey project), nhượng quyền (licencing); chuyển nhượng kèm theo bí quyết kinh
doanh (franchising); liên doanh; doanh nghiệp hoàn toàn sở hữu nước ngoài (100% vốn
nước ngoài) nhằm đánh dấu sự có mặt của MNCs trong quá trình thâm nhập thị trường.
Như vậy, để tiến hành quá trình thâm nhập thì trường, MNCs có nhiều cách lựa chọn hình
thức sở hữu, từ việc sở hữu 100% vốn cho đến việc mua cổ phần từ đa số đến thiểu số.
Với sự cạnh tranh quốc tế ngày càng mãnh liệt, rủi ro khi bước vào thị trường, sự phát
triển sản phẩm ngày càng đa dạng…, nhiều Công ty xem xét việc hợp tác hay liên minh
16
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
quốc tế giữa các Công ty như là một cứu cánh để giảm thiểu rủi ro. Các hình thức hoạt
động đó sẽ được phân tích sau đây:
2.1. Sở hữu 100% vốn:
Đối với nhiều MNC giải pháp lập một chi nhánh 100% vốn là một giải pháp được
nghĩ đến đầu tiên khi tiến hành hoạt động đầu tư trực tiếp. Điều này xuất phát từ một số lý
do: (i) Tư tưởng vị tộc khi định hướng chiến lược kinh doanh quốc tế; (ii) Vấn đề tài
chính. Ví dụ, một số quản trị gia của IBM cho rằng nếu họ chia sẻ một phần sở hữu của
họ cho phía đối tác nước ngoài, họ sẽ tạo ra một tiền lệ cho việc chia sẻ quyền sở hữu và
kiểm soát với đơn vị kinh doanh bản xứ và điều này thường dẫn đến một sự gia tăng phí
tổn cao hơn là những lợi ích có thể có được.
Để có thể có một quyết định hợp lý khi quyết định mức độ mở rộng quyền sở hữu,
quản trị gia của MNCs thường phải xem xét một mức độ kiểm soát như thế nào là cần
thiết cho sự thành công của Công ty trong hoạt động kinh doanh và marketing quốc tế.
Thông thường việc sở hữu 100% vốn là một điều mong đợi nhiều nhất nhưng không phải
lúc nào cũng nhất thiết như vậy. Thật ra việc sở hữu 100% vốn thật sự cần thiết khi có
một mối liên hệ rất mật thiết tồn tại giữa các đơn vị trong một MNC.
Tuy nhiên một điều mà MNCs cần lưu ý đó là hình thức 100% vốn có thể gặp một số
trở ngại xuất phát từ sự không thiện cảm của môi trường quốc tế: Nhà nước có thể giới
hạn hoạt động kinh doanh trong một số lĩnh vực, có chính sách phân biệt trong đối xử,
hạn chế việc chuyển giao lợi nhuận trở về nước….
2.2. Liên minh chiến lược:
Liên minh chiến lược là một hình thức hợp tác chính thức hay phi chính thức giữa hai
hay nhiều hơn hai Công ty có cùng một mục tiêu kinh doanh. Liên minh chiến lược có thể
thực hiện theo các mức độ từ phi chính thức cho đến cùng tham gia cổ phần.
• Cơ sở:
Lý do để thực hiện một liên minh chiến lược cũng rất đa dạng: (i) Mong muốn xâm
nhập và mở rộng thị trường: tại Nhật Bản, Motorola đã phối hợp hoạt động với Toshiba
trong việc sản xuất chip điện tử nhằm giành lấy một thị phần lớn hơn; (ii) Nhằm bảo vệ
17
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
thị trường nội địa: Ví dụ, do không có những đơn hàng xây dựng các nhà máy năng lượng
hạt nhân, Bechtel Group đã liên kết với Siemens của Đức để cung cấp các dịch vụ cho các
nhà máy hiện hữu tại Hoa Kỳ; (iii) Chia sẻ các rủi ro trong những nỗ lực sản xuất và phát
triển: Texas Instrument và Hitachi đã thành lập chung một nhóm phát triển những loại
chip bộ nhớ thế hệ mới; (iv) Thực hiện liên minh chiến lược nhằm ngăn chặn và vượt qua
đối thủ cạnh tranh: Ví dụ, Caterpillar đã thiết lập một liên doanh với Mitsubishi trong
việc sản xuất các thiết bị trong công nghiệp nặng để phản công lại đối thủ cạnh tranh chủ
yếu trên toàn cầu của mình là Công ty Komatsu ngay trên quê hương của nó.
• Hình thức:
Các hình thức của liên minh chiến lược bao gồm:
- Hợp tác phi chính thức: Theo hình thức này các đối tác sẽ làm việc với nhau
theo một thỏa thuận ràng buộc (có thể diễn ra theo hình thức trao đổi thông
tin về sản phẩm mới, công nghệ, kỹ thuật, trao đổi chuyên gia). Sự hợp tác
theo hình thức này thường thích hợp cho những đối tác thực sự không đe dọa
lẫn nhau tại thị trường của mỗi nước và quy mô của những đối tác này ở dạng
trung bình.
- Hợp tác theo hợp đồng: Theo hình thức này, các đối tác có thể ký các hợp
đồng hợp tác trên lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu và phát triển, marketing…
Thỏa thuận này cho phép cả hai có thể thực hiện được các mục tiêu của cả đôi
bên. Các Công ty cũng có thể thực hiện các thỏa thuận hai chiều để mỗi bên
có thể khai thác thị trường lẫn nhau. Ví dụ, AT & T và Olivetti đã có những
thỏa thuận về marketing chéo cho nhau tại cả hai thị trường Hoa Kỳ và Châu
Âu. Trong lĩnh vực dịch vụ, các hãng hàng không đã có những thỏa thuận cho
phép đối tác sử dụng các trung tâm bay của nhau, phối hợp lịch bay, và sử
dụng chung loại vé.
- Mua cổ phần: Nhiều MNC đã thực hiện việc mua cổ phần thiểu số tại những
Công ty có tầm quan trọng chiến lược với họ nhằm đảm bảo việc gắn bó lợi
ích với những nhà cung cấp. Ví dụ IBM đã mua 12% cổ phần của Intel; Ford
đã mua 25% cổ phần của Mazda. Các đối tác này vẫn tiếp tục hoạt động một
cách riêng lẻ như một thực thể độc lập nhưng sẽ thụ hưởng thế mạnh được
18
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
cung cấp từ đối tác của mình. Ví dụ, nhờ vào sự hợp tác với Mazda, Ford đã
có một sự hỗ trợ rất tốt trong việc thiết kế và sản xuất các loại xe, trong khi
đó Mazda đã gia tăng khả năng xâm nhập thị trường tại Hoa Kỳ. Tương tự
như vậy, trong lĩnh vực xe hơi, Mitsubishi Motor đã sở hữu 10.2% cổ phần
của Chrysler, Honda sở hữu 20% cổ phần của Rover (Anh)
2.3. Liên doanh:
Liên doanh là một hình thức mà hai hay nhiều hơn hai Công ty cùng góp vốn để hình
thành nên một đơn vị kinh doanh, mức độ kiểm soát của mỗi bên tùy thuộc vào mức độ
góp vốn của họ và họ sẽ chia sẻ rủi ro trong phạm vi phần góp vốn của mình. Các lý do
khiến một MNC phải thực hiện hình thức liên doanh là do: (i) Luật pháp của nước sở tại
buộc MNC phải thực hiện hình thức liên doanh trong một số ngành; (ii) Một phía đối tác
phải cần đến kỹ năng hoặc các tài sản hữu hình và vô hình của phía bên kia; (iii) việc thực
hiện liên doanh cho phép các đối tác có thể thực hiện được mục tiêu chiến lược của mình
thông qua việc tận dụng lợi thế lẫn nhau. Ví dụ liên doanh giữa GMC (Hoa Kỳ) và Toyota
trong việc thành lập nhà máy New United Motor đã cho phép Toyota có thể thâm nhập
vào thị trường của Hoa Kỳ, ngược lại GMC có thể tận dụng được kỹ thuật và các cách
tiếp cận trong quản trị từ phía đối tác Nhật Bản.
Một liên doanh chỉ được xem là có hiệu quả một khi sự hợp nhất nguồn lực của các
đối tác có thể tạo ra một kết quả cao hơn so với năng lực riêng lẻ của từng đối tác.Ví dụ
một Công ty có thể có những tiến bộ kỹ thuật mới nhưng lại thiếu vốn để đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài có thể dùng hình thức liên doanh để áp dụng các tiến bộ kỹ thuật này nhanh
hơn hoặc xâm nhập thị trường một cách dễ dàng hơn. Hình thức liên doanh cũng cho
phép một Công ty nước ngoài có thể thiết lập một mối quan hệ tốt hơn với Nhà nước và
các tổ chức sở tại (ví dụ như công đoàn, hoặc các tổ chức tài chính); đặc biệt nếu một liên
doanh được thiết lập giữa một MNC và đối tác sở tại là một doanh nghiệp thuộc sở hữu
Nhà nước thì liên doanh này càng có những thuận lợi như được hưởng những ưu đãi về
tài chính, sự hỗ trợ của chính phủ. Mối quan hệ giữa một đối tác trong nước với các tổ
chức tài chính địa phương cũng cho phép liên doanh có thể tiếp cận với thị trường tài
19
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
chính tại chỗ.Ngoài những thuận lợi nêu trên, hình thức liên doanh còn cho phép MNCs
có thể chia sẻ rủi ro khi tiến hành kinh doanh tại một thị trường mới.
Tuy nhiên, trong thực tiễn nhiều liên doanh đã bị thất bại. Các nguyên nhân gây ra
thất bại thường là: sự mâu thuẩn về quyền lợi, sự bất đồng trong việc phân phối lợi nhuận,
mối quan hệ truyền thông giữa các đối tác không tốt, tầm nhìn chiến lược khác nhau, sự
mâu thuẩn về phương diện văn hóa… Để tiến hành thiết lập và quản lý một liên doanh
thành công, nhiều nhà quản lý đã đề ra một số khuyến cáo như trong quá trình thương
lượng để lập liên doanh như sau: (i) Phải tìm đúng đối tác để thiếp lập liên doanh; (ii) Xác
định rõ mục tiêu của liên doanh và thời gian kéo dài của nó; (iii) Giải quyết và xác định rõ
ràng vấn đề quyền sở hữu, kiểm soát, và quản lý; (iv) Xác định rõ cấu trúc tài chính và
các chính sách tài chính; (v) Xác định chính sách sử dụng nhân sự và đào tạo; (vi) Xây
dựng nhiệm vụ sản xuất rõ ràng; (vii) Xác định các nội dung, quan điểm của hoạt động
marketing; (viii) Xác định hoạt động chuyển giao công nghệ theo mức độ nào và các ràng
buộc của hoạt động này; (ix) vấn đề hạch toán và kiểm soát; (x) Việc giải quyết các tranh
chấp và bất đồng; (xi) Vấn đề bảo hộ trong ngành và lĩnh vực kinh doanh; (xii) Xác định
rõ các hỗ trợ từ phía Nhà Nước (nếu có).
3. Yêu cầu thiết kế chiến lược thâm nhập thị trường của các Công ty đa quốc gia:
- Nhận thức được các dự án đầu tư có khả năng sinh lời
- Lựa chọn mô hình thâm nhập
- Việc kiểm soát, đánh giá hiệu quả của mô hình thâm nhập
- Sử dụng các tiêu chuẩn đánh giá hợp lý
- Dự tính tuổi thọ của một lợi thế cạnh tranh
4. Cách thức thực hiện chiến lược thâm nhập thị trường của Công ty đa quốc gia:
- Đa dạng hóa các loại hình kinh doanh
- Xu hướng hợp nhất
- Xu hướng liên minh chiến lược
- Độc quyền về công nghệ để chiếm lĩnh thị trường
20
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
5. Kinh nghiệm của một số nước Châu Á thu hút sự thâm nhập của các Công ty đa
quốc gia:
Trong xu hướng chung của thế giới, với tư cách là nước đang phát triển và được đánh
giá là quốc gia có nhiều kinh nghiệm thu hút nguồn vốn FDI nói chung và khai thác sự
thâm nhập của MNCs nói riêng thì Malaixia, Trung Quốc… là những ví dụ điển hình.
Xuất phát điểm là nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tích luỹ nội địa thấp,
Malaixia và Trung Quốc luôn coi trọng nguồn vốn từ nước ngoài đối với sự phát triển
kinh tế đất nước và coi đây như yếu tố “then chốt” để thực hiện CNH,HĐH đất nước. Dựa
trên quan điểm như vậy, Malaixia và Trung Quốc đã từng bước cải thiện môi trường đầu
tư để thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là thu hút sự có mặt của MNCs. Nhờ đó mà
Trung Quốc và Malaixia đã có được sự tăng trưởng nhanh trong nhiều năm.
5.1. Kinh nghiệm của Malaixia:
Sau khi giành độc lập vào năm 1957, Chính phủ Malaixia được sự giúp đỡ của WB đã
xây dựng chiến lược công nghiệp hoá (CNH) nền kinh tế, nhưng thực tế đã đặt ra nhiều
vấn đề mà nền kinh tế khó giải quyết. Trong đó, nổi bật là nhu cầu về vốn, công nghệ tiên
tiến, kiến thức quản lý và quy mô thị trường.
Vì thế:
- Chính phủ Malaixia đã tích cực, chủ động đặt mục tiêu thu hút FDI và đặc
biệt coi sự thâm nhập của MNCs vào nền kinh tế là một công cụ quan trọng,
có tính quyết định đến sự thành công của quá trình thực hiện CNH,HĐH đất
nước.
- Malaixia nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, duy trì sự ổn định về kinh tế - xã
hội, và có nhiều biện pháp chuyển hướng lớn trong quá trình thu hút đầu tư,
từ ngành sản xuất sử dụng nhiều tài nguyên và lao động sang những ngành có
trình độ khoa học, kỹ thuật cao đòi hỏi có môi trường đầu tư thuận lợi, thị
trường rộng lớn (cả thị trường nước sở tại, lẫn thị trường khu vực)
- Malaixia có sự thích ứng nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của thị trường và xu
hướng thâm nhập của MNCs, được thể hiện qua 5 giai đoạn thực hiện CNH:
CNH thay thế nhập khẩu (1957-1970); CNH hướng vào xuất khẩu (suốt thập
21
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
kỷ 70); Chiến lược thay thế nhập khẩu lần II (1980-1985); đẩy mạnh hướng
vào xuất khẩu (1986-1995); đến nay là chiến lược CNH phát triển bền vững
5.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Từ khi thực hiện cải cách mở cửa đến nay (năm 1978), nền kinh tế Trung Quốc đã
phát triển nhanh chóng, liên tục với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định (GDP năm 2006:
10,5%; GDP trung bình mỗi năm trên 9,5%), đưa GDP của Trung Quốc đứng hàng thứ 4
thế giới. Trung Quốc đã trở thành “một hiện tượng kinh tế đầu thế kỷ XXI”1. Sự thành
công này có phần đóng góp rất lớn của MNCs trong nền kinh tế; trong đó có trên 400
Công ty xuyên quốc trong 500 Công ty lớn nhất thế giới. Trung Quốc coi việc hợp tác với
MNCs là hạt nhân của mục tiêu điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
- Trước hết là đổi mới trong tư duy. Trung Quốc đưa ra quan điểm: “đổi mới tư
duy – thí điểm – và từng bước mở cửa mạnh mẽ hơn”. Kinh nghiệm Trung
Quốc cho thấy để phát triển thì điều quan trọng nhất là để người dân được tự
do suy nghĩ và thực hiện ý tưởng của mình. Chỉ khi người dân được tự do suy
nghĩ thì chính sách tự do hoá thương mại mới được đẩy mạnh.
- Trong chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, Trung Quốc vừa
khuyến khích thu hút nguồn vốn vừa và nhỏ, vừa đặt trọng điểm vào thu hút
nguồn vốn lớn đầu tư của MNCs. Trên cơ sở chính sách “Lấy thị trường đổi
lấy kỹ thuật”, Chính phủ cho phép MNCs chiếm lĩnh một phần thị trường
trong nước thông qua các hình thức thâm nhập: liên doanh, mua bán, sáp
nhập…
- Trên cơ sở Hệ thống luật được thống nhất, Chính phủ Trung Quốc cho phép
các địa phương độc lập trong cách triển khai thực hiện luật trên tiêu chí
khuyến khích luồng vốn đầu tư của MNCs. Trung Quốc thực hiện phân cấp
cho các địa phương về thẩm định dự án và cấp phép đầu tư.
- Cùng với việc nâng cao trình độ phát triển kinh tế, xây dựng và hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường, các biện pháp thu hút nguồn vốn nước ngoài của Trung
Quốc dần chuyển hướng từ dựa vào chính sách ưu đãi thuế sang dựa vào môi
trường đầu tư và thị trường mở.
22
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
- Thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư như miễn giảm thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế thuê đất theo các lĩnh vực đầu tư và địa bàn đầu tư.
6. Qúa trình thâm nhập của Công ty đa quốc gia vào Việt Nam:
6.1. Tiền đề:
• Thành tựu:
Từ khi thực hiện mở cửa nền kinh tế thì luồng vốn FDI đổ vào nước ta ngày càng
nhiều, kể cả về mặt số lượng cũng như chất lượng. Cụ thể là năm 2007, Việt Nam đã thu
hút được một lượng FDI kỷ lục là 20,3 tỷ USD và trong năm 2008 là 64 tỷ USD. Đây là
một kết quả ngoài sự mong đợi. Với sự có mặt của nhiều Công ty đa quốc gia tại Việt
Nam như Coca Cola, Pepsi, Intel, Microsoft, Unilever, P&G, Nestle, Metro, PWC, Kao,
Avon, Mercedes Benz… cùng với sự bành trướng ra khỏi phạm vi chính quốc (Home
Country) bằng nguồn vốn FDI.
Nếu năm 2007, Việt Nam thu hút được 20,3 tỷ USD từ FDI và được coi là mức kỷ lục
từ khi mở của thu hút vốn đầu tư năm 1988 đến năm 2006. Trong năm 2008, lượng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã nâng lên gấp 3 lần năm 2007 và lập mốc kỷ lục mới là 64
tỷ USD. Trong đó đáng chú ý là các dự án dầu khí có tổng giá trị trên 10 tỷ USD và dự án
của Formosa với 7,8 tỷ USD.
Trong các quốc gia đầu tư vào Việt Nam trong năm 2008 thì Malaysia là quốc gia dẫn
đầu với 14,9 tỷ USD với 55 dự án . Kế tiếp là các quốc gia Đài Loan (8,64 tỷ USD) với
132 dự án, Nhật Bản (7,28 tỷUSD) với 105 dự án, Singapore (4,46 tỷ USD) với 101 dự
án, Brunei (4,4 tỷ USD) với 19 dự án.
Các địa phương thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất trong năm 2008 là
Ninh Thuận do có dự án liên doanh sản xuất thép với tập đoàn Lion Malaysia với tập
đoàn Vinashin có tổng mức đầu tư đăng ký là 9,79 tỷ USD. Đứng thứ hai là tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu có 4 dự án với tổng mức vốn đăng ký lên đến 9,35 tỷ USD, TP.HCM, Hà Tĩnh
và Thanh Hóa. Như vậy chúng ta có thể thấy cơ cấu các tỉnh thành dẫn đầu trong việc thu
hút vốn đầu tư có thay đổi và các tỉnh Miền Trung đã có những bước tiến đáng chú ý.
Trong đó đáng chú ý là tỉnh Bà Rịa – Vũng tàu thu hút đến 9,35 tỷ USD (gần bằng cả năm
2006 thu hút vốn đầu tư của cả nước 10,2 tỷ).
23
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
Tình hình thu hút vốn đầu tư FDI từ năm 2006 đến 2008:
Năm 2006 2007 2008
Triệu USD 10.2 20.3 64
(theo Vietpartners)
• Lợi thế và những khó khăn của Việt Nam trong việc thu hút nguồn vốn
đầu tư từ các Công ty đa quốc gia:
Lợi thế:
- Môi trường chính trị - xã hội ổn định:
Ổn định chính trị - xã hội là yêu cầu đầu tiên quyết định sức hút của Việt Nam đối với
MNCs. Sự ổn định về chính trị là cơ sở tránh bất trắc, rủi ro trong kinh doanh, tạo độ tin
cậy, đảm bảo lợi nhuận chắc chắn cho doanh nghiệp.
- Đường lối đối ngoại rộng mở, tích cực:
Cùng với sự ổn định về chính trị - xã hội, Việt Nam có đường lối đối ngoại rộng mở,
đa phương hoá, đa dạng hoá; là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế. Năm 1990 đã bình thường hóa quan hệ với EU (ngày 22-10-1990); 28/7/1995 là thành
viên chính thức của ASEAN; 3/1996 tham gia ASEM với tư cách là thành viên sáng lập;
11/1998 là thành viên của APEC; năm 2000 ký hiệp định thương mại Việt - Mỹ;
7/11/2006 chính thức là thành viên thứ 150 của WTO.
- Những lợi thế so sánh:
Việt Nam với vị trí địa lý thuận lợi, tiềm năng đất đai, khoáng sản, khí hậu, lao động,
thị trường… của một nước đang phát triển luôn nằm trong tầm ngắm các nhà đầu tư, đặc
biệt là yêu cầu của MNCs nhằm khai thác và mở rộng thị trường.
Khó khăn:
- Việt Nam đang trong giai đoạn đầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường:
Nguồn gốc của MNCs chủ yếu ở quốc gia có nền kinh tế thị trường tương đối hoàn
thiện, nên để MNCs hoạt động hiệu quả thì cần có thị trường ổn định và đồng dạng để
đảm bảo các cho các yếu tố, các khâu của quá trình hoạt động kinh doanh của MNCs diễn
ra bình thường. Trong khi đó, Việt Nam đang hoàn thiện dần thể chế kinh tế thị trường,
luật lệ hay bị điều chỉnh do nảy xung đột lợi ích giữa các chủ thể kinh tế, mối liên kết
giữa các thị trường hàng hoá và dịch vụ còn lỏng và chưa thống nhất.
24
Tiểu luận TCTT: Công ty đa quốc gia, chiến lược thâm nhập các nước đang phát triển và thủ đoạn chuyển giá
- Đối tác Việt Nam còn ở trình độ thấp:
Đối tác Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước,
hoặc doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần. Do quy mô nhỏ bé, lại yếu về trình độ,
năng lực công nghệ; kinh nghiệm tổ chức kinh doanh, khả năng hợp tác, liên kết còn
nhiều hạn chế; tính cạnh tranh chưa cao… nên doanh nghiệp Việt Nam chưa phải là đối
tác, là doanh nghiệp phụ trợ cho MNCs. Đây là tiêu chí quan trọng của môi trường kinh
doanh mà các nhà đầu tư lựa chọn khi thâm nhập thị trường.
- Cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý còn chuyển biến chậm:
Cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế thích hợp với phân công lao động quốc tế,
phù hợp với các quy tắc và thông lệ chung là điều kiện để tăng sức hấp dẫn đối với
MNCs. Nhưng ở Việt Nam, cả về cơ cấu kinh tế lẫn cơ chế quản lý kinh tế và bộ máy
quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước còn chuyển biến chậm, chưa thực sự tạo sức hút đối
với nhà đầu tư là MNCs.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn yếu kém:
Hạ tầng vật chất kỹ thuật của ta những năm gần đây đã được chú trọng phát triển,
nhưng đến nay vẫn còn khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực. Ngoài một số
tiến bộ đạt được, đặc biệt trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, nhìn chung, kết cấu hạ
tầng kinh tế kỹ thuật còn yếu kém. Đó là trở ngại lớn nhất trong việc thu hút MNCs.
6.2. Quá trình thâm nhập của các Công ty đa quốc gia vào Việt Nam:
- Các Công ty đa quốc gia ở Việt Nam có nguồn gốc từ các nước đang phát
triển Châu Á là phổ biến nhất.
- MNCs Nhật, Mỹ, châu Âu đang có xu hướng tăng.
• Quá trình thâm nhập của MNCs ở Việt Nam
Trước khi Việt Nam thực hiện chủ trương «đổi mới» (1986), MNCs đã dần xuất hiện
chủ yếu thông qua giao lưu văn hoá, hợp tác phát triển khoa học kỹ thuật. Từ sau năm
1986, tuỳ vào từng giai đoạn, cách thức thâm nhập thị trường của MNCs với mức độ khác
nhau, nhưng dù ở dạng thăm dò thị trường sơ khai hay thâm nhập bằng 100% vốn chủ sở
hữu thì MNCs cũng phải trải qua quá trình tìm hiểu, thử nghiệm bằng nhiều cách thức
25