Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), thành phố Hà Nội hiện nay (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.12 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nằm trong vùng châu thổ Bắc Bộ - vùng đất vốn được coi là cái nôi
của nhiều nghề, làng nghề thủ công, khu vực Hà Nội hiện đang là nơi hội tụ
47 nghề trong tổng số 52 nghề trên toàn quốc với 286 làng nghề truyền thống
đã được công nhận. Trong số các nhóm nghề thủ công truyền thống đang
hiện diện trên mảnh đất Thủ đô phải kể tới nghề sơn - một nghề cổ truyền
xuất hiện từ rất sớm trên đất nước ta và đã để lại dấu ấn bản sắc văn hóa Việt
Nam đối với thế giới. Đến thời điểm này, Hà Nội là nơi tập trung nhiều làng có
nghề sơn nhất cả nước với 8 làng nghề chuyên sâu đang và đã từng hoạt động.
Kể từ khi Hà Nội cùng đất nước bước vào thời kỳ Đổi mới, tốc độ tăng
trưởng kinh tế - xã hội khá mạnh mẽ, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa cũng ngày càng được mở rộng, song, quá trình phát triển nhanh chóng
này đã tạo đà cho những biến đổi sâu sắc ở tất cả các lĩnh vực trong đó có sự
biến đổi của các ngành nghề truyền thống như nghề sơn theo cả hai chiều
hướng tích cực và tiêu cực. Hai làng Bối Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ
Lăng (huyện Thanh Oai), Tp. Hà Nội đã có nghề sơn truyền thống từ lâu đời
và sớm khẳng định được vị trí riêng về chất lượng kỹ thuật và mỹ thuật của
các sản phẩm làm ra trong hệ thống các làng nghề sơn ở châu thổ Bắc Bộ.
Nằm ở hai huyện được đánh giá là những khu vực có sự phát triển kinh tế
khá năng động với mật độ làng nghề đông đảo nhất Hà Nội, có thể coi hoạt
động nghề ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng là những trường hợp thể hiện
khá rõ nét xu thế biến đổi nhiều mặt của nghề sơn truyền thống dưới tác
động của các điều kiện chủ quan và khách quan, đã và đang diễn ra rất phổ
biến tại các làng nghề trên địa bàn Thủ đô hiện nay. Sự biến đổi này là tất
yếu và cần có để nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng có
thể tiếp tục duy trì và phát triển trong bối cảnh hiện nay. Trước những tác
động, ảnh hưởng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, trong khi nhiều làng
nghề sơn truyền thống đã không thể tiếp tục duy trì nghề như Bình Vọng
(Hà Nội), Đình Bảng (Bắc Ninh)…, nghề sơn truyền thống tại hai làng Bối
Khê và Vũ Lăng cho đến nay vẫn hoạt động khá tốt nhờ có sự nhạy bén,


chủ động thay đổi các mặt hàng sản phẩm phù hợp với bối cảnh mới. Tuy
nhiên, trong quá trình vận động biến đổi thì ngành nghề sơn cổ truyền
cũng phải đối mặt với không ít khó khăn thách thức mà nếu thiếu vai trò
điều tiết của Nhà nước thì chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng hoạt động tự
1
phát ở các làng nghề, nhiều giá trị có nguy cơ bị mai một và mất đi trong
một tương lai không xa.
Trước xu thế biến đổi nhiều mặt đang diễn ra ngày càng sâu sắc của
nghề thủ công truyền thống ở khu vực Hà Nội, việc tìm hiểu, nắm bắt được
sự vận động biến đổi (bao gồm bản chất, tác nhân và hệ quả) của nghề sơn
truyền thống ở các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng, qua đó định hướng cho
ngành nghề này phát triển dựa trên các cứ liệu khoa học là một trong
những yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa thiết thực đối với sự nghiệp gìn giữ
và phát huy di sản văn hóa dân tộc cũng như công cuộc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế - xã hội ở nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Đặc biệt, trong bối cảnh này thì việc tìm hiểu và tôn vinh những
làng nghề truyền thống đang bị lu mờ dần trong tâm trí của người Việt ở
xã hội đương đại như các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng lại càng trở nên
có ý nghĩa hơn lúc nào hết.
Mặc dù nghề sơn và làng nghề sơn vốn là đề tài khoa học có sức hấp
dẫn với không ít nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm tìm hiểu dưới
nhiều góc độ và ở nhiều mức độ khác nhau. Trong đó, nghiên cứu nghề sơn
và làng nghề sơn truyền thống ở Việt Nam dưới góc độ biến đổi bước đầu là
chủ đề quan tâm của một số nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến thời điểm
hiện tại, nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng hầu như chưa
được nghiên cứu, đặc biệt là từ quan điểm tiếp cận liên ngành Văn hóa học.
2. Mục đích nghiên cứu
- Luận án chứng minh sự biến đổi là quy luật tất yếu khách quan để
nghề sơn truyền thống ở các làng nghề như Bối Khê và Vũ Lăng có thể duy
trì và phát triển trong bối cảnh đương đại.

- Luận án hướng đến xác lập những căn cứ khoa học và thực tiễn để
tham khảo định hướng cho nghề sơn truyền thống ở hai làng nghề phát triển
trong tương lai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghề sơn truyền thống ở các làng
Bối Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), Tp. Hà Nội
trong quá trình vận động, biến đổi theo thời gian để thích nghi tồn tại. Đây vốn
là hai làng nghề sơn có lịch sử khá lâu đời và đã khẳng định được đặc trưng
riêng ở các kỹ thuật cơ bản của nghề sơn truyền thống là sơn mài, sơn thếp và
sơn quang. Tuy nhiên, để làm rõ diện mạo và sự đóng góp của nghề sơn ở các
2
làng nghề trên thì luận án sẽ mở rộng tìm hiểu nghề sơn truyền thống ở một số
làng khác trong khu vực Hà Nội cũng như vùng châu thổ Bắc Bộ dưới góc
nhìn liên hệ, so sánh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê (xã
Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai),
Tp. Hà Nội trong bối cảnh các làng nghề sơn vùng châu thổ Bắc Bộ.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu, tìm hiểu nghề sơn truyền thống ở hai
làng Bối Khê và Vũ Lăng từ năm 1945 đến nay (2013) với các mốc thời gian
cụ thể gắn với những biến đổi trong nghề sơn truyền thống ở hai làng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp tiếp cận
4.1. Cơ sở lý luận
4.1.1. Một số khái niệm thao tác
Nghề sơn truyền thống
Trên cơ sở kế thừa những quan điểm về nghề truyền thống của các nhà
khoa học đi trước, chúng tôi đưa ra định nghĩa về nghề sơn truyền thống trong
bối cảnh hiện nay và coi đó là khái niệm mang tính công cụ của luận án như
sau: Nghề sơn truyền thống là một trong những nghề tiểu thủ công nghiệp xuất

hiện lâu đời trên đất nước ta, được truyền từ đời này qua đời khác và tồn tại
đến ngày nay, ở đó, ngoài những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền thống
được sáng tạo và lưu truyền bởi các thế hệ nghệ nhân còn bao gồm cả những
phương pháp chế tác được cải tiến hoặc những loại máy móc hiện đại được sử
dụng để hỗ trợ sản xuất, song về cơ bản vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống
và sản phẩm vẫn thể hiện những nét văn hóa độc đáo của dân tộc.
Làng nghề sơn truyền thống
Làng nghề sơn truyền thống trong bối cảnh hiện nay được chúng tôi
hiểu và định nghĩa như sau: Làng nghề sơn truyền thống vốn là làng nông
nghiệp, trong đó có duy trì thực hành qua nhiều thế hệ nghề sơn truyền
thống vốn đã tồn tại và phát triển lâu đời với ít nhất 50% số hộ gia đình
chuyên sống bằng nghề sơn, là nơi quy tụ đội ngũ nghệ nhân và thợ lành
nghề sử dụng kỹ thuật truyền thống với sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại ở
mức độ nhất định để chế tác và bán những sản phẩm độc đáo mang đậm dấu
ấn văn hóa địa phương và bản sắc dân tộc.
Biến đổi nghề sơn truyền thống
Dựa trên cơ sở lý luận là các khái niệm về biến đổi nói chung và biến
đổi văn hóa nói riêng, theo chúng tôi, nghề sơn truyền thống với tư cách là
3
một hiện tượng văn hóa, ở góc độ nào đó có thể hiểu sự biến đổi nghề sơn
truyền thống chính là sự biến đổi/thay đổi các thành tố cơ bản cấu thành
nghề sơn truyền thống như nguyên vật liệu, quy trình chế tác, sản phẩm, thị
trường tiêu thụ - khách hàng, hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh, nguồn
nhân lực, vấn đề truyền dạy nghề, đời sống sinh hoạt của thợ nghề… dưới sự
tác động của các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội.
4.1.2. Một số luận điểm khoa học
Luận án đi vào nghiên cứu sự biến đổi nghề sơn truyền thống trong bối
cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay nên tác giả đã chọn một số luận
điểm của các nhà khoa học đi trước làm điểm tựa lý thuyết định hướng cho
nghiên cứu của mình, đó là: luận điểm về biến đổi văn hóa ở làng là một quá

trình tất yếu trong bối cảnh hiện nay và luận điểm về biến đổi nghề truyền
thống và làng nghề truyền thống trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là quá trình đa dạng về các mô hình biến đổi và các cấp độ biến đổi.
4.2. Phương pháp tiếp cận
Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu của luận án là nghề sơn truyền thống
trong quá trình biến đổi đa dạng và phức tạp, chúng tôi lựa chọn phương pháp
tiếp cận liên ngành Văn hóa học với hy vọng đó là phương pháp tiếp cận hữu
hiệu cho đề tài luận án. Phương pháp tiếp cận liên ngành có sự đóng góp khoa
học của nhiều chuyên ngành khác nhau sẽ là một trong những công cụ lý
thuyết hỗ trợ việc nhìn ra những yếu tố biến đổi của nghề sơn truyền thống ở
hai làng Bối Khê và Vũ Lăng từ cả hai góc độ hiện tượng và bản chất.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận Văn hóa học mang tính liên
ngành, với sự kết hợp và hỗ trợ của nhiều ngành khoa học khác nhau nhằm
tìm hiểu và khai thác các khía cạnh nhiều mặt của đối tượng nghiên cứu.
Trong đó, bao gồm các thao tác nghiên cứu cụ thể: Điều tra điền dã tại địa
bàn các làng nghề sơn truyền thống Bối Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng
(huyện Thanh Oai), Tp. Hà Nội với các phương pháp quan sát tham dự,
phỏng vấn nhóm, phỏng vấn sâu ; Tiếp cận với các nguồn sử liệu, điều tra
hồi cố nhằm tìm hiểu nghề sơn truyền thống của các làng Bối Khê và Vũ
Lăng qua các thời kỳ, giai đoạn trong lịch sử; Sử dụng các phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh trong việc thu thập những cứ liệu cụ thể
nhằm làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của luận án; Lưu ý đến mối quan hệ,
ảnh hưởng tác động qua lại giữa các yếu tố văn hóa và kinh tế dưới góc độ
tiếp cận kinh tế học văn hóa. Đây là hướng tiếp cận cần thiết khi nghiên cứu
4
về các nguồn lợi kinh tế, nguồn thu của thợ nghề và những đóng góp của
nghề và làng nghề truyền thống trong bối cảnh hiện nay.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Một là, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ bổ sung vào việc nghiên cứu

về biến đổi nghề và làng nghề ở châu thổ Bắc Bộ trong bối cảnh kinh tế thị
trường và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - là chủ đề nghiên cứu
đang được coi là mới và “nóng” hiện nay. Đặc biệt, đề tài luận án đi theo
hướng nghiên cứu trường hợp là hướng nghiên cứu đang được chú trọng và
ưu tiên trong khoa học xã hội nhân văn; Hai là, nghiên cứu nghề sơn truyền
thống ở các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng góp phần bổ sung những thông tin
về nghề sơn ở khu vực Hà Nội, qua đó góp phần vào việc nghiên cứu sắc thái
đa dạng của nghề sơn truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ; Ba là, nghiên cứu thực
trạng biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng, Tp.
Hà Nội hiện nay góp phần cung cấp cho chính quyền các cấp những cứ liệu
khoa học trong việc xây dựng các chính sách và giải pháp tháo gỡ có tính khả
thi, giúp cho nghề sơn truyền thống ở hai làng nghề nói riêng và các làng nghề
sơn khác ở châu thổ Bắc Bộ nói chung tồn tại và phát triển, góp phần thực
hiện mục tiêu “dân giàu, làng xã mạnh” trong công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu (22 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo (11
trang) và Phụ lục (28 trang), nội dung của luận án được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Khái quát về nghề sơn truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ và
ở các làng Bối Khê, Vũ Lăng (Thành phố Hà Nội) (37 trang).
Chương 2. Nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay (37 trang).
Chương 3. Vấn đề phát triển nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê,
Vũ Lăng và những đóng góp mới của luận án (31 trang).
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NGHỀ SƠN TRUYỀN THỐNG Ở CHÂU THỔ
BẮC BỘ VÀ Ở CÁC LÀNG BỐI KHÊ, VŨ LĂNG (THÀNH PHỐ HÀ NỘI)
1.1. Nghề sơn truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ
1.1.1. Vài nét về lịch sử nghề sơn
Nghề sơn là một trong những nghề thủ công có lịch sử lâu đời trên thế

giới. Ở Việt Nam, qua sử sách và các cứ liệu khảo cổ học, có thể khẳng định
đồ sơn đã xuất hiện ở châu thổ Bắc Bộ vào khoảng thế kỷ IV trước Công
5
nguyên. Vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XX, nghề sơn cổ truyền có
một bước ngoặt quan trọng khi chất liệu sơn ta được áp dụng vào bộ môn
nghệ thuật tạo hình, tạo dựng nên nền nghệ thuật sơn mài của Việt Nam.
1.1.2. Các loại hình kỹ thuật chế tác sản phẩm cơ bản của nghề sơn
truyền thống
Qua thời gian, với sự sáng tạo không ngừng của các thế hệ nghệ nhân
và họa sĩ, nghề sơn truyền thống Việt Nam đã tạo dựng được sắc thái đa dạng
bao gồm nhiều loại hình kỹ thuật chế tác như Sơn quang, Sơn thếp, Sơn mài,
Sơn khảm, Sơn khắc. Trong đó, mỗi làng nghề sơn truyền thống thường
chuyên về một loại hình kỹ thuật chế tác nào đó với sản phẩm đặc thù gắn
liền với tên tuổi của làng nghề như sơn quang Cát Đằng, sơn mài Hạ Thái,
sơn khảm Bối Khê, sơn thếp Vũ Lăng, Sơn Đồng
1.1.3. Sản phẩm sơn trong đời sống của cư dân châu thổ Bắc Bộ
Trải qua hơn 2000 năm tồn tại và phát triển, những sản phẩm của nghề
sơn đã và đang đóng góp một vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày
của cư dân châu thổ Bắc Bộ ở giá trị thực dụng trong sinh hoạt hàng ngày,
giá trị văn hóa - tâm linh phục vụ cho nhu cầu tôn giáo - tín ngưỡng và giá trị
thẩm mỹ thoả mãn nhu cầu thưởng thức cái đẹp của con người.
1.1.4. Các làng nghề sơn truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ
Nghề sơn truyền thống Việt Nam vốn được xem là xuất hiện sớm nhất và
phát triển rực rỡ nhất ở châu thổ Bắc Bộ. Theo sử sách ghi lại, nổi tiếng đứng
hàng số một trong các nghề thủ công truyền thống ở khu vực này là các phường
thợ tiêu biểu như như Cát Đằng (Nam Định), Đình Bảng (Bắc Ninh), Nam Ngư
(Hà Nội), Bình Vọng (Hà Tây cũ) Trải qua những thăng trầm lịch sử, có những
làng nghề mất đi, có nhiều làng nghề vẫn duy trì tồn tại cho đến ngày nay nằm
rải rác ở các tỉnh, thành phố như Bắc Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Hà Nội.
1.2. Nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng

1.2.1. Nghề sơn truyền thống làng Bối Khê
1.2.1.1. Khái quát về làng Bối Khê
* Địa lý hành chính
Làng nghề sơn khảm Bối Khê cách trung tâm Hà Nội khoảng 50 km, là
một trong 7 thôn hành chính của xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
Nằm trong địa phận xã Chuyên Mỹ - là vùng đất thuộc ô trũng thấp nhất của
Hà Nội, làng Bối Khê không có nhiều lợi thế về nông nghiệp. Tuy nhiên, vốn
là một làng nằm ven sông nên cùng các thôn khác trong xã, Bối Khê có điều
6
kiện phát triển nghề thủ công, đó là nghề sơn mài khảm với khoảng 80% số
hộ làm nghề.
* Lịch sử hình thành làng
Bối Khê trước đây vốn là một xã, vào đầu thế kỷ XIX Bối Khê thuộc
huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, xứ Sơn Nam Thượng. Đến đầu thế kỷ XX,
xã Bối Khê thuộc tổng Thịnh Đức Thượng, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông.
Sau năm 1945, xã Bối Khê mới được chuyển thành một thôn thuộc xã Minh
Đức, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông. Cuối năm 1953, thôn Bối Khê lại được
chuyển về xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây. Kể từ 1/8/2008, khi
toàn bộ địa giới của tỉnh Hà Tây được sáp nhập vào thủ đô Hà Nội thì thôn Bối
Khê lúc này thuộc xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
* Các giá trị văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể tiêu biểu
Cũng giống như bao ngôi làng khác của người Việt, làng Bối Khê là nơi
bảo lưu nhiều giá trị văn hóa gắn liền với đời sống sinh hoạt sản xuất của người
dân nơi đây. Bao gồm, hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và lễ hội truyền thống.
1.2.1.2. Nghề sơn truyền thống
* Lịch sử xuất hiện của nghề sơn truyền thống
Nghề sơn truyền thống làng Bối Khê có từ bao giờ, được tiếp nhận từ
đâu hiện nay chưa ai đưa ra được câu trả lời chính xác. Các nghệ nhân trong
làng chỉ biết rằng ngành nghề của cha ông đã có từ rất lâu đời, nghề được
duy trì và tồn tại cho đến bây giờ mang tính chất cha truyền con nối. Tuy

nhiên, có một số ý kiến cho rằng: Bối Khê - một làng nghề chuyên làm đồ
sơn mài khảm nằm trên vùng đất Chuyên Mỹ vốn được coi là nơi xuất xứ của
nghề khảm. Vậy, hẳn là có mối liên quan nào đó giữa nghề sơn với nghề
khảm này? Nhiều người dân Chuyên Mỹ tin rằng: người có công đầu trong
việc truyền dạy nghề khảm ở quê hương họ là cụ Trương Công Thành ở thôn
Ngọ - một danh tướng dưới thời nhà Lý.
* Nguyên vật liệu và dụng cụ làm nghề
- Nguyên vật liệu: Chất liệu chủ đạo của nghề sơn khảm xưa là sơn ta
Phú Thọ nổi tiếng. Ngoài ra còn cần tới các nguyên vật liệu khác như: các
chất phụ gia là mùn cưa, bột đá, đất sét dùng để pha chế sơn bó, hom…; Gỗ
để làm cốt; Vàng quỳ, bạc quỳ mua của làng Kiêu Kỵ; Các nguyên liệu khảm
có vỏ trứng, vải trai, vỏ ốc
- Dụng cụ làm nghề
Bộ đồ nghề của các nghệ nhân sơn mài Bối Khê cũng đã phần nào phản
ánh sự công phu của ngành nghề cổ truyền này. Ở mỗi công đoạn sẽ có
7
những dụng cụ tương ứng để phục vụ cho việc chế tác, theo đó sẽ có bộ công
cụ chế biến sơn, bộ công cụ trong khâu làm vóc và bộ công cụ trong khâu
chế tác sản phẩm.
* Quy trình chế tác sản phẩm sơn truyền thống, bao gồm hai công đoạn
cơ bản: chế biến sơn ta và chế tác sản phẩm.
* Các loại hình sản phẩm tiêu biểu, bao gồm:
- Hàng nét (đồ thờ)
- Hàng mỹ nghệ
1.2.2. Nghề sơn truyền thống làng Vũ Lăng
1.2.2.1. Khái quát về làng Vũ Lăng
* Địa lý hành chính
Thôn Vũ Lăng nằm ở phía Bắc khu cộng đồng dân cư thuộc xã Dân Hòa,
huyện Thanh Oai, Hà Nội, cách trung tâm thành phố chừng 30 km về phía
Nam. Về cơ bản, Vũ Lăng vẫn là một làng nông nghiệp, song song với nghề

nông làng còn có nghề thủ công truyền thống là nghề sơn tạc tượng với khoảng
90% số hộ làm nghề.
* Lịch sử hình thành làng
Theo các cụ cao tuổi trong làng thì ngôi làng Việt cổ Vũ Lăng có từ khi
nào và ai là người có công khai khẩn giờ không ai biết được chính xác, ngoại
trừ một vài thông tin từ thần phả và truyền thuyết cổ như sau: từ triều Lê
Cảnh Hưng trở về trước, làng có tên là Vũ Lăng Trang, thuộc xã Tuyền Cam,
tổng Tuyền Cam, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên. Đầu thế kỷ XX, thôn
Vũ Lăng được nâng lên thành một xã thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông.
Năm 1947, xã Vũ Lăng hợp nhất với xã Canh Hoạch thành xã Dân Chủ. Năm
1948, xã Dân Chủ và xã Cộng Hòa được hợp nhất thành xã Dân Hòa. Hiện
nay, Vũ Lăng là một thôn thuộc xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai, Hà Nội.
* Các giá trị văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể tiêu biểu: Bao gồm
hệ thống di tích lịch sử - văn hóa là cụm di tích đình, đền và chùa còn bảo
lưu nhiều di vật cổ có giá trị và lễ hội truyền thống làng Vũ Lăng.
1.2.2.2. Nghề sơn truyền thống
* Lịch sử xuất hiện của nghề sơn truyền thống
Nghề sơn truyền thống làng Vũ Lăng có từ bao giờ, ông tổ nghề là ai hiện
vẫn chưa tìm thấy tài liệu nào nói tới, chỉ biết trong chùa Vũ Lăng vẫn còn lưu
giữ một số pho tượng cổ có cách đây khoảng 300 - 400 năm. Cuốn ngọc phả còn
lưu giữ ở đình Vũ Lăng có ghi chép rằng: những pho tượng cổ này là do chính
những người thợ tài hoa của làng tạo tác. Như vậy, có thể kết luận nghề sơn tạc
8
tượng làng Vũ Lăng đã có truyền thống từ lâu đời, được nhiều thế hệ nghệ nhân
gìn giữ và truyền lại cho đến hôm nay.
* Nguyên vật liệu và dụng cụ làm nghề
- Nguyên vật liệu
Trong nghề sơn - tạc tượng truyền thống Vũ Lăng, có hai nguyên vật liệu
được xem như chủ đạo là sơn ta và gỗ. Ngoài ra, còn cần tới một vài nguyên liệu
phụ gia bổ trợ cho sơn ta như: mùn cưa, đất thó (chất đất thó Vũ Lăng vốn được

coi là tốt, hiếm có nơi nào bằng), giấy bản… khi dùng để pha chế các nước sơn
dùng trong khâu gắn, bó, hom…; nguyên liệu son được làm từ chu sa; nguyên
liệu thếp là vàng quỳ, bạc quỳ cũng được mua ở Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội.
- Dụng cụ làm nghề: Nghề sơn truyền thống Vũ Lăng với hàng loạt công
đoạn phức tạp gắn liền với bộ công cụ chế tác thủ công rất phong phú, đa dạng,
về cơ bản cũng tương tự như nghề sơn ở Bối Khê.
* Quy trình chế tác sản phẩm sơn truyền thống: Bao gồm hai công đoạn
cơ bản: làm cốt mộc và kỹ thuật sơn.
* Các loại hình sản phẩm tiêu biểu: Sản phẩm của làng nghề Vũ Lăng
gồm hai nhóm cơ bản là Tượng thờ và Đồ thờ.
1.2.3. Đặc trưng và giá trị của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối
Khê và Vũ Lăng
Có thể nói, hai làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng đã định danh cho mình
bởi những đặc trưng và giá trị nhất định. Ở góc độ khái quát nhất, đó là giá
trị về mặt kỹ thuật và mỹ thuật, giá trị kinh tế mà nghề sơn đem lại cho cộng
đồng làng nghề và giá trị lịch sử - văn hóa được hàm chứa trong các sản
phẩm sơn truyền thống của hai làng nghề.
Tiểu kết
Nghề sơn đã xuất hiện từ rất sớm trên đất nước ta với điểm khởi đầu là
châu thổ Bắc Bộ. Với hơn 2000 năm tồn tại, nghề sơn đã và đang có vai trò,
vị trí nhất định trong đời sống sinh hoạt và tâm linh của người Việt.
Nghề sơn truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ được định danh bởi các
phường nghề, làng nghề chuyên làm nghề sơn ta với nhiều loại hình kỹ thuật
chế tác. Nằm trong số các làng nghề này, nổi lên hai trung tâm sản xuất đồ
sơn là Bối Khê - huyện Phú Xuyên và Vũ Lăng - huyện Thanh Oai, Tp. Hà
Nội với hai lối kỹ thuật chế tác tiêu biểu là sơn mài khảm và sơn thếp. Trải qua
bao năm tháng thăng trầm đồng hành cùng dân làng, nghề sơn có lúc phát triển
thịnh vượng, có lúc bị gián đoạn, thậm chí có nguy cơ mai một. Song, với ý
thức gìn giữ tinh hoa nghề nghiệp cha ông của cộng đồng làng nghề cùng
9

những chính sách mới của Đảng và Nhà nước kể từ sau năm 1986, nghề sơn
truyền thống ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng đã dần được hồi sinh và đang hoạt
động mạnh mẽ trở lại, đem lại nhiều lợi ích cho đời sống dân sinh.
Chương 2
NGHỀ SƠN TRUYỀN THỐNG Ở CÁC LÀNG BỐI KHÊ VÀ VŨ LĂNG
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY
2.1. Những tác nhân chủ yếu của quá trình biến đổi nghề sơn
truyền thống
2.1.1. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn
Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đã bước sang giai đoạn mới: đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà một trong những nội dung
trọng tâm là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Quá
trình này đòi hỏi phải biết phát huy nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài và
hội nhập quốc tế nhằm đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Một trong những nội dung quan trọng để thực hiện mục tiêu này là khôi phục
và phát triển các làng nghề truyền thống - nơi sáng tạo và bảo lưu nhiều giá
trị văn hóa độc đáo của dân tộc. Sau năm 1986, quan điểm của Đảng và Nhà
nước về sự cần thiết phải phát triển các làng nghề - trong đó đặc biệt quan
tâm đến các làng nghề có thế mạnh về hàng xuất khẩu và các loại hình dịch
vụ đã được cụ thể hóa bằng một loạt quy chế, chính sách áp dụng cho các
ngành nghề, làng nghề thủ công truyền thống mà đặc biệt là đối với ngành
nghề thủ mỹ nghệ như nghề sơn truyền thống. Các văn bản, chính sách đã
ban hành kể trên có thể coi là cơ sở pháp lý để phát triển nghề thủ công
truyền thống nói chung và nhóm ngành nghề thủ công mỹ nghệ như nghề sơn
nói riêng.
2.1.2. Sự chuyển biến trong đời sống kinh tế, xã hội
Công cuộc Đổi mới đất nước được thực hiện từ sau năm 1986 với bước
ngoặt quan trọng: chuyển đổi từ cơ chế quản lý bao cấp sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước cùng các chính sách đổi mới toàn diện trên tất cả

các mặt đã tạo nên những chuyển biến to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội
nước ta. Đi cùng sự no đủ hơn về vật chất là các nhu cầu tinh thần ngày càng
được quan tâm. Đó chính là mảnh đất tốt để nghề sơn truyền thống chế tác đồ
thờ và hàng thủ công mỹ nghệ có thể mở mang, phát triển. Các làng nghề sơn
truyền thống như Vũ Lăng, Bối Khê ngay lập tức nắm lấy cơ hội này và đã có
sự tự điều chỉnh trong suốt một thời gian dài để thích ứng với hoàn cảnh mới.
10
Đó là một quá trình biến đổi toàn diện, đa dạng của cả làng nghề. Đặc biệt, với
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và thị trường hóa nền kinh tế, hội
nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, nghề sơn truyền thống đang có cơ hội
thực hiện cơ khí hóa và ứng dụng công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất.
2.2. Những biểu hiện cụ thể của quá trình biến đổi nghề sơn truyền thống
2.2.1. Nguyên vật liệu
Hàng loạt nguyên vật liệu mới thay thế cho các chất liệu trước đây nhờ
ưu điểm nhanh khô, năng suất lao động cao, giá thành rẻ. Sơn ta được thay
thế bằng các loại sơn mới như sơn Nhật (sơn do Nhật Bản sản xuất) và sơn
điều của Việt Nam trong chế tác. Ngoài nhựa sơn, các nguyên vật liệu khác
cũng thay đổi nhằm tương thích với chất liệu sơn mới phục vụ cho nhu cầu
sản xuất hàng loạt của các làng nghề, như: bảng màu hóa học phong phú hơn;
vật liệu để mài, đánh bóng tiện dụng và nhanh hơn rất nhiều so với trước đây
với sự xuất hiện của các loại máy móc thay thế cho lao động thủ công; chất
liệu làm cốt/vóc không còn bó hẹp như trước, ngoài gỗ, vóc có thể được làm
từ nhiều vật liệu khác như nhựa, gốm sứ, composite, tre nứa ; vàng quỳ
được làm từ vàng hay bạc thật được thay thế bằng chất liệu thiếc với giá
thành rẻ hơn…
Nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước về những
sản phẩm thông thường với giá thành vừa phải như hiện nay, việc các làng
nghề truyền thống chuyển sang dùng các nguyên vật liệu mới là hợp lý. Đó là
sự năng động cần thiết của các làng nghề trong cơ chế thị trường.
2.2.2. Quy trình chế tác

Các loại nguyên liệu mới và máy móc giúp quy trình chế tác sản phẩm
nhanh và dễ dàng hơn rất nhiều với khả năng sản xuất một khối lượng hàng
hóa lớn có thể đáp ứng được đơn đặt hàng bất kể số lượng sản phẩm là bao
nhiêu. Có lẽ vì vậy mà việc sản xuất ở các làng nghề sơn này hiện nay đang
được người ta gọi bằng một thuật ngữ rất phổ biến là “công nghệ chế tác”.
2.2.3. Sản phẩm
Loại hình, kiểu dáng và đề tài của sản phẩm hiện nay phong phú hơn
trước rất nhiều nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Đặc biệt,
trước thị hiếu thẩm mỹ của khách hàng - nhất là khách du lịch, các sản phẩm
đều chú trọng vào tiêu chí độc đáo và mới lạ.
2.2.4. Thị trường tiêu thụ - khách hàng
Hiện nay, thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước của nghề sơn được
mở rộng hơn rất nhiều. Với dòng đồ thờ, thị trường trong nước lớn nhất là
11
các tỉnh phía Bắc, kế đến là các tỉnh miền Nam và một số tỉnh miền Trung. Thị
trường nước ngoài cũng có cơ hội được mở rộng do khách hàng là người Việt
Nam ở nước ngoài có nhu cầu đặt đồ thờ cho chùa chiền và nơi thờ tự tại tư gia
ngày càng nhiều. Khác với đồ thờ làng Vũ Lăng, hàng thủ công mỹ nghệ của
nghề sơn truyền thống làng Bối Khê chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu và đã có
mặt ở rất nhiều nước trên thế giới.
2.2.5. Hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh
Dưới tác động của sự đổi mới cơ chế, chính sách của Nhà nước, từ năm
1992 trở đi, các làng nghề sơn truyền thống đã có sự thay đổi cách thức tổ
chức sản xuất: từ hình thức phường thợ, sau là hợp tác xã chuyển sang hình
thức sản xuất cá thể theo hộ gia đình cho phù hợp với thị trường. Quy mô sản
xuất của các hộ được mở rộng để phục vụ và khai thác có hiệu quả thị trường
hiện tại. Những doanh nghiệp và cơ sở lớn ra đời đã biến không ít các tổ hợp
sản xuất nhỏ, các hộ cá thể trở thành cơ sở sản xuất vệ tinh được chuyên môn
hóa ở từng công đoạn, tạo nên một quy trình sản xuất khép kín. Đó là những
hiện tượng chưa từng có ở các làng nghề trước đó. Quan niệm về mua - bán,

giao dịch giờ đã mở hơn, không còn chỉ là sự tiếp xúc trực tiếp giữa người thợ
với khách hàng. Khoảng cách địa lý dù là bao nhiêu cũng không còn là rào
cản, đó là bởi có sự trợ giúp của công nghệ thông tin. Có thể nói, sự kết hợp
giữa cái chàng, cái đục… với chiếc laptop online là hiện tượng giờ mới có trong
hoạt động kinh doanh của những người thợ sơn không chỉ riêng ở các làng nghề
như Bối Khê, Vũ Lăng.
2.2.6. Nguồn nhân lực
Giai đoạn trước năm 1954 nghề sơn truyền thống ở Bối Khê, Vũ Lăng
hoạt động chủ yếu theo hình thức phường thợ - thường là anh em họ hàng,
người làng cùng kéo nhau đi làm lưu động tranh thủ lúc nông nhàn. Trong
khi hiện nay, sức lao động tại các làng nghề này khá dồi dào do nhu cầu phát
triển nghề truyền thống, theo đó, đội ngũ lao động làm nghề là người trong
làng cũng như lực lượng lao động đến từ các làng lân cận và thậm chí là cả ở
các tỉnh khác đều tăng lên theo từng năm. Đội ngũ này cũng góp phần mang
lại cho các làng nghề sự thịnh vượng về kinh tế. Ngoài ra, việc xuất hiện
những nghệ nhân có tay nghề giỏi đồng thời là những chủ xưởng, chủ
doanh nghiệp có đầu óc kinh doanh, rất năng động trong cơ chế thị trường
khác với người thợ cả xưa chỉ biết làm nghề và truyền nghề cũng là một
trong những nét mới ở nghề sơn truyền thống hiện nay.
2.2.7. Vấn đề truyền dạy nghề
12
Theo các nghệ nhân làm sơn truyền thống ở Bối Khê, Vũ Lăng thì ngày
xưa việc giữ bí quyết nhà nghề hết sức được coi trọng, đặc biệt là các khâu cốt
yếu của nghề sơn như pha chế sơn theo diễn biến của thời tiết, kỹ thuật sơn, kỹ
thuật mài… được bảo mật gần như tuyệt đối. Song ngày nay, ý thức và tâm lý
nghề nghiệp của thợ nghề đã thoáng, mở hơn nhiều so với trước.
Sự can thiệp, hỗ trợ từ phía chính quyền trong vấn đề truyền dạy nghề
cũng là một nét mới ở các làng nghề. Đó là việc đưa ra ý kiến chỉ đạo và hướng
dẫn thực hiện, tạo hành lang pháp lý để xin kinh phí hỗ trợ dạy nghề, nâng cao
tay nghề. Qua đó, tổ chức các lớp dạy nghề sơn ở các làng nghề, thu hút được

rất nhiều thanh niên ở làng cũng như các tỉnh khác tham gia. Có thể nói, so với
trước đây, vấn đề truyền dạy nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê, Vũ
Lăng đã được mở rộng hơn về quy mô, đa dạng hơn về hình thức, góp phần tạo
thêm công ăn việc làm, cải thiện cuộc sống cho bà con nhân dân.
2.2.8. Đời sống sinh hoạt của thợ nghề
Thu nhập từ nghề truyền thống đã đưa đến đời sống vật chất khấm khá
hơn rất nhiều cho người dân ở các làng Bối Khê, Vũ Lăng. Bên cạnh đó, đời
sống tinh thần ở các làng nghề cũng có những chuyển biến tích cực, một mặt
nó là kết quả của sự cải thiện đời sống vật chất, mặt khác nó cũng là yêu cầu
cần có để nắm bắt được về tình hình thị trường và những vấn đề có liên quan,
tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp và hộ sản xuất ở làng nghề. Sự
biến đổi trong cuộc sống hiện tại ở cộng đồng làm nghề sơn với một số biểu
hiện cụ thể nói trên có thể xem như là kết quả to lớn đáng ghi nhận có được
từ quá trình biến đổi đa dạng của ngành nghề truyền thống này mà Bối Khê
và Vũ Lăng là những ví dụ tương đối điển hình.
2.3. Hệ quả của quá trình biến đổi nghề sơn truyền thống
2.3.1. Hiện tượng tái cấu trúc hệ giá trị của nghề sơn truyền thống
Suy cho cùng, bản chất của quá trình biến đổi nghề sơn truyền thống ở
các làng nghề như Bối Khê và Vũ Lăng chính là sự điều chỉnh lại hệ giá trị
truyền thống đã có từ bao đời để ngành nghề cổ truyền có thể duy trì tồn tại
trong bối cảnh mới. Theo đó, hệ giá trị này (bao gồm cả yếu tố truyền thống
và hiện đại) có ba bộ phận khá rõ nét. Đó là:
+ Một số giá trị truyền thống vẫn được gìn giữ gần như nguyên vẹn
(phổ biến hơn với làng nghề chế tác đồ thờ như Vũ Lăng) như việc duy trì
chất liệu gỗ truyền thống trong chế tác; Các loại hình sản phẩm vốn đã nằm
trong một hệ thống chuẩn của nghề sơn chế tác đồ thờ cũng gần như không
có gì thay đổi so với trước; Quan niệm về tầm quan trọng của chữ tâm trong
13
chế tác đồ thờ để mỗi sản phẩm (nhất là tượng thờ) có được cái hồn và đảm bảo
được tính thiêng vẫn được coi trọng.

+ Một số giá trị truyền thống được bổ sung, cải tiến: Sự hỗ trợ, can thiệp
của máy móc ở một vài công đoạn dần được chấp nhận với tâm lý cởi mở như
một tất yếu để có được sản lượng hàng hóa mong muốn; Sự đa dạng về kiểu
dáng và kích cỡ của các loại hình sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu của khách
hàng thời nay với quan niệm thẩm mỹ mới: lạ là đẹp; Quan niệm và mục đích
chế tác các mặt hàng thủ công cũng có sự bổ sung cho phù hợp hơn với hoàn
cảnh hiện tại, đó là, sản xuất không chỉ để thỏa mãn đời sống tinh thần - nhu cầu
thưởng thức cái đẹp của con người mà còn phải hướng tới yếu tố thực dụng (giá
trị sử dụng) với các mặt hàng gần gũi sinh hoạt hàng ngày của con người
+ Một số giá trị hoàn toàn mới được tiếp nhận để thay thế cho cái cũ
được quan niệm không còn phù hợp: Một số vật liệu mới thay thế gần như
hoàn toàn cho các chất liệu truyền thống; Mô hình sản xuất cá thể độc lập, cố
định thay cho hình thức phường thợ lưu động và mô hình hợp tác xã; Hình
thức truyền dạy nghề mang tính chất phổ biến rộng rãi thay cho kiểu truyền
nghề “nhất con nhì cháu”; Việc thiết lập và củng cố các mối quan hệ xã hội
của những ông chủ có điều kiện vật chất, có tiếng nói (đôi khi cả quyền lực),
giao dịch thương mại qua e-mail… thay vì quan hệ bó hẹp sau lũy tre làng với
anh em họ hàng, bà con chòm xóm của những ông thợ cả phải chạy đi tìm
kiếm việc làm xưa kia; Lối sống kiểu đô thị do sự xuất hiện của các loại hình
dịch vụ và hình thức giải trí chưa từng có trước đây tại các làng nghề
2.3.2. Một số vấn đề cần nhìn nhận lại từ quá trình biến đổi của nghề
sơn truyền thống
Rõ ràng là khi nghề sơn truyền thống đã có sự biến đổi ở hầu hết các khía
cạnh, đặc biệt là khi hệ giá trị truyền thống của nó không còn nguyên vẹn như
trước thì quan điểm về nghề sơn truyền thống, làng nghề sơn truyền thống và
nghệ nhân sơn truyền thống cũng cần phải được nhìn nhận khác trước. Vấn đề
đặt ra ở đây là: chúng ta vẫn bàn đến ba tiêu chí quan trọng nhất để định danh
nghề sơn truyền thống là: sử dụng chất liệu truyền thống - sơn ta, chế tác sản
phẩm bằng kỹ thuật truyền thống và được kế tục truyền thống - tức là có số
năm lịch sử nhất định, đặc biệt là nghề sơn thuộc nhóm ngành nghề thủ công

mỹ nghệ thì phải đảm bảo thêm yếu tố “thẩm mỹ”. Song, khi nghề sơn hiện
nay không còn tuân theo các tiêu chí này nữa thì các danh xưng nghề sơn
truyền thống, làng nghề sơn truyền thống và nghệ nhân sơn truyền thống có
còn hợp lý ở thời điểm này nữa hay không?
14
Vấn đề đặt ra hiện nay là cần có sự định danh rõ ràng, minh bạch cho mỗi
sản phẩm sơn truyền thống hay sơn hiện đại khi lưu hành trên thị trường. Về
mặt thể chế, nên chăng cần thiết tham khảo thêm kinh nghiệm của Nhật Bản,
Hàn Quốc - là những nước cùng có nghề sơn như chúng ta và họ đã ban hành
nhiều điều luật cụ thể về nghề thủ công truyền thống cũng như đã đạt được rất
nhiều thành tựu trong công cuộc bảo tồn và phát triển bộ phận di sản văn hóa
này nhằm phân định hợp lý các khái niệm liên quan đến nghề sơn truyền
thống - đó là cơ sở để giải quyết những vấn đề của ngành nghề cổ truyền này
trong thời điểm hiện nay.
2.3.3. Xung đột kinh tế - văn hóa, xã hội
Nhìn trên bề nổi, thu nhập của người làm nghề hiện cao hơn rõ rệt với
khối lượng công việc tương đối ổn định, đời sống vật chất và tinh thần được cải
thiện đáng kể so với các giai đoạn trước đây. Tuy nhiên, sâu sa thì lại mất đi
không ít các giá trị văn hóa, mà theo các nghệ nhân tâm huyết thì cái mất lớn
nhất là chính là chất liệu sơn ta - một trong những yếu tố quan trọng nhất làm
sự khác biệt của nghề sơn truyền thống và các sản phẩm sơn truyền thống Việt
Nam so với thế giới sơn mài Đông Á gồm 3 trung tâm nổi tiếng là Nhật Bản,
Trung Quốc và Hàn Quốc. Lợi ích kinh tế không tương xứng với tài năng và
công sức của các nghệ nhân cũng là một trong những khía cạnh thể hiện xung
đột kinh tế - văn hóa nảy sinh trong quá trình biến đổi nghề sơn truyền thống.
Sự phân hóa giữa số ít ông chủ có tiềm lực kinh tế với đại đa số thợ nghề có thu
nhập ở mức trung bình ngày càng rõ nét ở các làng nghề đã kéo theo một số ảnh
hưởng tiêu cực tới đời sống của nhân dân
2.3.4. Vấn đề môi trường
Nghề sơn truyền thống trước đây dùng sơn ta vốn đã là nghề có nguy cơ

gây ô nhiễm môi trường rất cao, nay từ những sự thay đổi trong sản xuất đồ
sơn: sản xuất hàng loạt, cơ khí hóa sản xuất và đặc biệt là chuyển sang dùng
nhiều loại hóa chất nên tình trạng ô nhiễm ngày càng nặng nề. Môi trường ô
nhiễm bao gồm cả nguồn nước, không khí và đặc biệt là tiếng ồn của các loại
máy móc hoạt động trong quá trình chế tác không chỉ ảnh hưởng đến công
việc sản xuất kinh doanh mà quan trọng hơn cả là ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khỏe của người dân làng nghề. Có thể nói, vấn đề môi trường đang thực
sự trở thành điểm nóng ở các làng Bối Khê, Vũ Lăng, song cho tới nay
dường như nó vẫn lâm vào ngõ cụt do bấy lâu bị chính quyền và người trực
tiếp làm nghề bỏ ngỏ.
15
Tiểu kết
Dưới tác động của các điều kiện khách quan và chủ quan trong bối
cảnh mới, nghề sơn truyền thống ở hai làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng đã có
một quá trình vận động, biến đổi ở hầu khắp các khía cạnh. Ở một góc độ
nào đó, những khía cạnh biến đổi này đã đem lại diện mạo và sức sống mới
cho các làng nghề. Tuy nhiên, song hành với những biểu hiện mang tính tích
cực rất đáng ghi nhận ấy lại là những hệ lụy về mặt văn hóa, xã hội mà ở đó
đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm mai một các giá trị cốt yếu của ngành nghề
truyền thống này.
Từ góc độ Văn hóa học, nghề sơn truyền thống với tư cách là một hiện
tượng văn hóa không nằm ngoài quy luật vận động và biến đổi. Nguyên nhân
chủ yếu của sự biến đổi này chính là do sự tác động trực tiếp và gián tiếp của
các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội. Chính sự biến đổi làm cho nghề sơn
truyền thống được đổi mới, cải tiến và nhờ đó mà tồn tại, phát triển được.
Nghề sơn sẽ tiếp tục biến đổi trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Vì vậy,
vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để định hướng cho nghề sơn truyền
thống ở hai làng nghề phát triển theo hướng: bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống, đồng thời giải quyết được những mâu thuẫn giữa kinh

tế với các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường, đảm bảo được đời sống vật
chất và tinh thần của người dân.
Chương 3
VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGHỀ SƠN TRUYỀN THỐNG Ở CÁC
LÀNG BỐI KHÊ, VŨ LĂNG VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA
LUẬN ÁN
3.1. Định hướng phát triển nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê
và Vũ Lăng
3.1.1. Xu hướng vận động của nghề sơn truyền thống ở hai làng
trong thời gian tới
Với những điều kiện thuận lợi của bối cảnh mới cùng các chủ trương,
chính sách của chính quyền các cấp là động lực, trong thời gian sắp tới và lâu
dài, nghề sơn truyền thống ở Bối Khê và Vũ Lăng sẽ còn tiếp tục phát triển
mạnh hơn nữa nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, nhu cầu tôn giáo tín ngưỡng
ngày càng đa dạng của nhân dân ở trong nước và nước ngoài.
Vấn đề phát triển nghề sơn trong giai đoạn hiện nay cần được đặt ra
trong khuôn khổ chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói
16
chung và Thủ đô nói riêng, song có chú ý tới những yếu tố đặc thù của nghề
truyền thống ở trường hợp từng làng nghề cụ thể. Theo đó, vấn đề phát triển
nghề sơn truyền thống ở hai làng nghề hiện nay là việc bảo đảm sự tăng
trưởng kinh tế ổn định, bảo đảm các vấn đề xã hội trong bản thân làng nghề
như về việc làm, thu nhập và mức sống của người dân; Về tình hình sức khỏe
và y tế cộng đồng gắn với việc bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường
sống; Tác động ảnh hưởng tích cực của nghề sơn đến hoạt động kinh tế, xã
hội và môi trường của địa phương, khu vực có nghề. Như vậy, mô hình phát
triển của nghề sơn và làng nghề sơn truyền thống về cơ bản cần đảm bảo dựa
trên ba yếu tố kinh tế - xã hội (văn hóa) - môi trường.
3.1.2. Một số quan điểm phát triển nghề sơn truyền thống
Trên nhiều phương diện, nền kinh tế ở các vùng nông thôn Việt Nam

luôn phát triển song hành với sự tồn tại của các nghề và làng nghề truyền
thống. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh
công nghiệp hóa, nghề sơn truyền thống đã có sự thay đổi nhiều mặt nhằm
thích ứng với nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh mới này, nghề sơn
truyền thống lại có vai trò và vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nông
thôn mới ở các làng quê như Vũ Lăng và Bối Khê. Vấn đề gìn giữ và phát
triển nghề sơn, làng nghề sơn truyền thống như bất cứ ngành nghề nào khác
là một bộ phận trong chiến lược phát triển chung của quốc gia và địa phương.
Trong những năm gần đây, ở tầm vĩ mô, các ngành nghề thủ công truyền
thống như nghề sơn của hai làng hứa hẹn có nhiều tiềm năng phát triển khi
được chính quyền các cấp dành sự quan tâm nhất định thông qua việc ban
hành một số văn bản với các cơ chế, chính sách hỗ trợ. Gần đây nhất có thể
kể đến: Quyết định số 491/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bộ
tiêu chí quốc gia về nông thôn mới và Quyết định về việc phê duyệt Quy
hoạch phát triển nghề, làng nghề Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030 của UBND Tp. Hà Nội.
Có thể nói, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn ở các làng nghề như Bối Khê, Vũ Lăng không chỉ đơn thuần hướng tới
các mục tiêu về kinh tế mà nó còn hàm chứa các vấn đề văn hóa - xã hội,
trong đó việc bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống như nghề sơn
đóng vai trò quan trọng, tích cực. Trên cơ sở nhận định: trong nền kinh tế thị
trường, khả năng thích ứng của nghề sơn truyền thống với những yêu cầu của
thị trường quyết định sự tồn tại và phát triển của nghề và làng nghề, và, nghề
sơn truyền thống trong thời điểm hiện tại và tương lai là cầu nối giữa nông
17
nghiệp - công nghiệp, nông thôn - thành thị, giữa truyền thống - hiện đại,
giữa bảo tồn - phát triển, một số mục tiêu phát triển của ngành nghề thủ công
này ở hai làng nghề trong giai đoạn trước mắt theo chúng tôi là: Hiện đại hóa
công nghệ truyền thống và truyền thống hóa công nghệ hiện đại; Nhà nước
tiếp tục có các biện pháp tăng cường hỗ trợ làng nghề nhằm nâng cao năng

lực ứng biến trên thương trường; Cải thiện cơ sở hạ tầng; Phát triển nghề sơn
truyền thống gắn với du lịch và bảo vệ môi trường.
3.1.3. Sự phát triển của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và
Vũ Lăng: những vấn đề cần giải quyết
Chúng tôi cho rằng, để đạt được mục tiêu phát triển, cần thiết phải có
sự tham vấn của các nhà nghiên cứu, sự phối hợp hành động đồng bộ giữa
các ngành, các cấp chính quyền và sự năng động của bản thân các làng nghề
trên cơ sở thống nhất quan điểm: Nhà nước và nhân dân cùng làm. Những
vấn đề cần tập trung giải quyết trong thời gian tới đó là:
Xây dựng hệ thống chính sách, luật và các chương trình bảo tồn và
phát triển nghề thủ công truyền thống trong đó có nghề sơn
Chính sách và luật do Nhà nước ban hành được coi là nền tảng pháp lý
để các cấp, các ngành và toàn xã hội thực hiện việc bảo tồn và phát triển
nghề thủ công truyền thống. Tuy nhiên, cho tới nay, những chính sách riêng
của Nhà nước đối với nhóm ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống vẫn
còn khá hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của nhóm này.
Ngoài ra, việc làm thế nào để qui chế, chính sách có thể đi vào đời sống sản
xuất ở mỗi làng nghề cũng là vấn đề cần quan tâm. Điều này đòi hỏi phải có
những văn bản hướng dẫn cụ thể, phân định rõ vai trò, trách nhiệm và quyền
hạn của các cơ quan, tổ chức có liên quan và sau cùng là sự thống nhất, phối
hợp đồng bộ trong quá trình phổ biến và triển khai thực hiện.
Mở rộng thị trường tiêu thụ
Khả năng thích ứng với nhu cầu biến động không ngừng của thị trường
quyết định sự tồn tại và phát triển của nghề sơn. Do vậy, trước hết, cần xây
dựng và thực hiện chiến lược xúc tiến thương mại, tiếp cận và khai thác thị
trường đầu ra cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ trong đó có sản phẩm sơn
truyền thống; Thứ hai, chú trọng việc xây dựng và phát triển thương hiệu
làng nghề; Thứ ba, cải tiến hình thức, mẫu mã, đa dạng hóa chủng loại sản
phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Để giải quyết được những vấn đề nêu trên
đòi hỏi ngoài sự nỗ lực, năng động của các cơ sở sản xuất ở hai làng nghề,

cần có sự ủng hộ của UBND Tp. Hà Nội, sự vào cuộc của ngành công
18
thương thành phố cũng như hai huyện Phú Xuyên, Thanh Oai và UBND các
xã Chuyên Mỹ, Dân Hòa.
Thị trường nguyên liệu
Trước tình hình thực tế của nguồn nguyên liệu, cần triển khai thực hiện
một số việc như sau: (1) Khẩn trương xây dựng quy hoạch phát triển vùng
nguyên liệu phục vụ cho nhóm ngành nghề thủ công mỹ nghệ trong đó có
nghề sơn. Đặc biệt, cần có quy hoạch khẩn cấp đối với các vùng đất thích
hợp trồng cây sơn như Phú Thọ, Yên Bái… cùng với chính sách bảo hộ đối
với đội ngũ những người trồng sơn. Có chính sách khuyến khích các cơ quan,
các nhà khoa học mở rộng nghiên cứu về nguồn nguyên liệu mới cho các mặt
hàng sơn truyền thống rồi đưa kết quả nghiên cứu về ứng dụng ở các làng
nghề; (2) Tăng cường mối liên kết, hợp tác với các tỉnh, thành phố trong cả
nước cũng như các đầu mối ở nước ngoài trong việc cung cấp các nguyên vật
liệu chủ yếu của nghề sơn; (3) Các cơ sở sản xuất tại làng nghề cần chủ động
tìm hiểu, nắm bắt các thông tin về nguyên liệu đầu vào cho sản xuất.
Kỹ thuật, công nghệ
Trong thời gian tới, Thành phố cần có một số đường hướng như sau:
(1) Khuyến khích việc áp dụng các kỹ thuật, công nghệ mới, hiện đại vào sản
xuất tại các làng nghề, đặc biệt là trong một số công đoạn chế tác có thể
nhằm giảm thiểu sức lao động, tăng năng xuất lao động; (2) Tăng cường hợp
tác giữa các làng nghề truyền thống với các cơ quan nghiên cứu có chức
năng, nhiệm vụ đổi mới và cải tiến công nghệ sản xuất cho làng nghề. Về
phía các làng nghề, cần chủ động tiếp cận, ứng dụng thành tựu của công nghệ
hiện đại vào sản xuất song song với việc duy trì ý thức sử dụng kỹ thuật
truyền thống ở những công đoạn chủ yếu trong quá trình chế tác, nhằm đảm
bảo “yếu tố truyền thống” của sản phẩm sơn truyền thống; (3) Đẩy mạnh việc
ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của các
làng nghề. Trước mắt, cần ứng dụng các phần mềm quản lý sản xuất, quản lý

chất lượng sản phẩm, website làng nghề, chợ giao dịch trực tuyến…
Nguồn nhân lực
Chính sách đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong nghề, tôn vinh
nghệ nhân là việc làm hết sức cần thiết trong thời gian tới. Mặt khác, khi làng
nghề tồn tại trong nền kinh tế thị trường, ngoài kỹ năng, bí quyết riêng, đòi
hỏi những người thợ kiêm ông chủ phải có kiến thức về kinh doanh, thương
trường để có thể quản lý sản xuất, tổ chức tiêu thụ sản phẩm, tạo mối quan hệ
làm ăn Trong thời gian tới, để giải quyết vấn đề này theo chúng tôi cần: (1)
19
Có chính sách cụ thể về phúc lợi xã hội cho những người lao động đang theo
nghề. Đặc biệt, cần xem xét lại chế độ ưu đãi đối với những nghệ nhân thực
hành nghề ở trình độ cao; (2) Tăng cường đào tạo nghề theo hình thức truyền
nghề, nhân cấy nghề; (3) Quan tâm bồi dưỡng kiến thức cho các chủ doanh
nghiệp, chủ các cơ sở sản xuất tại làng nghề. Đó là những kiến thức về
thương trường, tổ chức sản xuất, quản lý doanh nghiệp, kỹ thuật và công
nghệ hiện đại… Qua đó, hình thành được một đội ngũ nghệ nhân - doanh
nhân đủ lực duy trì và phát triển nghề.
Kết cấu hạ tầng
Để cải thiện và nâng cao cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu phát triển của
nghề sơn ở hai làng Vũ Lăng và Bối Khê, chúng tôi cho rằng cần tiến hành
khảo sát và quy hoạch phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng cho làng nghề, trong
đó tập trung vào các hạng mục trọng điểm như hệ thống giao thông, hệ thống
điện, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cấp - thoát nước, hệ thống y tế,
giáo dục.
Tổ chức sản xuất - kinh doanh
Trong thời gian tới cần duy trì và kết hợp các mô hình tổ chức sản xuất
kinh doanh đang tồn tại và hoạt động tại làng nghề nhằm tạo ra nguồn lực
tổng hợp, thúc đẩy sự phát triển của nghề sơn truyền thống trong nền kinh tế
thị trường. Theo đó: (1) Khuyến khích phát triển các công ty tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn sản xuất và kinh doanh sản phẩm sơn truyền thống; (2)

Có chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với kinh tế hộ gia đình trong các
khâu sản xuất kinh doanh; (3) Khuyến khích mối liên kết giữa các loại hình
kinh tế trong phạm vi làng nghề cũng như với các vùng và địa phương khác
cũng có nghề sơn truyền thống, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh và hạn chế được tình trạng chèn ép của tư thương đối với các cơ
sở sản xuất nhỏ.
Phát triển làng nghề gắn với du lịch
Để hoạt động du lịch tại các làng nghề sơn Bối Khê, Vũ Lăng hiện nay
có thể phát triển hiệu quả trên các mặt kinh tế, xã hội và môi trường sinh
thái, trong thời gian tới cần: (1) Xúc tiến quảng bá làng nghề và sản phẩm
sơn truyền thống của làng nghề trên các kênh thông tin; (2) Tăng cường hợp
tác với các công ty du lịch, các hãng lữ hành trong việc tổ chức các tour tham
quan làng nghề truyền thống; (3) Hỗ trợ các làng nghề trong việc xây dựng
cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch làng nghề như mở rộng và nâng cấp các tuyến
đường giao thông ra - vào làng nghề, hình thành các dịch vụ hỗ trợ cho du
20
lịch làng nghề; (4) Quan tâm tới công tác bảo vệ, trùng tu, tôn tạo các di tích
lịch sử văn hóa cũng như khôi phục và phát triển các hoạt động văn hoá dân
gian truyền thống trong khu vực làng nghề; (5) Xây dựng môi trường du lịch
văn hoá tại làng nghề; (6) Xây dựng các điểm dịch vụ thương mại phục vụ
cho nhu cầu mua - bán trong hoạt động du lịch làng nghề; (7) Các làng nghề
sơn truyền thống cần được thiết lập các quy định về bảo vệ môi trường trên
cơ sở Luật Bảo vệ môi trường và Luật Du lịch.
Vấn đề môi trường
Giải quyết vấn đề môi trường cần phải dựa trên các điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội của từng địa phương song đều hướng tới các mục tiêu cơ bản
là giảm thiểu ô nhiễm, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng
đồng làng nghề. Trước mắt cần thực hiện các công việc sau: (1) Khẩn trương
phổ biến và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
tới các làng nghề; (2) Tăng cường hoạt động giám sát môi trường làng nghề

và tiếp tục thực hiện các chương trình nghiên cứu, xét nghiệm về mức độ độc
hại của các chất hóa dùng trong sản xuất ở các làng nghề; (3) Hỗ trợ các làng
nghề áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong việc cải thiện môi trường;
(4) Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các dự án nghiên cứu về áp dụng sản xuất
sạch cho từng loại hình làng nghề cụ thể; (5) Ban hành chính sách về tài
nguyên đất với mục tiêu đáp ứng nhu cầu đất sử dụng trong xây dựng khu
dân cư, sản xuất kinh doanh thông qua quy hoạch không gian môi trường và
sử dụng diện tích hợp lý; (6) Chính quyền địa phương phối hợp của với Sở
Tài nguyên Môi trường và các cơ quan hữu quan thường xuyên triển khai các
chương trình, hoạt động nhằm nâng cao ý thức, hiểu biết về môi trường và
năng lực xử lý ô nhiễm do sản xuất gây ra của người dân làng nghề.
Vấn đề tổ chức, quản lý Nhà nước
Để nghề sơn truyền thống tiếp tục được duy trì và phát triển trong thời
gian tới, trong vấn đề tổ chức, quản lý Nhà nước chúng tôi cho rằng cần thực
hiện tốt ba điểm mấu chốt: (1) Tăng cường tuyên truyền, phổ biến các chủ
trương, đường lối của Đảng, Nhà nước và Tp. Hà Nội về vai trò và ý nghĩa
của vấn đề phát triển nghề và làng nghề thủ công truyền thống trong đó có
nghề sơn; (2) Thường xuyên rà soát các văn bản về cơ chế, chính sách có liên
quan đến nghề và làng nghề đã ban hành để kịp thời điều chỉnh, bổ sung và
thống nhất triển khai trên địa bàn Thành phố; (3) Thực hiện nghiêm túc và
triệt để hơn nữa vấn đề cải cách thủ tục hành chính như: thực hiện cơ chế
một cửa, giải quyết các thủ tục kịp thời, nhanh gọn và hiệu quả nhằm tạo
21
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và các hộ sản xuất ở làng nghề sản
xuất kinh doanh.
3.2. Một vài biện luận về tính mới của luận án
Luận án Sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê
(huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), thành phố Hà Nội hiện
nay nghiên cứu nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê, Vũ Lăng dưới
cách tiếp cận Văn hóa học mang tính liên ngành, theo đó đưa đến một số kết

quả nghiên cứu mới như sau: (1) Cung cấp thông tin bổ sung về lịch sử nghề
sơn trên thế giới; (2) Tổng hợp tương đối toàn diện những giá trị đóng góp
của sản phẩm sơn trong đời sống của cư dân châu thổ Bắc Bộ; (3) Cung cấp
thông tin bổ sung về một số làng nghề sơn ở châu thổ Bắc Bộ, đặc biệt là hai
trung tâm sản xuất đồ sơn Bối Khê và Vũ Lăng, qua đó xác định sự phân bố
của nghề sơn truyền thống ở khu vực này; (4) Vấn đề lựa chọn và vận dụng
các cơ sở lý luận liên quan đến biến đổi nghề sơn truyền thống với tư cách là
một hiện tượng văn hóa trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; (5)
Chứng minh tính tất yếu khách quan của quá trình biến đổi nghề sơn truyền
thống ở hai làng thông qua các nội dung biến đổi và hệ quả đưa lại từ sự biến
đổi này; (6) Dựa trên quan điểm phát triển nghề sơn truyền thống ở Bối Khê
và Vũ Lăng cùng tình hình thực tế của hai làng nghề, nêu lên những vấn đề
cần giải quyết nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất có hiệu quả trên các
mặt kinh tế, xã hội và môi trường trong thời gian tới.
Tiểu kết
Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và UBND Tp. Hà Nội, cùng sự
năng động của đội ngũ những người thợ làm nghề, nghề sơn ở hai làng Bối
Khê và Vũ Lăng đã và đang có nhiều cơ hội và triển vọng phát triển. Chúng
tôi cho rằng, động thái từ phía làng nghề ít nhiều cũng đã mang lại hiệu quả
trước mắt, song xét về lâu dài để nghề sơn truyền thống có thể phát triển đảm
bảo sự hài hòa các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội đòi hỏi phải có sự thực thi
đồng bộ nhiều chính sách xuất phát từ thực tế của nghề sơn truyền thống ở
hai làng với sự phối hợp của cộng đồng làng nghề, chính quyền các cấp và
các ngành có liên quan.
Luận án Sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê
(huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), thành phố Hà Nội hiện
nay từ cách tiếp cận Văn hóa học mang tính liên ngành, một số vấn đề cơ bản
được giải quyết trong luận án đã thể hiện tính mới trong tương quan so sánh
với các công trình nghiên cứu đi trước.
22

KẾT LUẬN
1. Nghề sơn xuất hiện sớm và phát triển rực rỡ nhất ở châu thổ Bắc Bộ
gắn với sự ra đời và tồn tại của nhiều phường thợ và làng nghề. Trong đó, hai
làng nghề Bối Khê, huyện Phú Xuyên và Vũ Lăng, huyện Thanh Oai, Tp. Hà
Nội nổi lên như hai trung tâm sản xuất đồ sơn đã được định danh bởi những
sản phẩm mang giá trị nhiều mặt, góp phần để nghề sơn truyền thống xứng
đáng với tên gọi “nghề làm đẹp cho đời”.
2. Kể từ khi đất nước bước vào thời kỳ Đổi mới, dưới tác động của thể
chế chính sách của Đảng và Nhà nước cùng những chuyển biến to lớn trong
đời sống kinh tế, xã hội, nghề sơn truyền thống của hai làng Bối Khê và Vũ
Lăng đã có sự biến đổi khá đa dạng ở hầu khắp các khía cạnh nghề với qui
mô và cấp độ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của từng thời
kỳ và từng làng nghề. Mặc dù vậy, vẫn có một số thành tố của nghề sơn
truyền thống ít bị biến đổi hay biến đổi rất chậm như đã đề cập trong luận án.
3. Quá trình biến đổi của nghề sơn truyền thống có thể xem như quy
luật tất yếu của cuộc sống để nghề có thể tiếp tục duy trì ở hai làng đến hôm
nay thay vì bị lụi tàn như trường hợp một số làng nghề sơn đã không thể
thích nghi với bối cảnh kinh tế, xã hội mới. Những kết quả đem lại từ quá
trình biến đổi này là rất đáng ghi nhận và có vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
4. Sự biến đổi nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng
đã đưa đến một số hệ quả là các vấn đề văn hóa, xã hội. Đặc biệt, như bất cứ
hiện tượng văn hóa nào, sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở hai làng
mang tính hai mặt. Song hành với những yếu tố tích cực, quá trình biến đổi
cũng đưa đến một số hệ lụy và mà ở đó đang đặt ra những vấn đề cấp bách
đối với sự phát triển của nghề sơn truyền thống ở hai làng trong xã hội đương
đại. Nổi cộm nhất đó là các vấn đề về xung đột kinh tế - văn hóa, môi trường
làng nghề.
5. Luận án thể hiện một góc nhìn nhỏ của NCS trong quan điểm đa
chiều về sự biến đổi của nghề sơn truyền thống nói riêng và nghề thủ công

truyền thống Việt Nam nói chung hiện nay. Từ trường hợp nghiên cứu nghề
sơn truyền thống ở Bối Khê và Vũ Lăng, chúng tôi nghĩ rằng: Việc các nghệ
nhân và thợ sơn duy trì ý thức gìn giữ những giá trị truyền thống của nghề
sơn song chủ động, tích cực tiếp nhận và ứng dụng những giá trị mới phù
hợp, năng động trước nhu cầu của đời sống xã hội đương đại chính là một cơ
sở quan trọng để nghề sơn truyền thống ở các làng nghề phát triển đi lên
23
trong tương lai. Song, xu hướng “biến đổi để tồn tại và phát triển” của nghề
sơn truyền thống ở các làng như Bối Khê, Vũ Lăng để đi đến thành công thì
sự tự thân của mỗi cộng đồng làng nghề là chưa đủ mà đòi hỏi phải có sự nỗ
lực từ nhiều phía, dẫu sao đó cũng là một động thái rất đáng khích lệ từ phía
các làng nghề.
6. Ở góc độ khái quát, luận án Sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở
các làng Bối Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), thành
phố Hà Nội hiện nay thể hiện tính mới so với các công trình nghiên cứu đi
trước ở đối tượng nghiên cứu - nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê, Vũ
Lăng và phương pháp tiếp cận Văn hóa học, theo đó đưa đến một số kết quả
nghiên cứu mới như đã được biện luận trong luận án.
7. Nghề sơn truyền thống Việt Nam là chủ đề vốn rất phong phú, đa
dạng, có thể khai thác, tiếp cận dưới nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau.
Điều đó cho thấy, sau luận án Sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các
làng Bối Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), thành phố
Hà Nội hiện nay cùng một số các công trình nghiên cứu khác đã đề cập đến
chủ đề truyền thống và biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng nghề
như Cát Đằng, Bình Vọng… chắc chắn vẫn sẽ còn khoảng trống về mảng
chủ đề này. Trong rất nhiều vấn đề có thể nghĩ tới, chúng tôi nhận thấy một
vài hướng nghiên cứu khả thi có thể tiếp tục triển khai trong tương lai. Đó là:
Nghiên cứu sự biến đổi của nghề sơn truyền thống tại một số làng nghề khác
ở châu thổ Bắc Bộ (như Sơn Đồng, Hạ Thái, Hà Cầu ) từ cách tiếp cận liên
ngành; Nghiên cứu quy luật biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng

nghề châu thổ Bắc Bộ dưới tác động của nền kinh tế thị trường và quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
24

×