Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tóm tắt luận án tiên sĩ phát triển kinh tế xã hội vùng tam giác phát triển việt nam lào campuchia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.85 KB, 28 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
o0o
LÊ PHƯƠNG HÒA
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG TAM GIÁC PHÁT TRIỂN
VIỆT NAM - LÀO - CAMPUCHIA
Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế
Mã số: 62.31.07.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
Hà Nội - 2013
Công trình được hoàn thành tại:
Học Viện Khoa học Xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Nguyễn Duy Dũng
2. TS. Lê Thị Ái Lâm
Phản biện 1: PGS.TS. An Như Hải
Phản biện 2: PGS.TS. Trịnh Thị Mai Hoa
Phản biện 3: PGS.TS. Bùi Tất Thắng
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, tại Học viện Khoa
học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
vào hồi giờ ngày tháng năm 2013
Có thể tìm Luận án tại:
1. Thư viện Quốc gia Việt Nam
2. Trung tâm Thông tin – Thư viện,Học viện Khoa học Xã hội
3. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử, CLV đã cùng chung sức chung lòng trong công cuộc bảo vệ và xây
dựng đất nước. Đây là cơ sở hết sức quan trọng để tiếp tục mở rộng hình thức hợp tác giữa


ba nước, trước đây, hiện nay cũng như trong tương lai. Làm thế nào phối hợp khai thác
được thế mạnh của ba nước? Hình thức hoặc mô hình nào thích hợp để cùng nhau hợp tác
phát triển? Đây là bài toán luôn nhận được sự quan tâm của lãnh đạo ba nước. Những năm
gần đây quan hệ hợp tác ba bên ngày càng được phát triển và đã mang lại những kết quả
tốt cho mỗi quốc gia.
Trong khuôn khổ ASEAN, CLV đã tham gia nhiều hình thức hợp tác tiểu khu vực
khác nhau như: Hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông (GMS), hợp tác trong khuôn khổ
AMECS, hành lang Đông - Tây (WEC), nhóm các nước CLMV (Campuchia, Lào,
Mianma và Việt Nam). Sự tham gia vào các hình thức hợp tác trên đã đem lại sự hiểu biết
lẫn nhau, cùng khai thác những lợi thế và thúc đẩy sự hợp tác có hiệu quả.
Khu vực tam giác phát triển là vùng đất khá đặc biệt có nhiều nét tương đồng về đặc
điểm tự nhiên, văn hoá với nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng nhưng chưa được khai
thác, đây cũng là vùng có vị trí chiến lược quan trọng đối với cả ba nước về chính trị, kinh
tế, xã hội và môi trường sinh thái. Vì thế, mục đích của việc xây dựng tam giác phát triển
là khai thác tiềm năng, thế mạnh, các nguồn lực của mỗi nước trong khu vực nhằm mục
tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, rút ngắn khoảng cách phát triển so với các
vùng khác của mỗi nước, tạo động lực cho cả vùng và các khu vực khác của mỗi nước.
Hợp tác trong khuôn khổ tam giác tăng trưởng được xem như là một phương thức hợp tác
quốc tế mới nhằm khai thác và phát huy hiệu quả những lợi thế và hạn chế những bất lợi
của mỗi vùng thông qua quá trình tương tác, bổ sung và cùng phát triển.
Hợp tác phát triển là cần thiết nhưng làm thế nào để hợp tác có hiệu quả mới là điều
quan trọng. Với tư cách một vùng phát triển, CLVDT đã hình thành và phát triển như thế
nào khi mà so với các vùng tam giác tăng trưởng khác đã hình thành và phát triển trên thế
giới thì CLVDT không hội tụ đủ những yếu tố đã tạo nên sự thành công cho các vùng tam
giác khác như có một trung tâm kinh tế đầu tàu hay có những lợi thế kinh tế bổ sung cho
nhau giữa các phần của mỗi nước. Đây cũng là một ẩn số cần tìm lời giải đáp để trả lời câu
hỏi đâu là cơ sở cho sự hình thành và phát triển của CLVDT. Việc nhận diện các nhân tố
tác động đến vùng để có hướng điều chỉnh quy hoạch và hợp tác cho phù hợp cũng là câu
hỏi cần sớm có câu trả lời.
Với những lý do trên, nghiên cứu sinh đã chọn vấn đề Phát triển kinh tế - xã hội

vùng Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia làm để tài luận án tiến sỹ chuyên
ngành Kinh tế Thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế của mình.
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu chung của đề tài là cung cấp luận cứ khoa học (cả lý luận và thực tiễn) cho
việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng Tam giác
phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia hiện nay và trong tương lai.
Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hình thành và phát triển tam giác phát
triển Việt Nam - Lào - Campuchia với tư cách là một vùng phát triển
- Tổng quan và phân tích thực trạng phát triển của vùng CLVDT và hệ thống các nhân
tố tác động đến sự phát triển vùng.
- Đưa ra cac quan điểm phát triển và các giải pháp phát triển nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế-xã hội vùng tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được xác định là sự phát triển kinh tế - xã hội vùng tam giác
phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia
Phạm vi nghiên cứu: luận án tập trung nghiên cứu 13 tỉnh thuộc khu vực tam giác phát
triển Việt Nam - Lào - Campuchia. Đây là những tỉnh được xác định trong các văn kiện ký
kết giữa thủ tướng ba nước về xây dựng tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia.
Luận án giới hạn nghiên cứu từ năm 1999 (thời kỳ hình thành sáng kiến về phát triển tam
giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia) đến 2012.
4. Đóng góp của luận án
Nghiên cứu về phát triển kinh tế xã hội vùng Tam giác phát triển Việt Nam - Lào -
Campuchia dưới góc độ phát triển vùng là một đề tài nghiên cứu có nhiều ý nghĩa về lý
luận và thực tiễn. Về mặt khoa học, đề tài sẽ góp phần làm phong phú thêm kho tàng các
công trình nghiên cứu về hợp tác phát triển của chuyên ngành kinh tế thế giới và quan hệ
kinh tế quốc tế trong bối cảnh khu vực hóa và toàn cầu hóa hiện nay. Nó sẽ là nguồn tư
liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên, đồng thời đóng góp trong việc hệ thống
hóa cơ sở lý luận về lý thuyết và thực nghiệm của hợp tác vùng và hội nhập khu vực. Về
thực tiễn, kết quả nghiên cứu sẽ là nguồn tư liệu hữu ích đối với các nhà hoạch định chính

sách, giúp ích cho quá trình hoạch định chính sách của Việt Nam và các nước khác trong
khuôn khổ hợp tác vùng, hội nhập khu vực và phát triển CLVDT.
5. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận án được chia thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan
Chương 2: Cơ sở hình thành và phát triển vùng tam giác phát triển Việt Nam - Lào -
Cam puchia
Chương 3: Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội vùng tam giác phát triển Việt Nam -
Lào - Cam puchia.
Chương 4: Kết quả và bàn luận
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về khu vực này, tuy nhiên trên thực tế
việc đi sâu xem xét và phân tích vấn đề hợp tác phát triển kinh tế vùng tam giác phát triển
Việt Nam - Lào - Campuchia dưới góc độ vùng thì hầu như chưa được đề cập một cách
đầy đủ và hệ thống.
Điểm lại các công trình nghiên cứu về phát triển kinh tế - xã hội vùng Tam giác phát
triển Việt Nam - Lào - Campuchia, có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Đây là một chủ đề nghiên cứu rộng, vừa phải tiếp cận dưới góc độ vùng, vừa phải
tiếp cận dưới cách nhìn của hợp tác quốc tế nên hệ thống các vấn đề liên quan đến chủ đề
khá nhiều, các công trình liên quan đến CLVDT về lý thuyết bao gồm các công trình liên
quan đến phát triển vùng, hợp tác quốc tế. Về thực tiễn bao gồm các công trình liên quan
đến tam giác phát triển, đến các nước Việt Nam, Lào, Campuchia; các công trình liên quan
đến GMS và rộng hơn là ASEAN; các công trình liên quan đến các địa phương thuộc tam
giác và trực tiếp là các công trình liên quan đến CLVDT
- Số lượng các công trình nghiên cứu về CLVDT chưa nhiều, như đã đề cập ở trên chủ
yếu tập trung từ hai cơ quan là Viện Nghiên cứu Đông Nam Á và Bộ Kế hoạch và đầu tư
(chủ yếu là từ Viện chiến lược phát triển). Các công trình của nước ngoài còn ít và rời rạc,
chủ yếu là dưới dạng các bài viết, bài phân tích mang tính mô tả thực trạng.
- Chưa có một công trình nào tiếp cận nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội CLVDT

dưới góc độ vùng. Ngay cả những lý luận về hình thành và phát triển CLVDT hiện cũng
đang nặng về mô tả. Mặc dù công trình nghiên cứu của PGS.TS. Nguyễn Duy Dũng đã có
lý luận về sự hình thành vùng nhưng cách tiếp cận lại dưới góc độ quản lý.
- Hiện vẫn đang thiếu những lý luận mang tính định hướng phát triển vùng cho
CLVDT mặc dù trong quy hoạch phát triển vùng đã có xác định định hướng cho phát triển
vùng nhưng lại được nhìn nhận theo lĩnh vực quản lý hơn là các yếu tố vùng.
Rõ ràng việc xây dựng khu tam giác phát triển từ ý tưởng đã trở thành hiện thực và
được khởi động khá khẩn trương. Tuy nhiên, như đã nhận định ở trên, cho đến nay việc
nghiên cứu về CLVDT vẫn chưa thật sự đầy đủ và hoàn chỉnh. Nhiều câu hỏi đặt ra vẫn
chưa có lời giải đáp thoả đáng. Dù đã có một số công trình đề cập trực tiếp hay gián tiếp
đến hiện trạng phát triển của vùng tam giác, song thực tế hiểu biết đầy đủ về vùng này còn
nhiều hạn chế. Với tư cách là một vùng phát triển, CLVDT cần được nghiên cứu như là
một đối tượng nghiên cứu của kinh tế học vùng để chỉ ra được đâu là yếu tố cấu tạo nên
vùng và tác động đến vùng. Cần thiết phải làm rõ được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ
hội và thách thức của vùng…Từ đó mới có đủ luận cứ để đề xuất các định hướng cũng
như giải pháp phát triển vùng tam giác phát triển nói chung, và khuyến nghị phương
hướng ưu tiên của Việt Nam nói riêng đối với khu vực này.
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Cơ sở lý thuyết
Đề nghiên cứu về vùng CLVDT phải kết hợp 2 nhóm lý thuyết là lý thuyết về hợp tác
kinh tế quốc tế và lý thuyết về phát triển vùng.
Về lý thuyết hợp tác kinh tế quốc tế, nghiên cứu của luận án vận dụng hai lý thuyết cơ
bản là: Lý thuyết về tự do hóa thương mại với nền tảng là nguyên tắc về lợi thế so sánh để
so sánh lợi thế của các tiểu vùng trong vùng tam giác phát triển nhằm tìm ra nguyên nhân
của hợp tác và có thể từ đánh giá lợi thế so sánh rút ra khuyến nghị phát triển cho vùng; và
Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia khi nhìn nhận đánh giá lợi thế của mỗi nước và
các địa phương cụ thể.
Về tăng trưởng vùng có khá nhiều lý thuyết, tuy nhiên nghiên cứu này chỉ đề cập đến
những lý thuyết mà VLCDT có thể tham khảo hoặc vận dụng.
Lý thuyết tăng trưởng nội sinh vùng:

Lý thuyết về các giai đoạn tăng trưởng vùng
Lý thuyết điểm trung tâm của W.Christaller - (Mỹ 1933) gọi tắt là lý thuyết trung tâm.
1.2.2. Khung nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu vấn đề phát triển kinh tế - xã hội vùng CLVDT, luận án đưa
ra khung nghiên cứu sau:
Hình 1.2: Khung nghiên cứu
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng 4 phương pháp nghiên cứu chính là:
- Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu.
- Phương pháp điều tra khảo sát:
- Phương pháp chuyên gia.
Quan
điểm
phát
triển
Điều kiện tự nhiên
Vốn
Lao động
Khoa học công nghệ
Hợp tác/ kết nối
Kết cấu hạ tầng
Cơ chế chính sách
Phát
triển
kinh
tế xã
hội
Điểm mạnh
Cơ hội

Điểm yếu
Thách thức
Khả
năng/
Triển
vọng
phát
triển
Hạn chế
Thúc đẩy
- Phương pháp SWOT
Loại và nguồn tài liệu
Tài liệu thứ cấp bao gồm:
Những nghiên cứu của các nhà nghiên cứu về 3 nước Đông Dương và khu vực tam
giác Việt Nam - Lào - Campuchia tại các viện nghiên cứu của Việt Nam, Lào và
Campuchia
Các chính sách phát triển của Việt Nam, Lào, Campuchia được thu thập qua quá trình
khảo sát tại các cơ quan ngoại giao
Các thông tin thống kê được thu thập tại các cơ quan thống kê và quản lý của 3 nước
Các văn bản ký kết và kế hoạch triển khai hợp tác của chính phủ 3 nước về phát triển
khu vực CLVDTthu thập qua các nhà nghiên cứu và các cơ quan ngoại giao, bộ và sở kế
hoạch đầu tư
Các kênh thông tin khác như các trang tin điện tử, báo chí….
Tài liệu từ các cuộc khảo sát thực địa
Kết hợp với các nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á để đi thực địa và thu
thập dữ liệu tại địa bàn nghiên cứu
Ý kiến chuyên gia thông qua các cuộc trao đổi, tham vấn
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI VÙNG TAM GIÁC PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - LÀO - CAMPUCHIA
2.1. Một số vấn đề lý luận phát triển vùng tam giác phát triển

2.1.1. Lý luận về phát triển kinh tế - xã hội
Trước hết để hiểu đúng về phát triển kinh tế - xã hội chúng ta phải làm rõ khái niệm
về phát triển. Hiện nay có rất nhiều quan điểm về phát triển, tuy nhiên nhìn về bản chất thì
có thể thấy phát triển gồm 3 cấu phần cơ bản:
Thứ nhất là điểm xuất phát,
Thứ hai là điểm hướng đích,
Thứ ba là quá trình tiến từ điểm xuất phát đến điểm đích, trong quá trình này bao
gồm chủ thể, điều kiện hay phương tiện và cơ chế vận hành quá trình.
Phát triển kinh tế - xã hội ở trong nghiên cứu này được hiểu là quá trình nâng cao
điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải, vật
chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống kể cả tinh thần và vật chất.
2.1.2. Lý luận về hội nhập kinh tế
Hợp tác kinh tế quốc tế hiện nay đang là hoạt động phổ biến trên toàn thế giới. Đến
nay không một quốc gia nào dù theo bất kỳ thể chế nào đi nữa không có hoạt động hợp tác
kinh tế với bên ngoài lãnh thổ của mình. Biểu hiện phổ quát cho những hoạt động hợp tác
kinh tế quốc tế mà ngày nay người ta thường nhắc đến chính là toàn cầu hóa kinh tế, khu
vực hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cùng với toàn cầu hóa là xu hướng khu vực hóa gia tăng nhanh chóng. Toàn cầu hóa
và khu vực hóa đều chỉ những hiện tượng hợp tác/ liên kết giữa các quốc gia nhưng ở cấp
độ toàn cầu hay trong một phạm vi địa lý nào đó.
Bên cạnh các định chế, tổ chức kinh tế đa phương mà các thành viên là các nền kinh
tế quốc gia, trong những năm gần đây cũng xuất hiện và phát triển một hình thức hội nhập
kinh tế mới, đó là hội nhập kinh tế vùng (hay còn gọi là liên kết xuyên quốc gia) thông qua
các tam giác, tứ giác phát triển trong đó các thành viên tham gia là các vùng lãnh thổ của
một số nước kề cận nhau. Các tam giác, tứ giác này vận hành trên một số nguyên tắc cơ
bản của tự do hóa mậu dịch và khai thác thế mạnh nguồn lực có tính bổ sung cho nhau của
các vùng kề cận nhau thuộc một số nước để phát triển như Tam giác tăng trưởng SIJORI.
2.1.3. Lý luận về phát triển vùng
Cho đến nay xung quanh khái niệm vùng vẫn còn nhiều tranh luận khác nhau, định
nghĩa vùng chưa được thống nhất ý kiến trong giới học thuật; đặc biệt là phân biệt rõ ràng

các thuật ngữ “vùng”, “khu vực”, “miền”
Tuy còn có nhiều quan niệm khác nhau nhưng có thể nhận thấy một số dấu hiệu đặc
trưng của vùng sau đây:
- Vùng là một thực thể khách quan chứ không phải do con người thiết kế, sáng tạo ra
để phục vụ cho mục đích riêng của mình;
- Vùng làm một không gian địa lý có vị trí, kích thước, hình dáng, quy mô xác định;
- Vùng bao gồm các yếu tố cấu thành tương đối đồng nhất bên trong với nhau (nhưng
không đồng nhất với nhau), nhưng lại tương đối khác biệt với bên ngoài;
- Trong vùng, ở các mức độ khác nhau, liên tục diễn ra các quá trình tự nhiên, nhâu
khẩu học, kinh tế và xã hội.
Ở góc độ hợp tác quốc tế, vùng được nhìn rộng hơn. Đến nay chưa có một định nghĩa
rõ ràng nào về vùng quốc tế mà thường chỉ có các khái niệm công cụ cho các vùng cụ thể
đối với các vùng hợp tác giữa các quốc gia như Tiểu vùng sông Mê Kông, các vùng tam
giác tăng trưởng, tam giác phát triển, khu vực Đông Nam Á, khu vực Đông Bắc Á, …Tuy
nhiên dù là vùng quốc tế nhưng vẫn có những đặc trưng ở trên.
Khi nghiên cứu về vùng, có thể nhận thấy vùng chịu tác động bởi 7 nhân tố cơ bản sau:
Thứ nhất là điều kiện tự nhiên của vùng bao gồm các nguồn tài nguyên thiên nhiên và
vị trí địa lý.
Thứ hai là vốn cho đầu tư phát triển.
Thứ ba là nhân tố lao động.
Thứ tư là nhân tố khoa học công nghệ.
Thứ năm là nhân tố hợp tác.
Thứ sáu là nhân tố kết cấu hạ tầng.
Nhân tố thứ bảy là cơ chế chính sách.
Khi phân tích các điều kiện phát triển của một vùng, luôn phải lưu ý phân tích đầy đủ
các nhân tố trên trong mối tương quan chặt chẽ với nhau.
2.2. Cơ sở hình thành và phát triển CLVDT
2.2.1. Xu hướng hình thành và phát triển các tam giác phát triển ở Đông Nam Á
Từ cuối nhưng năm 90 của thế kỷ 20, với sự kết thúc của Chiến tranh lạnh đã mở
đường cho hoạt động liên kết và hợp tác quốc tế, trong đó đặc biệt là các hoạt động liên

kết khu vực. Đồng thời với những lợi ích to lớn từ hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế
đã thúc đẩy xu hướng tự do hóa thương mại, đầu tư và di chuyển lao động tạo nên một
hình thái kinh tế toàn cầu hóa mới. Các nền kinh tế giờ đây khó lòng phát triển nếu chỉ
đóng cửa mà buộc phải mở cửa ra ngoài thế giới. Nhưng rõ ràng, toàn cầu hóa cũng có
những mặt trái của nó, và để có thể vừa tham gia vào công cuộc toàn cầu hóa, vừa hạn chế
những rủi ro, đặc biệt là về chính trị, đồng thời có thế khai thác được những lợi thế so sánh
quốc gia và khu vực thì các nước trong khu vực đã đẩy mạnh việc hình thành các liên kết
khu vực hơn nữa. Các nước Đông Nam Á đã tăng cường hợp tác khu vực và mở rộng liên
kết nội khối thông qua ASEAN và những hợp tác tiểu vùng khác.
Khai thác lợi thế phát triển khu vực trong điều kiện hội nhập là một trong những ưu
tiên hàng đầu của hội nhập khu vực. Để làm được điều này, nhiều ý tưởng về hợp tác khu
vực đã được đưa ra mà một trong những sáng kiến đó chính là tam giác tăng trưởng
Xét về mặt bản chất bên trong thì tam giác tăng trưởng là một loại hình hợp tác khu
vực nhưng được vận dụng một cách linh hoạt hơn trên quy mô vùng địa lý nhỏ hơn. Mục
đích chính của quá trình hợp tác trong tam giác tăng trưởng là sự tăng trưởng về kinh tế
với nguyên lý chủ yếu là khai thác lợi thế so sánh cũng như giá trị bổ sung giữa các vùng
tham gia.
Tam giác tăng trưởng xuất hiện đầu tiên ở Đông Nam Á, đây cũng là khu vực có
nhiều tam giác tăng trưởng nhất hiện nay. Như đã đề cập ở trên, tam giác tăng trưởng đầu
tiên xuất hiện là SIROJI thành lập năm 1992. Tiếp đến là tam giác tăng trưởng Nam Thái
Lan - Bắc Malaixia - Aceh và Bắc Sumatra của Indonexia (IMT) hình thành năm 1993,
một tam giác khác của khu vực Đông Nam Á hình thành vào năm 1994 là tam giác tăng
trưởng Brunei - Indonexia - Malaixia - Philipine (BIPM-EAGA), nhưng sau đó Philippine
rút lui nên tam giác này hiện nay được biết đến là BIM-EAGA và mới đây nhất là tam giác
phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia hình thành năm 2004 bắt nguồn từ sáng kiến của
thủ tướng Hunsen của Campuchia năm 1999. Ngoài khu vực Đông Nam Á thì tam giác
tăng trưởng cũng được hình thành ở một số khu vực khác như tam giác tăng trưởng Nam
Trung Hoa gồm Hồng Kông, Quảng Đông, Phúc Kiến và Đài Loan; Tam giác tăng trưởng
Ấn Độ Dương. Tam giác tăng trưởng ở Châu Phi gồm Zambia, Malawi và Mozamdique
hình thành vào năm 2000 gồm phần bắc Zambia, bắc và trung Malawi, trung đông

Mozambic.
Qua nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các tam giác phát triển ở Đông
Nam Á (xem chi tiết phụ lục 4) có thể thấy hiện nay các tam giác đều hoạt động khá hiệu quả.
Những nhân tố cơ bản tạo nên sự thành công của các tam giác tăng trưởng là:
Thứ nhất, các vùng và khu vực tham gia hình thành nên tam giác phải là các vùng
địa lý liền kề với nhau và ở biên giới của các quốc gia và phải dễ tiếp cận đối với các nước
khác nếu không mở cửa hoàn toàn.
Thứ hai, có ít nhất một trung tâm như Singapore có khả năng làm nhân tố đầu đàn tạo
ra những hiệu quả thương mại và đầu tư lan truyền sang khu vực lân cận.
Thứ ba, như chúng ta có thể thấy trong trường hợp của SIJORI GT, mối quan hệ
tương hỗ trong các nguồn tài nguyên, lao động, công nghệ và địa lý giữa các bên tham gia
tam giác phải tồn tại.
Thứ tư, khu vực tư nhân trở thành động lực chính cho sự phát triển và thành công của
GT, để tiếp sức cho khu vực tư nhân thì cần phải sự do hóa hơn đối với thương mại, lao
động và dòng vốn.
Thứ năm, các GT thành công yêu cầu cơ sở hạ tầng phát triển một cách hợp lý, đặc
biệt là đối với hệ thống giao thông. Câu hỏi còn lại là ai và như thế nào để những yếu cầu
về cơ sở hạ tầng lớn như vậy được cung cấp tài chính đủ.
Thứ sáu, cùng với sự gần gũi về mặt địa lý và sự bổ sung giữa các bên tham gia GT,
mối quan hệ văn hóa và xã hội mạnh mẽ là nhân tố cơ bản hình thành nên một GT thành
công. Về mặt này BIMP-EAGA có thuận lợi hơn so với các GT ASEAN khác vì EAGA có
các mối quan hệ chung lâu dài trong lịch sử di dân nội khối và tập quán hải đảo.
Cuối cùng, một trong những thách thức lớn nhất đối với thành công của các GT là sự
cam kết chính trị mạnh mẽ của các vùng và các nước tham gia GT.
Sự hình thành nên các tam giác tăng trưởng tại Đông Nam Á và các khu vực khác là
một phương thức hợp tác mới trong hợp tác kinh tế quốc tế. Với mục tiêu khai thác tối đa
lợi thế và bổ sung các điểm bất lợi cho nhau, các tam giác tăng trưởng đều hình thành
trên cơ sở lợi ích kinh tế của mỗi nước và tiểu vùng. Đây là xu hướng mới nhưng khá hiệu
quả nên đang nhận được nhiều sự quan tâm hiện nay.
2.2.2. Các yếu tố cơ bản để hình thành nên vùng CLVDT

Để hình thành nên một vùng phát triển, trước hết khu vực đó phải đảm bảo đầy đủ
các yếu tố của một vùng. Xét trên các yếu tố vùng thì khu vực 13 tỉnh của tam giác phát
triển Việt Nam - Lào - Campuchia đã hội đủ những nhân tố cơ bản cần thiết của một vùng.
Thực tiễn của quá trình hợp tác 3 nước Đông Dương đã hình thành từ rất lâu trong lịch sử
với đặc điểm nổi bật là một vùng tiếp giáp địa lý núi liền núi, sông liền sông. Hợp tác giữa
3 nước được chi phối bởi nhiều yếu tố, trong đó nổi bật lên là yếu tố địa lý, yếu tố văn hóa
xã hội, yếu tố an ninh, yếu tố lịch sử và xuyên suốt trong quá trình hợp tác đó là yếu tố
kinh tế.
Xét về mặt địa lý, 13 tỉnh thuộc CLVDT là khu vực liên kề, các tỉnh trong vùng đều là
tỉnh vùng biên giới của mỗi nước. Sự gần gũi về mặt địa lý được coi là tiền đề quan trọng
của hợp tác khu vực bởi vì nó tạo nên mối quan hệ địa lý-nhân văn giữa các quốc gia, dân
tộc trong vùng.
Xét về yếu tố lịch sử, ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đã có lịch sử quan hệ lâu
dài giúp, quan hệ này ngày càng được củng cố và chặt chẽ, tạo dựng và củng cố các liên hệ
nhiều mặt.
Yếu tố văn hóa - xã hội, giữa ba nước, đặc biệt là tại 13 tỉnh của CLVDT có những nét
tương đồng về văn hóa - xã hội, tạo nên đặc điểm phân biệt khu vực này với khu vực khác.
Yếu tố an ninh, trong mối quan hệ CLV, bên cạnh những vấn đề kinh tế xã hội
thường được biểu hiện rất rõ thì vấn đề an ninh - chính trị luôn ẩn hiện phía sau. Lịch sử
hợp tác và phát triển của khu vực Đông Dương với những tác động từ bên ngoài đã kiến
cho khu vực này trở thành một vùng địa chính trị quan trọng. Và trong mối quan hệ đó thì
khu vực vùng biên giới CLVDT là một khu vực có vị trí chiến lược của ba nước, đặc biệt
là với Việt Nam trong mỗi quan hệ với khu vực ASEANvà với các thế lực bên ngoài khác.
Yếu tố kinh tế: Kinh tế là lợi ích cơ bản gắn chặt với nhu cầu phát triển của quốc gia
cũng như mọi thành viên trong xã hội nên luôn là một mục tiêu chính trong chính sách đối
ngoại. Kinh tế luôn là động lực căn bản cho sự mở rộng quan hệ đối ngoại của các cộng
đồng/quốc gia trong mọi thời kỳ lịch sử. Xu hướng của kinh tế là sự tăng trưởng ngày
càng cao và sự mở rộng thị trường không ngừng. Cả hai điều này đều dẫn đến yêu cầu
tăng cường hợp tác kinh tế, đầu tiên với các thị trường gần kề bởi những lợi thế về địa lý,
lịch sử, văn hoá - xã hội và yêu cầu giảm giá thành.

Với yêu cầu cần thúc đẩy sự tăng trưởng ở các vùng nghèo nhất của mỗi quốc gia,
đặc biệt là Đông Bắc Campuchia là nhân tố thôi thúc thủ tướng Hunsen đề xuất ý tưởng
hình thành nên CLVDT. Với mỗi quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế sẵn có giữa ba nước và
các vùng biên giới sẵn có là tiền đề cơ bản cho việc tăng cường và thúc đẩy hợp tác kinh tế
của CLVDT. Sự mở rộng lợi ích và không gian kinh tế, yêu cầu ổn định môi trường và thể
chế hóa quan hệ kinh tế quốc tế sẽ dẫn đến xu hướng phát triển hợp tác kinh tế trong vùng.
Tầm quan trọng của yếu tố kinh tế cũng được phản ánh đậm nét đối với tam giác tăng
trưởng khi hầu hết các tam giác phát triển hiện nay được xây dựng với mục tiêu chủ yếu là
phát triển kinh tế.
2.2.3. Nhu cầu hợp tác và phát triển tại vùng biên giới chung ba nước Việt Nam, Lào
và Campuchia
2.2.3.1. Thực tiễn hợp tác phát triển của ba nước CLV
Sự hình thành hợp tác khu vực nói chung, tam giác tăng trưởng nói riêng phụ thuộc
vào sự phát triển quan hệ song phương giữa các thành viên. Quan hệ song phương là cơ sở
xuất phát của quan hệ đa phương. So với quan hệ đa phương, quan hệ song phương là cái
bắt đầu, cái có trước. Quan hệ đa phương chỉ được xuất hiện khi các quan hệ song phương
đã ngày càng nhiều và chồng chéo lên nhau, tạo ra những vấn đề liên quan đến lợi ích của
nhiều bên. Quá trình hình thành quan hệ đa phương được bắt đầu trên nền quan hệ song
phương, được thực hiện qua kênh song phương và nhằm giải quyết những vấn đề chung
nảy sinh trong quá trình quan hệ song phương.
2.2.3.2. Lợi ích của sự hợp tác tại CLVDT
Việc xây dựng CLVDT trên vùng biên giới giáp ranh giữa ba nước bao gồm 10 tỉnh
ban đầu và 13 tỉnh sau khi mở rộng thuộc khu vực có tiền năng về phát triển nhưng thực tế
tình hình kinh tế - xã hội của khu vực này phát triển chưa cao. Vì thế việc xây dựng
CLVDT dựa trên một cơ sở chung là lợi ích thu được từ hợp tác phát triển tiểu vùng sẽ lớn
hơn so với lợi ích có thể thu được từ những hoạt động độc lập nhằm thúc đẩy sự phát triển
về mọi mặt kinh tế - xã hội tại vùng tam giác.
Như đã trình bày ở trên, tam giác phát triển đang là một mô hình hợp tác mới nổi của
các nước có địa lý liền kề. Một tam giác phát triển sẽ tạo ra tăng trưởng kinh tế thông qua
việc tăng hiệu suất sử dụng tiềm năng kinh tế như lao động, tài nguyên, vốn, công nghệ mà

không phụ thuộc vào biên giới quốc gia. Các nỗ lực đều hướng tới tăng các luồng chu
chuyển hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn giữa các quốc gia để phát triển sản xuất và giải
quyết các vấn đề xã hội. Động lực đằng sau việc hình thành các tiểu vùng hay tam giác là
nhận thức về lợi ích thu được từ sự hợp tác tiểu vùng hay khu vực sẽ lớn hơn so với lợi ích
thu được từ những hoạt động độc lập.
Tam giác phát triển cũng có ý nghĩa trong việc củng cố hòa bình và an ninh trong khu
vực; giúp gìn giữ an ninh trong nội bộ các quốc gia nhờ lợi ích kinh tế mà nó mang lại.
Phát triển giao lưu kinh tế nhờ các hoạt động thương mại và đầu tư qua biên giới sẽ làm
tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau về văn hóa, từ đó cải thiện an ninh biên giới. Chất lượng
sống của những người dân sinh sống trong khu vực biên giới cũng theo đó được nâng lên,
giải quyết được những vấn đề xã hội và do đó an toàn xã hội được cải thiện. Bên cạnh
những lợi ích cụ thể mang lại cho từng quốc gia và vùng lãnh thổ trong tam giác, tam giác
phát triển còn thúc đẩy mối quan hệ hợp tác kinh tế khu vực như chúng ta có thể thấy
trong các trường hợp của các tam giác khác ở ASEAN.
2.2.4. Tổng quan về CLVDT
Trên cơ sở nhu cầu hợp tác và phát triển của mỗi quốc gia tại vùng biên giới ba nước
CLV, tại cuộc gặp giữa 3 thủ tướng của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia năm 1999
tại Viên Chăn, các bên đều nhất trí cho rằng việc củng cố và tăng cường tình đoàn kết và
hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa ba nước trên tinh thần anh em láng giềng hữu nghị vốn có
đã trở thành truyền thống, là nhân tố quan trọng cho sự ổn định và phát triển ở mỗi nước
trong bối cảnh tình hình hiện nay. Trong cuộc gặp này ý tưởng về một tam giác phát triển
khu vực biên giới ba nước bao gồm một số tỉnh Tây Nguyên của Việt Nam, Đông Bắc
Campuchia và Nam Lào đã được hình thành.
Về bản chất, ý tưởng này được Thủ tướng Hunsen của Campuchia đưa ra xuất phát từ
nhu cầu phát triển của Campuchia. Vào thời điểm đó, các tỉnh Đông Bắc Campuchia
không chỉ là những tỉnh nghèo nhất của cả nước mà còn bị cô lập, chia cắt về mặt địa lý so
với các vùng khác của Campuchia. Nếu muốn di chuyển từ các tỉnh Đông Bắc Campuchia
về Phnôm Pênh thì con đường ngắn nhất và dễ đi nhất là vòng qua Việt Nam. Với điều
kiện nguồn lực khó khăn của Campuchia thì không thể tự lực dành nguồn đầu tư cho khu
vực này trong khi còn nhiều ưu tiên phát triển khác. Với mong muốn dựa vào hợp tác để

phát triển thì Thủ tướng Hunsen đã đề xuất ra ý tưởng hình thành khu vực này.
Ý tưởng này ngay lập tức nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của Việt Nam, vì với Việt
Nam thì khu vực này không những có ý nghĩa về kinh tế trong mối tương quan biên giới
với các tỉnh Tây Nguyên mà còn có ý nghĩa quan trọng về quốc phòng, an ninh. Bình ổn
và phát triển được vùng tam giác này sẽ góp phần đảm bảo an ninh trật tự chung cho vấn
đề biên giới. Hơn nữa, về kinh tế thì Việt Nam cũng muốn khai thác và mở rộng thị trường
cũng như tiềm năng của các nước bạn.
Trong ba nước thì Lào có ít lợi ích hơn cả trong khu vực này nhưng nếu tham gia thì
Lào sẽ không mất gì mà còn có thể hưởng lợi từ các chương trình phát triển chung.
Và đặc biệt, với hy vọng việc hình thanh CLVDT sẽ thu hút được sự quan tâm của
các nước đối tác, các tổ chức quốc tế và doanh nghiệp đối với khu vực sẽ tạo ra được
nguồn lực cho phát triển.
Tại cuộc họp cấp cao lần thứ hai tại thành phố Hồ Chí Minh (2002), ba Thủ tướng đã
cam kết sẽ ưu tiên triển khai hợp tác trong khu vực Tam giác phát triển trên các lĩnh vực
giao thông vận tải, thương mại, điện lực, du lịch, đào tạo nguồn nhân lực và y tế. Các
nhóm chuyên gia ba nước bắt đầu tích cực xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
xây dựng Tam giác phát triển.
Tại cuộc họp cấp cao lần thứ ba tại Siem Reap (2004), ba Thủ tướng đã khẳng định
lại rằng Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam là khu vực hết sức quan trọng và
ra tuyên bố thành lập CLVDT gồm lãnh thổ của 10 tỉnh có đường biên giới hoặc có liên
quan đến khu vực biên giới chung giữa ba nước là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đăk Nông
(Việt Nam), Sekong, Attapeu, Saravan (Lào) và Stung Treng, Rattanak Kiri, Mondul Kiri
(Campuchia).
Tại Hội nghị Ủy ban điều phối chung ba nước về Tam giác phát triển tại Đắk Lắk
ngày 21- 22 tháng 12 năm 2009, ba nước nhất trí bổ sung tỉnh Bình Phước (Việt Nam),
tỉnh Kratie (Campuchia) và tỉnh Champasak (Lào) vào Tam giác phát triển Campuchia -
Lào - Việt Nam.
Như vậy, đến nay tam giác Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia bao
gồm lãnh thổ của 13 tỉnh có đường biên giới hoặc có liên quan đến khu vực biên giới
chung giữa ba nước là: Mondul Kiri, Rattanak Kiri và Stung Treng, Kratie (Campuchia),

Attapeu, Saravan và SeKong, Champasak (Lào), Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lăk và Đắk
Nông, Bình Phước (Việt Nam). Tổng diện tích là 143,9 nghìn km
2
, chiếm 19,3% diện tích
ba nước và Dân số hơn 6.663,7 nghìn người (2009), chiếm 6,1% dân số của ba nước, mật
độ dân số trung bình 46 người/ km
2
.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG TAM GIÁC PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - LÀO - CAMPUCHIA
3.1. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội vùng CLVDT
3.1.1. Thực trạng phát triển kinh tế
3.1.1.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong những năm vừa qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực Tam giác phát
triển đạt mức cao. Trong hai năm 2011-2012, cho biết, trong hai năm 2011-2012, tại khu
vực Tam giác phát triển, 4 tỉnh của Campuchia đạt tốc độ tăng trưởng bình quân trên
9%/năm; các tỉnh của Lào tăng trưởng bình quân khoảng 11,4%/năm; các tỉnh của Việt
Nam đạt 10%/năm. Tính chung cả khu vực Tam giác phát triển 3 nước, tốc độ tăng trưởng
GDP trung bình đạt khoảng 10% [8].
Cơ cấu kinh tế của vùng trong những năm gần đây cũng đã có những chuyển biến tích
cực theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Tính
từ 2002 đến 2009, nông nghiệp đã giảm dần từ 65,2% xuống còn 53,5% trong khi đó công
nghiệp và xây dựng tăng từ 14,2% lên 20% và dịch vụ tăng từ 20,6% lên 26,5%.
Nếu so sánh cơ cấu phát triển ngành nghề giữa các tỉnh trong CLVDT thì khá tương
đồng giữa các quốc gia. Tỷ trọng nông nhiệp Campuchia, Lào, Việt Nam tương ứng là
55%; 53,6% và 53,4%; Công nghiệp và xây dựng tương ứng là 21%; 21% và 19,7%; dịch
vụ là 24%; 25,4% và 26,9%. Trong đó các tỉnh Campuchia đã nhanh chóng hạ thấp tỷ
trọng nông nghiệp từ 68,6% năm 2002 xuống còn 55% năm 2009, là vùng có sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nhanh nhất trong CLVDT.
Dù đã có những bước chuyển biến đáng kể trong những năm qua nhưng nhìn chung

thì CLVDT vẫn là khu vực có trình độ phát triển thấp và có sự chênh lệch về trình độ phát
triển giữa các tiểu vùng trong khu vực.
3.1.1.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp (bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp) từ trước đến nay
vẫn là ngành sản xuất chủ yếu trong đời sống kinh tế của người dân ở đây. Nông nghiệp
giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp ổn định đời sống nhân dân, trật tự an ninh, an toàn
xã hội của các tỉnh vùng biên giới.
Là khu vực có tiềm năng về nông nghiệp, nên trong những năm qua bên cạnh việc gia
tăng sản lượng lương thực thì khu vực này cũng quan tâm khai thác các lợi thế nông
nghiệp khác của vùng như phát triển cây công nghiệp lâu năm, chăn nuôi đại gia súc.
Nông nghiệp dần phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa.
Bước tranh nông nghiệp của CLVDT đã thay đổi nhiều kể từ khi hình thành tam giác
đến nay. Nếu như năm 2002 và trước đó, sản xuất nông nghiệp ở đây chỉ tập trung vào cây
lương thực là chủ đạo với mục tiêu là đảm bảo an ninh lương thực thì đến nay đã mở rộng
nhiều loại cây trồng khác, trong đó đặc biệt là cây công nghiệp dài ngày đã phát triển
nhanh hơn cả quy hoạch 2004 đề ra.
Như vậy, trong sản xuất nông nghiệp đã có những bước cải thiện rõ ràng, mặc dù
chưa phát triển mạnh về nông nghiệp hàng hóa nhưng điều quan trọng nhất là CLVDT từ
một vùng chưa đảm bảo an ninh lương thực nay đã có sản lượng xuất khẩu (tính chung
trên toàn vùng). Đã phát triển được những vùng cây công nghiệp, vùng chăn nuôi quy mô
lớn. Dù chưa đóng góp nhiều cho giá trị gia tăng trong vùng nhưng đây được ghi nhận là
bước tiến lớn trong phát triển nông nghiệp của vùng.
3.1.1.3. Thực trạng phát triển thương mại và dịch vụ
Do là khu vực biên giới nên thương mại và kinh tế cửa khẩu được đặc biệt quan tâm
và ưu tiên phát triển. Nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại, nhiều chính sách ưu đãi về
thuế và thủ tục hải quan đã được áp dụng. Những chính sách này đã thúc đẩy kim ngạch
thương mại hai chiều giữa các nước trong vùng. Nhưng do mới trong giai đoạn đầu của
sản xuất nên thương mại ở đây còn chưa thực sự phát triển.
Về dịch vụ, mặc dù là khu vực có nhiều tiềm năng khai thác du lịch và đã bước đầu
có những đầu tư vào dịch vụ du lịch nhưng đến nay tiềm năng và lợi thế về phát triển du

lịch của vùng vẫn chưa được khai thác nhiều, chưa xây dựng được các tua du lịch kết nối
các địa phương trong CLVDT.
Tương tự hoạt động du lịch, hoạt động dịch vụ tài chính mới chỉ ở bước đầu triển
khai ở các thành phố lớn. Trong đó các tỉnh của Việt Nam phát triển nhanh chóng cả về
quy mô và chất lượng, các tỉnh lại Lào và Campuchia mới chủ yếu phát triển hệ thống
ngân hàng phục vụ các hoạt động kinh tế mới nổi.
3.1.1.4. Thực trạng phát triển công nghiệp
Công nghiệp là ngành có tốc độ tăng trương khá cao trong vùng, chủ yếu là công
nghiệp chế biến nông, lâm sản, công nghiệp điện, công nghiệp khai thác, chế biến khoáng
sản, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng… Các ngành này trong những năm gần đây
được đầu tư và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên tốc độ, quy mô và chất lượng phát triển
chủ yếu tập trung ở các tỉnh thuộc Việt Nam.
Công nghiệp ở CLVDT chưa phát triển và phát triển không đồng đều, các cơ sở sản
xuất công nghiệp hiện nay chủ yếu nằm ở các tỉnh thuộc Việt Nam, các tỉnh thuộc Lào và
Campuchia đóng vai trò cung cấp nguyên liệu thô cho công nghiệp chế biến ở Việt Nam.
Nếu xét về khía cạnh này thì tại CLVDT đã bắt đầu hình thành nên chuỗi sản xuất công
nghiệp chế biến, trong đó phần lớn giá trị gia tăng được sản xuất tại Việt Nam.
3.1.2. Thực trạng phát triển xã hội
Nhìn tổng thể, tình hình phát triển văn hoá giáo dục, y tế của khu vực tam giác tại cả
ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đã đạt được nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, với việc đặt ra
yêu cầu phát triển khu vực tam giác thành một khu vực kinh tế phát triển đòi hỏi phải có
những chương trình đầu tư lớn của chính phủ ba nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục,
văn hoá, y tế, phục vụ cho quá trình phát triển chung.
3.1.2.1. Y tế
Y tế là lĩnh vực được các địa phương trong tam giác quan tâm nhằm cải thiện sức
khỏe cho người dân. Mạng lưới khám chưa bệnh đã được đầu tư xây mới và nâng cấp
Tại Campuchia, hệ thống y tế còn hạn chế, chất lượng chăng sóc sức khỏe cho người
dân đạt thấp. Tuổi thọ trung bình trong vùng đạt dưới 50 tuổi (thấp hơn so với mức trung
bình chung của cả nước 12 tuổi).
Các tỉnh của Lào chú trọng hơn vào vấn đề phát triển hệ thống y tế vì đây được xem là

một trong những trụ cột của công cuộc xóa đói giảm nghèo. Dù còn khó khăn nhưng nếu so
với 5 năm trước đây thì hệ thống chăm sóc y tế ở đây đã được cải thiện rất nhiều.
Trong vùng CLVDT thì các tỉnh của Việt Nam có hệ thống y tế phát triển hơn hẳn.
Trong những năm qua kết quả chăm sóc y tế cho người dân đã được cải thiện nhiều. Trong
những năm gần đây một số bệnh viện, cơ sở y tế đã được đầu tư nâng cấp, tuy nhiên với
mức đầu tư hạn hẹp nên các cơ sở y tế nhanh chóng xuống cấp.
Nhìn chung toàn bộ vùng CLVDT về công tác phát triển dịch vụ y tế và chăm sóc sức
khỏe người dân chưa đáp ứng được với nhu cầu phát triển. Trong đó đặc biệt kém phát
triển ở các tỉnh của Campuchia. Ở các tỉnh của Lào và Việt Nam mặc dù nhận được sự
quan tâm đầu tư của nhà nước nhưng chất lượng y tế vẫn chưa cao, còn nhiều bất cập
trong cung cấp và tiếp cận dịch vụ y tế của người dân.
3.1.2.2. Giáo dục, đào tạo
Giáo dục là lĩnh vực được quan tâm và ưu tiên đầu tư tại tất cả các tỉnh trong
CLVDT. Trong nhưng năm qua hệ thống trường lớp đã được nâng cấp và xây mới. Tỷ lệ
học sinh đến lớp tăng hàng năm. Chất lượng giáo dục bước đầu được cải thiện.
Nhìn tổng thể vấn đề giáo dục và đào tạo toàn vùng có thể thấy nếu đánh giá ở mức
trung bình chung so với mỗi quốc gia thì còn thấp, nhưng nếu so sánh theo thời gian thì
trong những năm gần đây giáo dục, đào tạo đã thực sự có những bước chuyển biến lớn,
trong đó đặc biệt là đối với vùng Tây Nguyên của Việt Nam đã được quan tâm đầu tư
nâng cao cả chất lượng và quy mô. Trong các tỉnh thuộc vùng tam giác thì các tỉnh của
Lào đã được quan tâm đầu tư hệ thống giáo dục nhưng hiện tại vấn đề chất lượng giáo dục
và đào tạo chưa cao. ở các tỉnh của Campuchia thì do vấn đề về nguồn lực và trình độ
nhận thức nên dù đã cải thiện nhiều nhưng giáo dục, đào tạo ở đây có thể đánh giá là kém
phát triển.
3.1.2.3. Lao động, việc làm
So với các vùng khác trên cả nước, khu vực Tam giác có số lượng dân cư và mật độ
dân số tương đối thấp, nhất là khu vực Đông Bắc Campuchia và Nam Lào. Chính vì vậy,
lực lượng lao động và việc làm của khu vực này cũng không lớn và chủ yếu tập trung ở
khu vực của Việt Nam.
Lực lượng lao động của các tỉnh Campuchia và Lào có những đặc điểm chủ yếu đó

là: (i) Cơ cấu lao động của các tỉnh không có sự khác biệt lớn, tập trung trong các lĩnh vực
nông, lâm, ngư nghiệp, chiếm khoảng trên 80% tổng lực lượng lao động. Tương tự, lao
động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chủ yếu là lao động trong các hộ
gia đình nhỏ lẻ. Do đó, lao động trong ngành công nghiệp của toàn khu vực chỉ biến động
khoảng dưới 10%, thậm chí thấp hơn. Phần còn lại là lao động trong khu vực thương mại,
dịch vụ chủ yếu dựa trên hình thức kinh doanh hộ gia đình, sửa chữa nhỏ. (ii) Lực lượng
lao động của các tỉnh Đông Bắc Campuchia và Nam Lào chủ yếu là lao động phổ thông,
chưa qua đào tạo. Chỉ có số ít lực lượng lao động trong lĩnh vực giáo dục là có trình độ
hơn cả.
Các tỉnh của Việt Nam, qui mô lực lượng lao động trong mỗi tỉnh hoàn toàn khác
nhau, tuỳ thuộc vào qui mô dân số và khả năng thu hút lao động vào các ngành nghề kinh
tế của mỗi tỉnh.
Có thể nói, đặc điểm cơ bản của phát triển xã hội vùng CLVDT là trình độ phát triển
thấp, chất lượng chưa tương xứng với đòi hỏi phát triển chung của vùng và mức độ chênh
lệch trong phát triển khá lớn giữa các tỉnh. Nguyên nhân của tình trạng nay có thể chỉ ra
là: thứ nhất, đây là vùng có xuất phát điểm thấp nhất ở mỗi quốc gia khi bắt đầu hình
thành vùng tam giác, thứ hai, thiếu vốn đầu tư cho phát triển xã hội, trong thời gian qua,
phần lớn những khoản đầu tư vào vùng tam giác tập trung nhiều hơn cho hạ tầng và kinh
tế, thứ ba là nhận thức của người dân ở đây thấp nên nhu cầu phát triển xã hội còn thấp.
3.1.3. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng cùng Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia được xếp ở
mức độ kém phát triển và phát triển không đồng đều. Đây là một khó khăn cơ bản nhất
cho sự phát triển chung của khu vực. Với đặc điểm của một hệ thống cơ sở hạ tầng như
vậy thì sẽ hạn chế sự phát triển của các ngành kinh tế và đời sống dân cư. Trong khu vực
Tam giác thì vùng biên giới Tây Nguyên và Bình Phước của Việt Nam có mặt bằng cơ sở
hạ tầng tương đối phát triển hơn với chính sách đầu tư và thu hút đầu tư cở mở hơn, trong
khi các tỉnh Đông Bắc Campuchia và Nam Lào thì rất hạn chế về nguồn đầu tư cho cơ sở
hạ tầng. Trước khi hình thành Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia thì tại 2
khu vực này cơ sở hạ tầng gần như không được chú trọng ưu tiên đầu tư và nếu có thì phần
lớn ngân sách là từ những hỗ trợ của chính phủ và các tập đoàn kinh tế của Việt Nam. Chỉ

từ khi hình thành nên Tam giác phát triển, khu vực Nam Lào, Đông Bắc Campuchia nói
riêng và các tỉnh của Việt Nam đều nhận được nhiều sự quan tâm đầu tư hơn của chính
phủ mỗi nước và ưu tiên đầu tư chung của 3 chính phủ. Các trọng tâm đầu tư trong giai
đoạn đầu hình thành Tam giác đều tập trung chung vào vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng của
khu vực này. Phát triển cơ sở hạ tầng cho CLVDT là thành tựu nổi bật và quan trọng nhất
trong thời gian qua. Tuy vậy, đến nay khu vực nay vẫn là khu vực kém phát triển về cơ sở
hạ tầng.
3.2. Các nhân tố tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng CLVDT
3.2.1. Điều kiện tự nhiên
CLVDT là một vùng có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, có
nhiều yếu tố thuận lợi cho phát triển kinh tế. Bên cạnh đó đây là vùng có vị trí địa lý quan
trọng và thuận lợi. Tam giác phát triển có vị trí chiến lược đối với cả ba nước về chính trị,
kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và môi trường sinh thái. Đây là điểm giao thương kết
nối lý tưởng chung cho cả ba nước về mặt vận chuyển. Xét về mặt kinh tế thì đây là điểm
tập trung và trung chuyển hàng hóa lý tưởng cho bản thâm khu vực tam giác và các tỉnh
khác của Campuchia, Lào ra với bên ngoài với chi phí giá thành vận chuyển thấp hơn do
quãng đường di chuyển ngắn hơn. Vị trí địa lý của khu vực còn được thể hiện ở vị trí kết
nối của vùng với bên ngoài. Nằm trong tiểu vùng sông Mê Kông, CLVDT có khả năng kết
nối tới các điểm khác của GMS một cách thuận lợi. Và hơn nữa, trong tổng thể của lộ trình
xây dựng ASEAN thì đây là một trong những điểm kết nối quan trọng cho sự phát triển
chung của khu vực
3.2.2.Vốn cho đầu tư phát triển còn hạn chế
Tại CLVDT, trong thời gian qua vốn cho đầu tư phát triển đến từ ba nguồn chính.
Thứ nhất là vốn hỗ trợ của mỗi nước dành cho các tỉnh thuộc tam giác phát triển của mình.
Đối với hoạt động khởi đầu của Tam giác phát triển, nguồn vốn đóng góp của Chính phủ
ba nước là rất quan trọng, đặc biệt cho việc nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Đến
nay giữa Việt Nam và Lào đã có sự hợp tác xây dựng quốc lộ 18B nối thủ phủ của Attapeu
tới biên giới Việt - Lào, nối tiếp với quốc lộ 40 của Việt Nam; giữa Việt Nam
và Cămpuchia cũng đang triển khai các hoạt động tiến tới việc nâng cấp quốc lộ 78 nối thủ
phủ của Rattanak Kiri tới biên giới Việt Nam - Campuchia. Trong quá trình phát triển tiếp

theo, nhiều công trình kết cấu hạ tầng khác cần thiết hợp tác phát triển, song phương hoặc
đa phương, dựa trên nhu cầu của các bên. Tuy nhiên do khả năng về nguồn vốn từ ngân
sách của cả ba nước có hạn, việc đầu tư các công trình lớn sẽ được cân nhắc.
Nguồn vốn thứ hai là từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư tại đây. Huy
động nguồn vốn đầu tư nước ngoài và nguồn vốn của khu vực doanh nghiệp trong nước
cũng còn nhiều khó khăn. Đối với Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia, các
doanh nghiệp mới được hình thành, chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn không nhiều,
lĩnh vực hoạt động hạn chế ở những ngành chế biến nông lâm sản là chủ yếu. Giữa các
doanh nghiệp của ba nước bước đầu đã có sự hợp tác trong một số ngành như sản xuất đồ
gỗ dân dụng, nuôi ong, buôn bán trao đổi hàng tiêu dùng , tuy nhiên qui mô còn rất nhỏ
do nhu cầu dân cư chưa cao và những rào cản về kết cấu hạ tầng, lao động, cơ chế ưu đãi.
Trong những năm qua, tình hình hợp tác đầu tư giữa các doanh nghiệp 3 nước Việt
Nam - Lào và Campuchia tại khu vực này đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ.
Nguồn vốn thứ ba cho tam giác phát triển là từ nguồn tài trợ nước ngoài mà hiện nay
chủ yếu là từ Nhật Bản.
Tuy nhiên bên cạnh yếu tố vốn thì một yếu tố không thể thiếu là khả năng khai thác
và sử dụng các nguồn vốn đó, thực tế của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ cho thấy, những
nơi có khả năng huy động vốn cao thường là những nơi mà tại đó vốn được sử dụng một
các hợp lý nhất để phát huy hiệu quả kinh tế, đầu tư sản xuất và tái sản xuất mở rộng vì
mục tiêu phát triển chung của toàn xã hội. Nhìn toàn diện thì CLVDT chưa đáp ứng được
tiêu chí sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư.
3.2.3. Nguồn lao động quy mô chưa lớn với chất lượng thấp
So với các vùng khác trên cả nước, CLVDT có số lượng dân cư và mật độ dân số
tương đối thấp, nhất là khu vực Đông Bắc Campuchia và Nam Lào. Chính vì vậy, lực
lượng lao động và việc làm của khu vực này cũng không lớn và chủ yếu tập trung ở khu
vực Tây Nguyên của Việt Nam [32].
3.2.4. Khoa học công nghệ chưa phát triển và khả năng ứng dụng khoa học công
nghệ thấp
Trình độ khoa học và công nghệ ở CLVDT còn rất kém phát triển. Điều này được thể
hiện trong trình độ phát triển kinh tế và nguồn nhân lực của vùng còn lạc hậu không chỉ so

với thế giới mà còn lạc hậu so với bản thân mức trung bình chung của mỗi quốc gia.
3.2.5. Hợp tác giữa ba nước CLV và trong vùng CLVDT ngày càng được tăng
cường.
Hợp tác CLVDT là một hình thái hợp tác đặc biệt. Trong bản thân nội bộ vùng thì hợp
tác này cũng gồm những yếu tố liên kết vừa mang tính liên tỉnh lại vừa mang yếu tố quốc tế.
Sự hợp tác nội vùng trong thời gian qua được kết hợp khá tốt và đã có nhiều hỗ trợ tích cực
cho quá trình phát triển của vùng. Điều này được nhìn từ sự kết hợp giữa các tỉnh trong
cùng một nước tạo thành vùng phát triển của nước đó như Tây Nguyên của Việt Nam, Nam
Lào, Đông Bắc Campuchia đều là những vùng quy hoạch phát triển của mỗi nước.
Đối với nhân tố hợp tác của vùng, đặc biệt là với vùng quốc tế như CLVDT thì cho
đến nay nhân tố này đang phát huy hiệu quả tích cực, góp phần thúc đẩy sự phát triển
chung của vùng.
3.2.6. Kết cấu hạ tầng yếu kém, lạc hậu cản trở sự phát triển chung.
Hiện trạng phát triển cơ sở hạ tầng hiện nay thì thấy rằng lợi thế và tiềm năng còn
nhiều nhưng chưa thực sự được khai thác và đầu tư thích đáng. Muốn phát triển vùng bền
vững thì còn là một quá trình dài với những chính sách định hướng và đầu tư tổng hợp.
Đây là khó khăn chung của cả ba nước. Do vậy, để phát triển cần phải có những bước
hoạch định thận trọng và không nên nóng vội, trong đó nên ưu tiên cho tăng trưởng trước
mắt nên là đầu tư cho cơ sở hạ tầng phục vụ nhu cầu tại chỗ.
3.2.7. Cơ chế chính sách của mỗi nước và cho riêng vùng đang phát triển theo hướng
thuận lợi hóa tối đa cho phát triển.
CLVDT tuy mới được hình thành nhưng đã có những bước phát triển tương đối vững
chắc. Cho tới nay, chính phủ ba nước đã dần hình thành cơ chế hợp tác trên các cấp độ
khác nhau, giữa ba chính phủ, giữa các bộ ngành, giữa các địa phương trong việc phát
triển thương mại và đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng và dần định hướng được cơ cấu phát
triển cho khu vực.
4. 3. Đánh giá chung về sự phát triển kinh tế - xã hội của CLVDT.
Điểm mạnh
Tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng và là những tài nguyên có thể khai thác
phục vụ phát triển nông nghiệp, công nghiệp và du lịch.

Tam giác phát triển có vị trí địa lý chiến lược đối với cả ba nước về chính trị, kinh tế,
xã hội, an ninh, quốc phòng và môi trường sinh thái.
Tính tương đồng và đa dạng trong các đặc điểm tự nhiên và xã hội để có thể phát
triển thành một vùng sản xuất hàng hoá lớn nhưng đồng thời lại có tính đa dạng để có thể
hợp tác cùng nhau phát triển.
Đây là khu vực có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, lễ hội văn hóa, là điều
kiện tốt để phát triển du lịch văn hóa
Điểm yếu
Quy mô dân số nhỏ, mật độ dân cư thấp, phân bố dân cư không tập trung với nhiều
dân tộc thiểu số.
Trình độ phát triển kinh tế thấp cơ cấu kinh tế lạc hậu, là khu vực kinh tế kém phát
triển của cả 3 nước, trình độ phát triển kinh tế khá chênh lệch.
Cơ sở hạ tầng kinh tế kém phát triển và phát triển không đồng đều.
Trình độ phát triển xã hội thấp: Chất lượng nguồn nhân lực thấp, dịch vụ y tế kém
phát triển. Chất lượng nguồn nhân lực và các dịch vụ phục vụ đời sống của người dân ở
khu vực này còn rất thiếu và yếu.
Chênh lệch trong khoảng cách phát triển giữa các địa phương trong vùng và giữa
vùng với các địa phương khác thuộc tam giác có nguy cơ gia tăng nếu không có những cơ
chế, chính sách đầu tư hợp lý.
Địa hình đồi núi lớn, độ dốc cao dẫn đến những khó khăn trong việc đi lại của người
dân và hạn chế hoạt động giao thương buôn bán
Cơ hội
Xu hướng hợp tác gia tăng: Xu thế hội nhập quốc tế vừa là cơ hội vừa là thách thức
rất lớn với sự phát triển kinh tế trong vùng.
Quyết tâm chính trị của chính phủ ba nước và các địa phương trong hợp tác khá cao.
Tình hình chính trị tại mỗi nước ổn định.
Sự quan tâm ưu tiên đầu tư của chính phủ ba nước dành cho khu vực tam giác là cơ
hội lớn cho sự phát triển và lớn mạnh của khu vực tam giác phát triển .
Khả năng tiếp cận thị trường của Lào và Campuchia với tư cách là các nước kém phát
triển tới các thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Canada và các nước khác là nhân tố quan

trọng để thu hút FDI vào khu vực.
Thách thức
Áp lực cạnh tranh đang ngày càng gia tăng trên thế giới, giữa các quốc gia và bản
thân giữa các địa phương với nhau.
Thiếu vốn và thiếu những cơ chế đề huy động vốn từ bên ngoài một các hiệu quả
khiến cho nguồn lực dành cho phát triển hạn chế.
Cơ chế vận hành các chính sách còn chưa thống nhất từ trên xuống và giữa các bên.
Các vấn đề liên quan đến buôn lậu, di cư trái phép, dịch bệnh, môi trường.
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
4.1. Đánh giá kết quả hợp tác phát triển CLVDT
So với mục tiêu đề ra ban đầu thì có thể khẳng định đã đạt và vượt mục tiêu đề ra ban đầu.
Lợi ích mà CLVDT mang lại là có thể được đánh giá là lớn hơn lợi ích mà mỗi nước
hay mỗi tiểu vùng trong mỗi nước thu được nếu không có cơ chế CLVDT. Có thể khẳng
định CLVDT là hình thức hợp tác quốc tế hiệu quả đối với CLV xét trên các góc độ chính
trị, kinh tế, xã hội và cả văn hóa.
Về chính trị, CLVDT đã góp phần củng cố hòa bình và an nình trong khu vực. Thông
qua hợp tác trong CLVDT, mối quan hệ hợp tác không chỉ được phát triển ở cấp độ quốc
gia với nhau mà còn phát triển theo chiều sâu ở các cấp địa phương. Thông qua hợp tác đã
tạo nên sự liên kết, phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế địa phương. Điều này đặc biệt
quan trọng đối với một vùng có nhiều dân tộc ít người sinh sống. Thông qua phát triển
kinh tế sẽ góp phần ổn định đời sống dân cư, người dân hài lòng với cuộc sống hơn sẽ hạn
chế bớt các tình trạng xung đột và chống phá nhà nước. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối
với Việt Nam khi những vấn đề chính trị ở Tây Nguyên nhưng năm gần đây nổi lên và cần
được ổn định. Sự ổn định về chính trị của toàn vùng trong những năm gần đây cũng là một
minh chứng cho lợi ích chính trị mà ba nước đã đạt được.
Nếu không có CLVDT, chắc chắn mỗi quan hệ chính trị CLV vẫn được phát triển,
tuy nhiên, cộng thêm nữa hình thức hợp tác trong CLVDT đã làm sâu sắc và cụ thể hơn
những hợp tác vốn có của CLV.
Về mặt kinh tế, qua phân tích đáng giá ở Chương 3 cho thấy kinh tế của vùng đã có
bước tăng trưởng cao so với trước đây, một số địa phương có tốc độ tăng trưởng cao hơn

mức bình quân mỗi nước.
Trong quá trình hợp tác kinh tế này các bên đều có lợi, Việt Nam mở rộng được thị
trường tiêu thụ sản phẩm và khai thác đước nguồn nguyên liệu đầu vào giá rẻ phục vụ sản
xuất và chế biến trong nước. Các nước bạn thì tiêu thụ được sản phẩm sản xuất. Tuy nhiên
có thể thấy trong mỗi quan hệ này do trình độ kinh tế phát triển cao hơn nên Việt Nam
được hưởng lợi nhiều hơn.
Kết cấu hạ tầng bước đầu được hình thành và phát triển, nhất là trong lĩnh vực giao
thông vận tải, cấp điện. Các tuyến đường giao thông quan trọng đã được đầu tư, nâng cấp,
mở rộng. Nhiều công trình thủy điện được đầu tư, mạng lưới truyền tải và phân phối điện
cũng được mở rộng. Đa phần những hoạt động này đều được đầu tư từ nguồn ODA của
Nhật Bản và Việt Nam.
Việc phát triển kết cấu hạ tầng trong những năm qua mang lại lợi ích cho tất cả các
nước trong vùng, đặc biệt là với Campuchia. Nếu trước khi có CLVDT, các tỉnh C-
CLVDT bị cô lập so với các vùng khác thì đến nay đã được kết nối với các trung tâm của
Campuchia và Việt Nam bằng cả đường không và đường bộ.
Về xã hội, cũng đã có nhiều đột phá mới với những chỉ tiêu về y tế, giáo dục được cải
thiện. Trong đó, thông qua những chương trình, dự án hợp tác song phương và trong
khuôn khổ ba bên trong CLVDT Việt Nam đã có những hỗ trợ tích cực cho các nước bạn.
Hằng năm trong các thỏa thuận hợp tác Việt Nam đều dành nhiều suất học bổng cho các
con em Lào và Campuchia sang học tập tại Việt Nam. Đồng thời, bằng nguồn vốn ODA,
Việt Nam đã hỗ trợ xây dựng một số trường học, bệnh viên cho Lào và Campuchia tại các
tỉnh khu vực CLVDT. Không những vậy, với Campuchia Việt Nam còn có chính sách hỗ
trợ người dân ở đây được thăm khám tại các tỉnh của Việt Nam.
Như vậy, xét về mặt xã hội thì trên cơ sở các chương trình hợp tác trong khuôn khổ
CLVDT, đời sống xã hội của cư dân địa phương ở đây đã bắt đầu được cải thiện.
4.2. Một số luận bàn về hướng phát triển kinh tế - xã hội CLVDT trong thời gian tới
Từ những phân tích đánh giá về điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức trong
phát triển CLVDT, kết hợp với mục tiêu cơ bản mà phát triển kinh tế xã hội hướng tới là
nâng cao đời sống kinh tế của vùng và cải thiện chất lượng sống cho người dân nghiên cứu
sinh đề xuất quan điểm phát triển cho vùng CLVDT trong thời gian tới nên theo hướng:

Thứ nhất, phải xác định rõ ràng ưu tiên cho tăng trưởng hay phát triển,
Thứ hai, phải tạo cực tăng trưởng thông qua các vùng kinh tế động lực.
Thứ ba, với đặc điểm điều kiện phát triển khá tương đồng như CLVDT cần phải chú
ý đến yếu tố lợi thế kinh tế nhờ quy mô và phải tạo ra được các chuỗi sản xuất ngành hàng
trong vùng.
Thứ tư, phát triển phải đảm bảo tính hệ thống. Nghĩa là phát triển phải theo hướng đã
dạng hóa, hiện đại hóa nhưng vẫn phải đảm bảo tính bền vững.
Thứ năm, cần đảm bảo tính kết nối giữa các vùng với nhau.
Thứ sáu, cần hoàn thiện hệ thống thể chế cho phát triển, điều này đặc biệt cần thiết
với một vùng quốc tế như CLVDT vì với vùng nay vấn đề thể chế cho phát triển chị sự chi
phối từ ba cấp.
Thứ bảy, cần phải chú trọng đến phát huy vai trò tư nhân trong các khu vực kinh tế.
Thứ tám, phải lưu ý yếu tố công nghệ và năng lực công nghệ trong phát triển.
Thứ chín, phải có một bộ máy quản lý tốt đề điều phối đối với các hoạt động của
vùng CLVDT.
Thứ mười, cần lồng ghép sự phát triển của CLVDT trong mối tương quan phát triển
của khu vực tiểu vùng sông Mê Kong, của ASEAN, của các hành lang kinh tế…
4.3. Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm phát triển kinh tế xã hội CLVDT trong
thời gian tới.
Thứ nhất, cần định kỳ đánh giá, rà soát việc thực hiện quy hoạch phát triển chung của vùng
Thứ hai, hình thành một số khu kinh tế trọng điểm.
Thứ ba, bên cạnh việc xác định các khu kinh tế trọng điểm cần sớm hình thành cực
tăng trưởng của vùng.
Thứ tư, nhằm thúc đẩy nhanh sự phát triển của vùng cần tạo ra các thể chế thuận lợi
cho vùng.
Những giải pháp nêu trên là những giải pháp được lựa chọn bởi tính cần thiết và thời
sự của phát triển vùng. Trong phát triển vùng cần phối hợp nhiều hơn nữa với các giải
pháp khác, đặc biệt cần lưu ý nhóm giải pháp về quản lý phát triển bởi nếu đường hướng
đúng mà thực thi không tốt thì cũng khó dẫn đến thành công.
KẾT LUẬN

Tính từ lúc sáng kiến xây dựng khu vực Tam giác phát triển đến nay đã được 13 năm,
song việc nghiên cứu một cách đầy đủ về mô hình hợp tác và thực tế đang diễn ra ở khu
vực này vẫn còn khá khiêm tốn, thiếu vắng các nghiên cứu tiếp cận vùng. Vì thế, nghiên
cứu sinh đã chọn chủ đề này làm đề tài nghiên cứu của luận án. Từ những kết quả nghiên
cứu tôi xin rút ra một số kết luận luận chung sau:
Hợp tác phát triển là xu thế tất yếu trong bối cảnh mới, nhất sau khi chiến tranh lạnh
kết thúc. Trên thực tế đã xuất hiện các hình thức, mô hình hợp tác rất đa dạng, phong phú
cả song phương và đa phương. Sự ra đời của Tam giác phát triển là một hình thức hợp tác
quốc tế mới thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác quốc tế đề phát triển trong một tiểu vùng
nhỏ giữa ba nước. Để hiểu rõ hơn các nội dung đó, luận án đã vận dụng cả lý thuyết phát
triển vùng và lý thuyết hợp tác quốc tế trong nghiên cứu.
Để luận giải có cơ sở khoa học về phát triển Tam giác phát triển luận án đã đưa ra các
chỉ tiêu để đo lường sự phát triển kinh tế - xã hội vùng. Về kinh tế, bên canh việc dựa và
các chỉ tiêu tổng quát là GDP, GDP bình quân, cơ cấu kinh tế thì vùng cần được nghiên
cứu và đánh giá trên cơ sở hiện trạng ngành. Luận án cũng đã tổng kết và rút ra bảy nhân
tố cơ bản tác động đến sự phát triển của một vùng đó là điểu kiện tự nhiên, trình độ phát
triển, quy mô dân số, vốn, cơ sở hạ tầng, chính sách và quan hệ hợp tác.
Luận án cũng đã nghiên cứu các mô hình Tam giác tăng trưởng của các nước ở Đông
Nam Á để tìm hiểu xu hướng phát triển của hình thức hợp tác và nhận thấy đây là một
hình thức hợp tác hiệu quả. Những kinh nghiệm thành công của các tam giác đã có dựa
trên một số yếu tố như: yếu tố địa lý kiền kề; có một trung tâm đầu đàn dẫn dắt vùng phát
triển; có mối quan hệ tương hỗ trong sản xuất; vai trò của khu vực tư nhân lớn; cơ sở hạ
tầng đặc biệt là giao thông phải được đầu tư phát triển hợp lý; có mối quan hệ, liên kết xã
hội - văn hóa và cuối cùng là phải có những cam kết chính trị mạnh mẽ. Trong những điều
kiện trên thì CLVDT thiếu mất một đầu tàu kinh tế và khó khăn thứ hai là tính bổ trợ trong
đầu vào sản xuất của CLVDT rất mờ nhạt. Tuy thiếu đi những nhân tố này nhưng CLVDT
vẫn đã hình thành. Qua nghiên cứu cho thấy cơ sở thực tiễn quan trọng khi hình thành và
phát triển Tam giác phát triển VCL ngoài các yếu tố cơ bản cho sự hình thành của một
vùng là sự cận về về địa lý, tính tương đồng trong văn hóa - xã hội, sự gần gũi đời sống,
truyền thống hợp tác phát triển thì trên hết là yếu tố lợi ích mà CLVDT có thể mang lại

cho cả ba nước trong một hình thức hợp tác mới trong CLVDT.
Qua nghiên cứu thực trạng phát triển vùng từ khi hình thành cho thấy phát kinh tế -
xã hội đã có những bước phát triển đáng kể theo chiều hướng tích cực, tuy nhiên trình độ
phát triển phát triển còn yếu kém, ở mức thấp so với mức trung bình chung của mỗi nước.
Kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp, sản xuất mới chỉ trong giai đoạn đầu chuyển
sang sản xuất hàng hóa và sử dụng các kỹ thuật mới. Thương mại, dịch vụ và sản xuất
công nghiệp bắt đầu có những chuyển biến nhưng cũng ở dạng sơ khai của tiến trình phát
triển. Đời sống xã hội có nhiều chuyển biến nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ những nhu cầu cơ
bản của người dân. Có thể nói dù cho vùng có những điều kiện tự nhiên khá tốt nhưng
chưa khai thác được hết tiềm năng.
Khi phân tích bảy nhân tố tác động đến khả năng phát triển của vùng cho thấy nhưng
nhân tố mang tính thể chế có chiều hướng thuận lợi hơn là những nhân tố đặc trưng của

×