HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
TRẦN THỊ HUỆ
LỚP CCLL CT- HC: B11 -13
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HUYỆN QUẢNG XƯƠNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ – HÀNH CHÍNH
Giảng viên hướng dẫn
TS. TRƯƠNG VĂN HUYỀN
Khoa Chính trị học
HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM 2014
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Ký hiệu
Xã hội chủ nghĩa XHCN
Hội đồng nhân dân HĐND
Ủy ban nhân dân UBND
Mặt trận tổ quốc MTTQ
Giải phóng mặt bằng GPMB
An ninh trật tự ANTT
Phụ nữ PN
Tệ nạn xã hội TNXH
Dân số kế hoạch hóa gia đình DS-KHHGĐ
Giáo dục Trung học cơ sở GD THCS
.
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian làm việc nghiêm túc, đề tài luận văn tốt nghiệp “Nâng
cao chất lượng hoạt động của Hội liên hiệp phụ nữ huyện Quảng Xương
trong giai đoạn hiện nay” đã được hoàn thành. Với tình cảm chân thành, tôi
xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Lê Văn Huyền, người đã tận
tình, hết lòng hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện đề tài.
Tôi chân thành cảm ơn Ban Giám đốc học viện; các Thầy, Cô giảng viên
của học viện Chính trị khu vực I đã luôn sẵn lòng giúp đỡ và động viên cũng
như tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu.
Và cuối cùng xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, đồng
nghiệp đã động viên, tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành khoá học và luận
văn này.
Mặc dù thời gian hạn hẹp, bản thân đã có nhiều cố gắng khi thực hiện
đề tài, tuy nhiên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Bản thân rất
mong được sự góp ý và chỉ bảo của quý thầy cô trong Hội đồng đánh giá
luận văn cùng toàn thể quý vị và các bạn, những người quan tâm tới đề tài
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2014
Tác giả luận văn
Trần Thị Huệ
MỤC LỤC
Trang
A - Mở đầu
B - Nội dung
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của phụ nữ trong
sự nghiệp cách mạng
1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về
vị trí, vai trò của phụ nữ
1.2. Vị trí, vai trò của phụ nữ và Hội LHPN trong sự nghiệp cách mạng
1.3. Thời đại ngày nay và những yêu cầu đối với phụ nữ và công tác
phụ nữ
Chương 2: Thực trạng chất lượng hoạt động của Hội Liên hiệp phụ
nữ huyện Quảng Xương
2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội huyện Quảng Xương
2.2. Chất lượng hoạt động của hội phụ nữ huyện Quảng Xương thời
gian qua
Chương 3: Mục tiêu, phương hướng và một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ
huyện Quảng Xương thời gian tới
3.1. Mục tiêu, phương hướng
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của
Hội LHPN huyện Quảng Xương thời gian tới
C. Kết luận
* Danh mục tài liệu tham khảo
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Phụ nữ chiếm một nửa dân số thế giới, có vai trò quan trọng trong từng
bước phát triển của xã hội loài người. Lịch sử thế giới đã khẳng định vai trò
của phụ nữ là người mẹ, người lao động và người bảo vệ đất nước , tuỳ theo
ảnh hưởng của phụ nữ đối với từng quốc gia.
Đối với Việt Nam, trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, phụ
nữ luôn đóng một vai trò trọng yếu. Vốn sinh ra trong một đất nước với nền
văn minh nông nghiệp dựa trên nền tảng nghề trồng lúa nước, phụ nữ Việt
Nam trở thành lực lượng lao động chính. Với truyền thống yêu nước, lao
động cần và sáng tạo, phụ nữ Việt Nam là lực lượng quần chúng hùng hậu
của cách mạng. Phụ nữ Việt Nam luôn có khát vọng tự do, hòa bình, tin tưởng
tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và đồng hành cùng sự phát triển, đi lên
của dân tộc.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, phụ nữ Việt Nam đóng vai trò
quan trọng tạo nên sự thành công trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá
xã hội Tuy nhiên, trước yêu cầu tình hình mới ở trong nước và thế giới,
người phụ nữ cần phải đổi mới tư duy nhận thức, nâng cao trình độ mọi mặt
để làm tròn trách nhiệm, vai trò của người phụ nữ và nâng cao vị thế của
mình trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Trong những năm qua, những
thành tựu về phát triển kinh tế xã hội của đất nước đã giúp cho đại bộ phận
các gia đình Việt Nam nâng cao mức sống, cải thiện đời sống gia đình; nhiều
gia đình đã thoát khỏi đói nghèo, một bộ phận gia đình có mức sống khá giả;
phụ nữ đã dần được bình đẳng với chồng con trong gia đình, với nam giới
ngoài xã hội. Tuy nhiên, nhiều vấn đề xã hội bức xúc như: vấn đề khám chữa
bệnh và học hành của con cái, tệ nạn xã hội gia tăng đang là mối lo của nhiều
gia đình. Việc bảo vệ gia đình khỏi các tệ nạn xã hội, lo liệu nuôi dạy con cái
nên người, tạo dựng cuộc sống gia đình no ấm bình đẳng tiến bộ hạnh phúc đòi
hỏi người phụ nữ với vai trò người mẹ người vợ không chỉ bằng tình thương
trách nhiệm, sự nhân hậu hy sinh mà phải cả ở tri thức, sự hiểu biết và gương
mẫu.
Trong thành tựu chung của các cấp Hội phụ nữ cả nước, công tác hội và
phong trào phụ nữ huyện Quảng Xương – tỉnh Thanh Hóa những năm qua đã
có sự phát triển, bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của các
tầng lớp phụ nữ trong huyện. Việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội của huyện nhà có sự đóng góp không nhỏ của các tầng lớp phụ nữ. Đặc
biệt, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn
ngày nay, vai trò của phụ nữ càng trở nên quan trọng. Đứng trước yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới đất nước, việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của
Hội đang là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Là một cán bộ của Hội liên hiệp phụ nữ huyện Quảng Xương, xuất
phát từ yêu cầu thực tiễn của địa phương, sau khi học xong chương trình
cao cấp lý luận chính trị tại Học viện Chính trị khu vực I, tôi chọn đề tài:
“Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội liên hiệp phụ nữ huyện
Quảng Xương trong giai đoạn hiện nay” làm chuyên đề tốt nghiệp Cao
cấp lý luận chính trị của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Mục tiêu của đề tài: Trên cơ sở lý luận, đề tài đánh giá, phân tích thực
trạng phong trào phụ nữ huyện trong những năm qua, từ đó đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Hội liên hiệp phụ nữ huyện Quảng
Xương trong thời gian tới.
Nhiệm vụ của đề tài: Để đạt mục tiêu nghiên cứu, luận văn khái quát
một số vấn đề lý luận về phụ nữ; phân tích thực trạng chất lượng hoạt động
của Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Quảng Xương thời gian qua, đặc biệt là đánh
giá được những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế để trên cơ sở đó,
đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của Hội liên hiệp phụ
nữ huyện Quảng Xương trong những năm tiếp theo.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu chất lượng hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ
và công tác vận động phụ nữ trên địa bàn huyện Quảng Xương. Số liệu tham
khảo chủ yếu từ năm 2006 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –Lênin, đó là
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra để đạt mục đích
nghiên cứu, luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể khác như: phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học trong quá trình nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề
tài gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của phụ nữ trong sự
nghiệp cách mạng
Chương 2: Thực trạng chất lượng hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ
huyện Quảng Xương
Chương 3: Mục tiêu, phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Quảng
Xương thời gian tới
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA PHỤ NỮ TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG
1.1. CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM
CỦA ĐẢNG TA VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vị trí, vai trò của
phụ nữ
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng xoá bỏ tận gốc chế độ người bóc
lột người, xây dựng một xã hội mới tự do, bình đẳng. Cuộc cách mạng to lớn
và triệt để như vậy, không thể thiếu lực lượng phụ nữ tham gia.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết cách mạng tiên tiến của thời đại ngày
nay đã chỉ ra nguồn gốc của bất công, của áp bức, bóc lột, của sự bất bình
đẳng giữa nam và nữ, đồng thời chỉ ra con đường giải phóng phụ nữ, động
viên lực lượng phụ nữ tham gia vào sự nghiệp cách mạng. Với hơn một nửa
dân số, phụ nữ đã và đang góp phần không nhỏ vào sự nghiệp cách mạng của
mỗi nước và trên toàn thế giới. Bất cứ ở nơi đâu và giai đoạn lịch sử nào, phụ
nữ trên toàn thế giới cũng ra sức đoàn kết, đấu tranh cho bình đẳng và tiến bộ
của phụ nữ, vì mục tiêu hội nhập và phát triển.
Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng, sự tiến bộ của xã hội sẽ
chậm lại nếu trong xã hội có một bộ phận đông đảo người bị áp bức bóc lột,
bị hạn chế hoặc bị loại trừ. Vì vậy vấn đề giải phóng phụ nữ đã được đặt ra từ
rất lâu. Từ giữa thế kỷ thứ XIX chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời đã góp phần rất
quan trọng trong việc giải phóng phụ nữ. Thực hiện bình đẳng nam nữ là một
trong những nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng xã
hội, giải phóng con người. Trong sự nghiệp cách mạng đó không thể thiếu vai
trò của phụ nữ. Chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá cao vị trí, vai trò của phụ nữ
trên phương diện này; theo đó, trong lịch sử nhân loại, không có một phong
trào lớn nào của những người bị áp bức mà lại không có phụ nữ lao động
tham gia. Phụ nữ lao động là những người bị áp bức nhất trong tất cả những
người bị áp bức. Bởi vậy, không bao giờ họ đứng ngoài và không thể đứng
ngoài cuộc đấu tranh giải phóng con người. Từ thực tế lịch sử đó, Các Mác đã
khái quát: Ai đã biết lịch sử thì biết rằng, muốn sửa sang xã hội mà không có
phụ nữ giúp vào thì chắc chắn không làm nổi.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Sự nghiệp giải
phóng phụ nữ là bộ phận khăng khít, gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai
cấp, với cuộc đấu tranh cách mạng để xoá bỏ chế độ tư hữu, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Ph.Ăngghen nhấn mạnh: "Sự
nghiệp giải phóng phụ nữ, quyền bình đẳng giữa nam và nữ đều không thể có
được, chừng nào mà phụ nữ vẫn chưa được tự do, vẫn còn bị gạt ra ngoài lao
động sản xuất xã hội và còn bị bó hẹp trong việc riêng tư của gia đình"
(1)
.
Vai trò to lớn của phụ nữ còn được đề cao trong công cuộc giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội: muốn giải phóng giai cấp, xoá bỏ chế độ bóc lột,
xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi, thì giai cấp vô sản phải tạo điều kiện giải
phóng phụ nữ. Phụ nữ là một nửa của nhân loại, nếu phụ nữ chưa được giải
phóng thì sự nghiệp của giai cấp vô sản chưa thực hiện được. Không huy
động được phụ nữ tham gia thì cách mạng không thể thắng lợi.
Là người bảo vệ và phát triển học thuyết của Mác - Ăngghen, Lênin
cũng đánh giá cao vai trò của phụ nữ với sự nghiệp cách mạng. Người khẳng
định: "Chừng nào mà người phụ nữ không những không được quyền tự do
tham gia đời sống chính trị nói chung, mà cũng chưa được gánh vác một
công việc thường xuyên và chung cho cả mọi người thì chừng ấy chưa nói
đến chủ nghĩa xã hội được, cũng chưa thể nói đến ngay cả một chế độ dân
chủ toàn vẹn và bền vững"
(2)
.
Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và con người, vấn
đề giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ là trách nhiệm của
(
1)
CMác - Ăngghen tuyển tập, tập 2, NXB Sự thật, Hà Nội, Tr 516
(
2)
Lênin toàn tập, T24, NXB Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 737.
toàn xã hội. Hơn ai hết, phụ nữ là người trực tiếp đấu tranh bảo vệ quyền lợi
cho mình, đòi quyền bình đẳng tiến bộ, hạnh phúc cho chính mình. Lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin là ngọn đèn pha, là vũ khí sắc bén trên con đường
đấu tranh giành thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về vị trí, vai
trò của phụ nữ
Chủ tịch Hồ Chí Minh với lòng yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc,
trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình người đã viết nhiều, nói
nhiều về vai trò của phụ nữ và đề ra các biện pháp hữu hiệu để giải phóng phụ
nữ. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò to lớn của phụ nữ với sự nghiệp
cách mạng của dân tộc. Người viết: "Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ,
trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ"
(3)
.
Hơn ai hết, người chứng kiến sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong thời
kỳ phong kiến, áp bức, bóc lột. Chính những khổ đau của người mẹ, người chị
thân yêu của Bác đã nhân lên thành yêu thương, mối cảm thông sâu sắc với
phụ nữ, trẻ em, người già cô đơn. Tuy chịu nhiều ảnh hưởng nho giáo, song
người cũng hiểu rằng "tam tòng", "tứ đức", là những gánh nặng đè lên tấm
thân gầy yếu của người phụ nữ. Người khẳng định: "Nếu không giải phóng
phụ nữ thì sẽ không giải phóng phần nửa loài người, nếu không giải phóng
phụ nữ tức là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có một nửa"
(4)
.
Người đã chỉ rõ chính phụ nữ là lực lượng cách mạng to lớn tự giải
phóng mình và giải phóng đất nước. Bác nói: "Xem trong lịch sử cách mệnh,
chẳng có lần nào mà chẳng có đàn bà con gái tham gia. Vậy nên, muốn thế
giới cách mạng thành công thì phải vận động đàn bà, con gái công nông các
nước"
(5)
.
(
3
)
HCM toàn tập, T6, NXB Chính trị Quốc gia, 1995, tr. 431.
(
4)
HCM toàn tập, T6, NXB Chính trị Quốc gia, 1995, tr. 47.
(
5)
HCM toàn tập, T2, NXB Chính trị Quốc gia, 1984, tr. 217.
Khi cách mạng tháng Tám thành công, người soạn thảo Hiến pháp 1946,
đã ghi rõ "Phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông, được
hưởng chung mọi quyền tự do của công dân"
(6)
.
Trong đường lối lãnh đạo của mình, Hồ Chủ tịch luôn quan tâm đến việc
đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt phụ nữ vào các chức vụ lãnh đạo kinh tế, xã hội.
Người đã kế thừa quan điểm giải phóng phụ nữ của các nhà kinh điển mà đặt
nền móng cho việc giải phóng phụ nữ Việt Nam thành hiện thực. Người luôn
quan tâm chỉ đạo Đảng và Chính phủ cần có kế hoạch thiết thực để bồi
dưỡng, cân nhắc và giúp đỡ, để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi
công việc, kể cả việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên
trong mọi cuộc cách mạng thực sự đưa đến quyền bình đẳng cho phụ nữ.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch, Đảng ta đã có nhiều chủ
trương, đường lối, ra nhiều Chỉ thị, Nghị quyết để lãnh đạo công tác phụ nữ.
Đảng ta coi vấn đề giải phóng phụ nữ gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân
tộc, bảo vệ tổ quốc. Ngay từ khi mới ra đời, với luận cương 1930, Đảng đã
chỉ rõ: Đảng cần tổ chức ra đoàn thể phụ nữ Hiệp hội, mục đích là mưu quyền
lợi cho phụ nữ, triệt để giải phóng họ. Quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ
một lần nữa lại được khẳng định trong Hiến pháp 1992: "Công dân nam - nữ
có quyền ngang nhau về mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã hội, gia đình… Nhà
nước tạo điều kiện nâng cao trình độ về mọi mặt để phụ nữ có thể không
ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội".
Trải qua quá trình cách mạng, tùy theo từng thời kỳ mà Đảng đề ra chủ
trương, đường lối phù hợp với phong trào phụ nữ cũng như sự phát triển của
phụ nữ. Nghị quyết 152 – 153 năm 1967 có nội dung: tăng cường sự lãnh đạo
của các cấp ủy đảng đối với công tác phụ vận; tăng cường bảo vệ sức khỏe bà
mẹ, trẻ em; tăng cường công tác cán bộ nữ, mạnh bạo đề bạt, sử dụng cán bộ
nữ, kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng phong kiến hẹp hòi trong việc đề bạt,
sử dụng cán bộ. Nghị quyết 31 của Hội đồng chính phủ năm 1967 đề cập đến
(
6)
HCM toàn tập, T4, NXB Chính trị Quốc gia, 1995, tr. 440.
vấn đề bồi dưỡng lực lượng lao động nữ; không sử dụng lao động nữ trong
môi trường độc hại không phù hợp với điều kiện sinh lý của phụ nữ; sử dụng
lao động nữ phải đi đôi với bồi dưỡng và bảo vệ sức khỏe. Chỉ thị 44 (ngày
7/6/1984) của Ban bí thư trung ương Đảng đề cập đến công tác đào tạo bồi
dưỡng cán bộ phụ nữ. Nghị quyết 176a (1985) của Hội đồng bộ trưởng nay là
Chính phủ về phân bổ sử dụng đào tạo bồi dưỡng và bảo hộ lao động nữ; phát
huy vai trò của phụ nữ trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Quyết định
163/HĐBT ngày 19/10/1988 của Hội đồng bộ trưởng được thay thế bằng
Nghị định 19/2003/NĐ-CP ngày 7/3/2003 của Chính phủ về “Qui định trách
nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc đảm bảo cho
Hội phụ nữ tham gia quản lý Nhà nước”. Đặc biệt Nghị quyết 04 (NQ - TW)
ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về “Đổi mới và tăng cường công tác vận
động phụ nữ trong tình hình mới”. Chỉ thị 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của
Ban bí thư trung ương Đảng khóa VII về nâng cao nhận thức quan điểm của
Đảng về vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới. Nghị quyết 11-
NQ/TW của Bộ chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước đã đưa ra mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020, phụ
nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn
nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa-hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa,
tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên
mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng nhiều hơn công việc xã hội và gia đình.
Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới
tiến bộ nhất khu vực.
Các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng đã thể hiện sâu sắc quan điểm của
đảng ta về vai trò phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng của đất nước, nhằm tạo
điều kiện cho mọi tầng lớp phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống
vẻ vang của mình, phấn đấu vươn lên xứng đáng là một lực lượng cách mạng
to lớn, một lực lượng lao động quan trọng không thể thiếu được trong xã hội.
Các chỉ thị nghị quyết đó cũng nói lên rằng, sự nghiệp giải phóng phụ
nữ không chỉ là việc riêng của phụ nữ mà bao gồm tổng hợp nguồn lực của
Đảng, chính quyền, các đoàn thể, toàn xã hội đến từng gia đình. Đây là quan
điểm rất mới của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề của phụ nữ và giải
phóng phụ nữ trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng là sự phối hợp giữa các lực
lượng thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ trên hai phương diện. Trước hết
là sự xem xét lại chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức cụ thể đối với sự
nghiệp giải phóng phụ nữ và phong trào phụ nữ, thể hiện bằng chương trình
hành động cụ thể của đoàn thể mình. Mặt khác, đó là sự liên kết, hỗ trợ nhau
cùng tiến hành nhằm những mục tiêu chung theo yêu cầu của từng thời kỳ đặt
ra đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Bước sang giai đoạn mới, công cuộc đổi mới toàn diện của nước ta diễn
ra với nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, tuy nhiên dưới sự lãnh
đạo của Đảng thể hiện qua các nghị quyết, chỉ thị Đảng ta xác định nội dung,
phương thức, nhiệm vụ công tác phụ vận của những thời điểm lịch sử khác
nhau đã phát huy cao độ tiềm năng của lực lượng phụ nữ để họ đóng góp một
cách xứng đáng vào sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta.
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ VÀ HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TRONG SỰ
NGHIỆP CÁCH MẠNG
1.2.1 Vị trí, vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp phát triển đất nước
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam giữ một vị trí và
vai trò hết sức quan trọng. Là con cháu của Bà Trưng, Bà Triệu, phụ nữ Việt
Nam luôn phát huy truyền thống: “Anh hùng - Bất khuất - Trung hậu - Đảm
đang”. Ngày nay, truyền thống đó của phụ nữ đang được phát huy, rèn luyện
với những yêu cầu, chuẩn mực mới. Phụ nữ Việt Nam đã góp phần không nhỏ
vào thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với 51,48%
dân số và chiếm 52% lực lượng lao động xã hội, phụ nữ Việt Nam đã và đang
là nguồn lao động có tiềm năng to lớn, thực sự là đã trở thành động lực mạnh
mẽ trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Với vai trò to lớn và truyền thống tốt đẹp đó, phụ nữ Việt Nam đã và đang
vượt qua khó khăn, thử thách, đóng góp xứng đáng công sức của mình vào sự
nghiệp phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực. Trên lĩnh vực chính trị, phụ nữ
luôn vượt lên những hoàn cảnh khó khăn, tham gia công tác Đảng, quản lý
Nhà nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ Đảng và Nhà nước giao cho. Trong lĩnh
vực kinh tế, nhiều chị em phụ nữ là những doanh nhân giỏi, là những nhà
quản lý giỏi, có đầu óc sáng tạo, góp phần làm giàu cho đất nước. Trên lĩnh
vực khoa học công nghệ, chị em phụ nữ là những nhà nghiên cứu khoa học
nhiệt tình, thông minh và có nhiều công trình nghiên cứu được đưa vào ứng
dụng có hiệu quả. Đặc biệt là trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, phụ nữ là
lực lượng hùng hậu, tham gia vào quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mạnh
dạn áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa năng suất lúa tăng cao, góp sức làm cho
các loại cây công nghiệp và cây ăn quả phát triển. Phụ nữ Việt Nam còn tham
gia tích cực vào việc giữ gìn nếp sống văn hoá và bản sắc dân tộc Việt Nam,
lưu truyền các giá trị tinh hoa văn hoá từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Bên cạnh chức năng xã hội, các chức năng gia đình của phụ nữ cũng hết
sức quan trọng. Phụ nữ bao giờ cũng giữ vai trò trung tâm ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống kinh tế, tinh thần, tình cảm, lối sống, nếp sống văn hoá của mọi
thành viên trong gia đình. Họ là người vợ hiền, người con hiếu thảo, người
mẹ yêu thương. Họ nâng đỡ tình cảm cho chồng con, tạo điều kiện cho chồng
con lao động, công tác, học tập và cống hiến. Ngoài ra, người phụ nữ còn có
một thiên chức đặc biệt, đó là thiên chức làm mẹ và là người thầy đầu tiên của
con người. Đánh giá vai trò của phụ nữ bao giờ cũng phải xét trên hai khía
cạnh xã hội và gia đình. Cả hai chức năng này, phụ nữ đều có vị trí hết sức
quan trọng. Để hoàn thành nó, người phụ nữ phải nỗ lực hơn nam giới nhiều.
Vì thế, có ý kiến cho rằng, giáo dục một người đàn ông thì chỉ được một
người, còn giáo dục một người phụ nữ thì được cả một gia đình. Nhiều gia
đình tốt thì sẽ được một xã hội tốt.
1.2.2. Vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong sự
nghiệp cách mạng
Hội LHPN Việt Nam là một tổ chức chính trị xã hội, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã sớm nhận rõ vai trò phụ nữ là lực
lượng quan trọng của cách mạng, từ đó đưa ra nhiệm vụ giải phóng phụ nữ
gắn với giải phóng giai cấp. Được thành lập ngày 20 tháng 10 năm 1930, trải
qua các thời kỳ cách mạng với các tên khác nhau như: Hội phụ nữ giải phóng
(năm 1930 - 1931), Hội phụ nữ dân chủ (1934 - 1936), hội phụ nữ phản đế
(1939), Hội phụ nữ cứu quốc (1941) và ngày nay được gọi là Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam.
Từ khi thành lập đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội LHPN Việt
Nam đã viết lên những trang sử vô cùng vẻ vang và oanh liệt. Hội luôn luôn
phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ. Hội LHPN
Việt Nam là một bộ phận nằm trong hệ thống chính trị, cùng các tổ chức,
đoàn thể có trách nhiệm đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đại diện
cho quyền, lợi ích hợp pháp cho phụ nữ và trẻ em.
Hoạt động của Hội LHPN Việt Nam trong những năm qua luôn bám sát
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Những định hướng và chỉ tiêu cơ bản được xác định thông qua 6 chương trình
trọng tâm của công tác Hội đề ra cho các cấp Hội thực hiện.
Hội xây dựng nội dung cụ thể, sát thực với từng thời kỳ, với nhiều hình
thức sinh hoạt phong phú, đa dạng đã mang lại hiệu quả cao, đáp ứng với yêu
cầu, tâm tư nguyện vọng của cán bộ, hội viên.
Với những chương trình ngắn hạn, dài hạn và những nội dung
chuyên đề riêng do Trung ương Hội đề ra, đã có tác dụng cổ vũ thi đua và
làm cơ sở cho các cấp Hội vận dụng linh hoạt, tuỳ khả năng, hoàn cảnh
của từng địa phương. Nhờ vậy, phong trào phụ nữ nước ta với động lực là
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, trong những năm qua đã hoạt động có
hiệu quả thiết thực.
Trong quá trình hoạt động, Hội LHPN Việt Nam luôn giành nhiều nguồn
lực cho cơ sở. Đặc biệt là đào tạo cán bộ, tạo vốn để sản xuất, giúp cho phụ
nữ nghèo tạo việc làm, tăng thu nhập. Với quan điểm nhất quán phải coi trọng
vai trò hạt nhân của cơ sở và coi trọng yếu tố con người nên trong hoạt động
của Hội luôn có sự tìm tòi, khai thác, điều tiết hợp lý các nguồn vốn cho các
cấp Hội, tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và các dự án quốc gia
để thu hút các nguồn vốn cho hội viên sản xuất, chăm sóc sức khoẻ cho phụ
nữ và trẻ em, nâng cao kiến thức về mọi mặt cho phụ nữ, tập trung thúc đẩy
phong trào của cơ sở đi lên. Các hình thức sinh hoạt của hội viên khá hấp dẫn.
Do vậy, chương trình hoạt động của Hội LHPN Việt Nam đã thực sự đi vào
cuộc sống. Hội LHPN Việt Nam đã tích cực tham mưu cho Đảng, Nhà nước
sớm ban hành được các Chỉ thị, Nghị quyết về công tác phụ nữ và công tác
cán bộ nữ. Nhờ vậy, phong trào phụ nữ và tổ chức Hội ngày càng vững mạnh.
Các chương trình hoạt động của Hội luôn được hội viên hưởng ứng và xã hội
công nhận, ủng hộ, đã góp phần tích cực vào kết quả thực hiện chương trình,
mục tiêu, nhiệm vụ chung của Đảng và Nhà nước giao cho.
Sự trưởng thành của phong trào phụ nữ cả nước được gắn liền với sự
nghiệp đổi mới của đất nước. Thành công ấy, trước hết là do sự lãnh đạo của
Đảng, sự tạo điều kiện của chính quyền các cấp, sự ủng hộ của các tổ chức
đoàn thể nhưng quan trọng là sự nỗ lực trong tổ chức hoạt động của các cấp
Hội LHPN Việt Nam.
1.3. THỜI ĐẠI NGÀY NAY VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI PHỤ NỮ VÀ CÔNG
TÁC PHỤ NỮ
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình quốc tế đang có những diễn biến
phức tạp tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức. Cách
mạng khoa học công nghệ phát triển với tốc độ cao, thực sự trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, đưa thế giới bước vào giai đoạn phát triển mới với
những bước nhảy vọt. Lực lượng sản xuất tăng nhanh, toàn cầu hoá trở thành
một xu thế, kinh tế tri thức xuất hiện, vị thế con người được đề cao hơn bao
giờ hết. Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học công nghệ cũng để lại những
hậu quả nghiêm trọng như ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, dân số
tăng quá tải, nạn ma tuý, bệnh tật… Đó là những vấn đề cấp bách mà
không một quốc gia nào tự giải quyết được. Trong xu thế hoà nhập vào sự
phát triển chung của nhân loại, đòi hỏi phụ nữ cần phải nâng cao trình độ
về mọi mặt, tổ chức Hội phải không ngừng đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động, phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo để bắt kịp xu thế chung đó.
Trong những năm qua, các tầng lớp phụ nữ nước ta đã phát huy
truyền thống "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang", đoàn kết, đổi
mới, sáng tạo trong lao động, đạt nhiều thành tích suất sắc trên các lĩnh
vực kinh tế - chính trị, văn hoá - xã hội, các tầng lớp phụ nữ Việt Nam có
nhiều cơ hội và điều kiện phấn đấu vươn lên cùng với sự phát triển chung
của đất nước. Đa số phụ nữ đã thích ứng với sự đổi mới về phân công lao
động, chủ động tiếp cận đào tạo ngành nghề mới, bồi dưỡng kỹ năng lao
động, kiến thức sản xuất, năng lực quản lý Ngày càng có nhiều phụ nữ
quan tâm và tham gia vào các hoạt động xã hội, các phong trào thi đua yêu
nước. Chị em đã và đang vượt qua những khó khăn của cuộc sống, những
mặc cảm tâm lý, bền bỉ sáng tạo vươn lên, khẳng định vị trí của mình
trong gia đình và xã hội.
Tuy nhiên công cuộc đổi mới và phát triển đất nước đang đứng trước
không ít khó khăn thách thức: Vấn đề việc làm, phân hoá giầu nghèo, trình
độ học vấn thấp đã ảnh hưởng tới sự phấn đấu vươn lên của phụ nữ trong
cuộc đấu tranh cho sự bình đẳng, phát triển và tiến bộ của phụ nữ. Thời đại
mới đặt ra những yêu cầu mới về những chuẩn mực của người phụ nữ Việt
Nam. Vì vậy, cần tạo cơ hội và động lực cho phụ nữ tích cực rèn luyện,
phấn đấu vươn lên; tạo điều kiện để phụ nữ được bình đẳng và phát triển,
động viên và phát huy khả năng của các tầng lớp phụ nữ đóng góp tích
cực, có hiệu quả vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước nói chung và từng địa phương nói riêng.
Ngoài sự quan tâm tạo điều kiện của Đảng, nhà nước, chị em phụ nữ
cũng như các cấp lãnh đạo Hội cần phải cố gắng vươn lên, bởi vậy, công tác
phụ nữ phải được đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động. Đó cũng là cơ sở
để giải quyết những vấn đề có tính chiến lược lâu dài nhằm đạt mục tiêu "Vì
sự bình đẳng và phát triển của phụ nữ".
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HUYỆN QUẢNG XƯƠNG
2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN QUẢNG XƯƠNG
Quảng Xương là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Thanh Hóa;
phía Đông giáp thị xã Sầm Sơn và vịnh Bắc Bộ, phía Nam giáp huyện Tĩnh
Gia và huyện Nông Cống, phía Tây giáp huyện Nông Cống và huyện Đông
Sơn, phía Bắc giáp thành phố Thanh Hóa và Hoằng Hóa. Từ năm 1971 đến
năm 2012, sau khi chia tách địa giới, sáp nhập 11 xã về Thành phố Thanh
Hóa và Thị xã Sầm Sơn, đến nay, Quảng Xương còn 36 xã, Thị trấn với
198,20 km² và 227.971 người.
Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện, các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tầng lớp nhân dân đã đoàn kết,
quyết tâm vượt lên trên khó khăn, thử thách, tranh thủ thời cơ, thuận lợi, phấn
đấu đạt được nhiều kết quả cao và toàn diện trên các lĩnh vực.
Trên lĩnh vực kinh tế:
Kinh tế tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường đáng kể. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
bình quân hàng năm đạt 13.3%, đạt mục tiêu đề ra, cao hơn nhiệm kỳ trước là
2,3%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; đến năm 2010, Nông, lâm,
thuỷ sản: 40,0%,; công nghiệp - xây dựng: 27,2%; dịch vụ - thương mại:
32,8% (KH: 44% - 24% - 32%), Nông – Lâm – Thủy sản tăng trưởng bình
quân hàng năm đạt 6,9%. Công nghiệp - thủ công nghiệp – đầu tư xây dựng cơ
bản tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 20,8%; dịch vụ - thương mại phát
triển đa dạng, phong phú cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng. Tốc độ tăng
trưởng bình quân hàng năm đạt 16,2%. GDP bình quân đầu người đạt 12,2
triệu đồng. Các giải pháp tích cực về phát triển kinh tế được triển khai tương
đối hiệu quả:
Trên lĩnh vực Văn hoá – xã hội:
Văn hóa – xã hội có chuyển biến tiến bộ; đời sống vật chất tinh thần của
nhân dân được cải thiện rõ rệt
Công tác giáo dục – đào tạo: quy mô giáo dục tiếp tục ổn định và phát
triển theo hướng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người học; tỷ lệ huy động học
sinh trong độ tuổi ra lớp ở tất cả các cấp học, bậc học ngày càng tăng. 100%
số xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập GDTHCS
(trong nhiệm kỳ có thêm 3 xã đạt chuẩn phổ cập GDTHCS).
Chất lượng giáo dục toàn diện có chuyển biến tích cực; chất lượng đại trà
được nâng lên; chất lượng mũi nhọn được chú trọng. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng, luân chuyển cán bộ quản lý, điều chuyển giáo viên được coi trọng,
100% giáo viên các cấp học có trình độ đạt chuẩn, trong đó 38,9% GV trên
chuẩn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học được tăng cường. Việc ứng dụng
CNTT trong dạy học và quản lý giáo dục được đẩy mạnh. Hết năm học 2009-
2010 có 49 trường học đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ 39,2%, (tăng 17,2% so
với năm 2005).
Các hoạt động văn hoá – thông tin – TDTT được đẩy mạnh. Quy mô,
chất lượng tuyên truyền theo chủ đề, chủ điểm ngày càng tốt hơn. Tiếp tục
đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Đến
nay, đã có 368 làng, cơ quan văn hoá được khai trương đạt 63,8%, trong đó 244
làng, đơn vị đạt danh hiệu văn hoá cấp huyện trở lên, có 72,5% gia đình đạt tiêu
chuẩn gia đình văn hoá, tăng 11%. Tăng cường chỉ đạo thành lập các CLB văn
hoá, CLB thể thao cơ sở. Số người tập luyện TDTT thường xuyên đạt 30%,
tăng 10,5%. Số gia đình đạt gia đình thể thao là 18,5%, tăng 7,5%. Thể thao
thành tích cao luôn xếp hạng trong tốp các đơn vị dẫn đầu của tỉnh.
Công tác y tế, dân số, gia đình và trẻ em: Làm tốt công tác y tế dự
phòng, kịp thời bao vây và dập tắt dịch khi có dịch bệnh xảy ra. Chất lượng
chẩn đoán, điều trị, dịch vụ y tế được nâng lên, y đức của đội ngũ thầy thuốc
tiếp tục được bồi dưỡng và phát huy. Chú trọng công tác đào tạo, đào tạo lại
cán bộ y tế xã, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ y tế thôn, thu hút bác sĩ về địa
phương công tác, đã có 35 trạm y tế có bác sĩ (đạt tỷ lệ 88%). Triển khai thực
hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế đối với trẻ em và người nghèo. Điều kiện
khám, chữa bệnh của các cơ sở khám chữa bệnh ở các tuyến đều được nâng
lên; có 25 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, đạt tỷ lệ 60%.
Công tác dạy nghề, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo được tổ chức
thực hiện với nhiều biện pháp, đời sống nhân dân được cải thiện, đã giải quyết
việc làm cho 25.300 lao động (bình quân 6.100 lao động/năm), đưa được 2.610
lao động đi xuất khẩu nước ngoài, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 35,5%. Tăng
cường chỉ đạo xoá đói, giảm nghèo; cơ bản xoá xong số nhà tạm bợ, dột nát cho
hộ nghèo, không có hộ đói, hộ nghèo giảm từ 32% năm 2005 xuống còn 15%; số
hộ khá và giàu tăng nhanh. Việc thực hiện chế độ, chính sách đối với người có
công, đối tượng bảo trợ xã hội, các chính sách an sinh xã hội được đảm bảo chính
xác, kịp thời.
Công tác An ninh – Quốc phòng
An ninh – quốc phòng được tăng cường, trật tự ATXH được đảm bảo, hoạt
động của các cơ quan nội chính ngày càng có hiệu quả
Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục các quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ Quốc phòng – An ninh; thực hiện
tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự, công an
làm tham mưu; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong
việc thực hiện nhiệm vụ QP-AN. Công tác bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng –
An ninh, huấn luyện quân sự, tuyển quân, diễn tập khu vực phòng thủ và công
tác hậu phương quân đội được triển khai đúng kế hoạch, hoàn thành chỉ tiêu,
nhiệm vụ được giao; nhiệm vụ xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, an toàn
làm chủ, SSCĐ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được coi trọng.
Công tác bảo vệ đảng, bảo vệ chính quyền, công tác đấu tranh phòng
chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội được quan tâm chỉ đạo quyết liệt,
thường xuyên và có hiệu quả. An ninh chính trị, an ninh nông thôn, an ninh
tuyến biển, an ninh tôn giáo được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm
bảo, 82% các vụ việc xảy ra được giải quyết từ cơ sở, nhiều vụ án phức tạp đã
được Công an huyện và các ngành chức năng giải quyết dứt điểm, đúng pháp
luật. Công tác tuyên truyền, tuần tra kiểm soát và xử phạt các hành vi vi phạm
trật tự an toàn giao thông được tăng cường, góp phần hạn chế đáng kể các vụ
tai nạn giao thông trên địa bàn.
2.2. CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI PHỤ NỮ HUYỆN QUẢNG
XƯƠNG THỜI GIAN QUA
2.2.1. Cơ cấu tổ chức của Hội liên hiệp phụ nữ huyện Quảng Xương
Hệ thống tổ chức Hội LHPN được thành lập tương ứng với hệ thống đơn
vị hành chính nhà nước, gồm: Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam,
Hội liên hiệp phụ nữ Tỉnh, Hội liên hiệp phụ nữ huyện (thành phố), Hội liên
hiệp phụ nữ xã (phường, thị trấn). Hội liên hiệp phụ nữ có mối quan hệ chặt
chẽ với các tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng thời cũng là một thành viên
của hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cơ cấu tổ chức của Hội LHPN huyện Quảng Xương được tổ chức theo
qui định của điều lệ Hội và quy định về biên chế cán bộ hiện hành.
Cơ quan thường trực: có 6 đ/c, trong đó 01 đồng chí Chủ tịch phụ trách
chung, 02 đồng chí Phó chủ tịch theo dõi các mảng hoạt động chuyên môn của
Hội, 03 đồng chí cán bộ phụ trách trực tiếp các hoạt động chuyên môn. Toàn
huyện có 05 cụm thi đua do 05 đ/c cán bộ cơ quan thường trực phụ trách.
- Về trình độ: Có 1 đ/c có trình độ Thạc sỹ, 05 đ/c có trình độ đại học.
- Về chính trị: 03 đ/c có trình độ cao cấp, 03 đ/c có trình độ trung cấp.
- Về độ tuổi: Dưới 30 tuổi: 01 đ/c, từ 30 tuổi - dưới 45 tuổi: 04 đ/c, trên
45 tuổi: 01 đ/c.
Ban thường vụ Hội phụ nữ huyện: gồm 9 đ/c, trong đó có 5 đồng chí
trong cơ quan Thường trực, 3 đồng chí đại diện các ngành, lĩnh vực trong
huyện và 1 đồng chí ở Hội phụ nữ cơ sở.
Ban chấp hành Hội phụ nữ huyện: có tổng số gồm 33 đ/c trong đó, cán
bộ cơ quan Thường trực 5 đ/c, 4 đ/c đại diện các ngành, lĩnh vực của huyện,
24 đ/c là Chủ tịch Hội phụ nữ cơ sở. Mỗi đ/c trong BCH được phân công phụ
trách từ 1-2 đơn vị, trong đó có đơn vị mình công tác. Hàng tháng đều có báo
cáo và phản ánh tình hình của các đơn vị được phụ trách.
Cấp xã: Toàn huyện có 36 xã, thị trấn trong đó, có 7 xã có công giáo;
Có 359 chi hội phụ nữ và 16 tổ nữ công.
Mỗi xã, thị trấn có 1 Ban chấp hành Hội từ 9 – 13 người, cơ cấu gồm
các chi hội trưởng và các ngành có liên quan như: Dân số, y tế, giáo dục, các
hội đoàn thể khác…
Ở các chi hội có cán bộ chi hội trưởng, các chi hội phó và cán bộ tổ phụ nữ.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy Hội phụ nữ các cấp trong huyện như sau:
Hội Liên hiệp
Phụ nữ huyện
Hội Liên hiệp phụ nữ Hội trực thuộc
xã, thị trấn
Chi hội phụ nữ thôn,
Khối phố
Các tổ phụ nữ
Công tác tập hợp và phát triển hội viên:
- Tổng số hộ có phụ nữ từ 18 tuổi trở lên: 30.502 hộ
- Tổng số phụ nữ từ 18 tuổi trở lên là: 38.232
- Tổng số hội viên: 29.088
- Hội viên tham gia sinh hoạt thường xuyên: 22.837
- Hội viên là công nhân viên chức : 6.350 hội viên
- Hội viên nòng cốt: 18.012
2.2.2. Chất lượng hoạt động của Hội liên hiệp phụ nữ huyện
Quảng Xương
2.2.2.1. Những kết quả đã đạt được
Bám sát Nghị quyết Đại hội Đảng và Nghị quyết Đại hội các cấp, trong
những năm qua, Hội LHPN Quảng Xương đã phát huy vai trò nòng cốt, tích
cực triển khai các hoạt động, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, trọng
tâm là phong trào "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia
đình hạnh phúc" và phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” trong các tầng
lớp PN. Với lực lượng đông đảo, chiếm hơn 50% lao động trên địa bàn toàn
huyện, PN Quảng Xương tích cực tham gia lao động sản xuất, hoạt động xã
hội. Phong trào PN đã có những đóng góp quan trọng vào các lĩnh vực phát
triển kinh tế - xã hội, AN - QP trên địa bàn huyện.
* Trên lĩnh vực kinh tế
Với đức tính cần cù, sáng tạo, chị em phụ nữ tham gia tích cực vào
nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế; học tập, ứng dụng Khoa học kỹ thuật,
đưa giống mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất, chăn nuôi; xây
dựng các mô hình trang trại, gia trại, chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá,
tăng nhanh tỷ lệ lợn hướng nạc, đàn bò lai, ổn định đàn gia cầm tại các địa
phương; thực hiện chương trình xây dựng cánh đồng đạt 50tr đồng/ha/năm,
đề án xây dựng vùng thâm canh lúa năng suất, chất lượng cao, góp phần hoàn
thành mục tiêu 130.000 tấn lương thực/năm.
Tích cực đầu tư mua sắm phương tiện, ngư cụ…phục vụ khai thác, chế
biến và nuôi trồng thuỷ sản, trong đó, nổi bật là các hoạt động: đánh bắt cá ở
Quảng Đại, Quảng Hùng; nuôi thuỷ sản ở Quảng Chính, Quảng Trung; chế
biến thương phẩm nước mắm ở Quảng Nham, Quảng Vinh… thực hiện tốt Nghị
quyết 04/NQ/HU về việc phát triển sản xuất thuỷ sản trên cả 3 mặt, góp phần
tăng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp trong toàn huyện đạt bình quân
6,9%/năm
Tham gia phát triển tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề trong nông thôn;
tranh thủ tạo việc làm, tăng thu nhập bằng các hoạt động duy trì ngành nghề
truyền thống; nhiều chị chủ động tham gia lao động sản xuất trong các nhà
máy, xí nghiệp, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống. Đặc biệt, một số
phụ nữ đã biết vươn lên làm giàu chính đáng, là chủ các doanh nghiệp tư
nhân trên địa bàn huyện, có nhiều đóng góp về tinh thần và vật chất cho sự
phát triển của quê hương, góp phần tăng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp năm 2010 lên 2,5 lần so với năm 2005.
Tham gia ngày càng hiệu quả và có tính chuyên nghiệp trong hoạt động
kinh doanh, dịch vụ. Hệ thống chợ nông thôn trên địa bàn huyện được nâng cấp
và mở rộng, xây mới 3 chợ, bước đầu hình thành một số siêu thị và trung tâm
thương mại, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hàng hoá, vật tư cho sản xuất và
đời sống; doanh thu, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ ngày càng cao,
tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 16,2%. Đời sống vật chất của nhân
dân và hội viên được cải thiện đáng kể.
* Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội
Trong công tác GD&ĐT: Đội ngũ cán bộ, giáo viên nữ chiếm phần lớn
tổng số cán bộ công nhân viên chức trong ngành GD&ĐT. Chị em không
ngừng học tập, trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ, nghiên cứu và áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm trong dạy- học và giáo dục học sinh; đẩy mạnh phong trào
thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” và cuộc vận
động “Hai không” với 4 nội dung. Chất lượng giáo dục toàn diện có nhiều
chuyển biến tích cực, chất lượng đại trà nâng lên, chất lượng mũi nhọn được
chú trọng; số học sinh nữ đến trường đảm bảo công tác phổ cập giáo dục, tỷ
lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp THCS đạt trên 95%, số học sinh đạt giải học
sinh giỏi cấp tỉnh hàng năm luôn đứng trong tốp đầu của tỉnh, số học sinh thi